Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

khảo sát hiệu giá vacxin sởi được sản xuất tại việt nam dùng cho thử nghiệm lâm sàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.39 KB, 47 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA: SINH HỌC
Vũ Thị Hường
KHẢO SÁT HIỆU GIÁ VACXIN SỞI ĐƯỢC
SẢN XUẤT TẠI VIỆT NAM DÙNG CHO
THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP HỆ ĐẠI HỌC TẠI CHỨC
Ngành: Sinh học
Hà Nội – 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA: SINH HỌC
Vũ Thị Hường
KHẢO SÁT HIỆU GIÁ VACXIN SỞI ĐƯỢC
SẢN XUẤT TẠI VIỆT NAM DÙNG CHO
THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP HỆ ĐẠI HỌC TẠI CHỨC
Ngành: Sinh học
Cán bộ hướng dẫn: ThS. BS. Nguyễn Nữ Anh Thu
GS. TS. Phạm Văn Ty
Hà Nội – 2009
Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới ThS.BS. Nguyễn Nữ Anh Thu, phó
phòng Kiểm Định – Trung tâm Nghiên cứu, sản xuất Vacxin và Sinh phẩm Y tế. GS.
TS. Phạm Văn Ty đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi thực hiện khóa luận này.
Trong thời gian học tập và nghiên cứu vừa qua, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ
và tạo điều kiện của thầy cô trong Bộ môn Vi sinh vật học, Khoa Sinh học và các thầy
cô Phòng Đào tạo, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi
xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quý báu đó.
Toàn bộ nội dung nghiên cứu trong luận văn này đã được thực hiện và hoàn


thành tại Phòng Kiểm định, Trung tâm Nghiên cứu, sản xuất Vacxin và Sinh phẩm Y
tế , tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của tập thể cán bộ trong phòng.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ban lãnh đạo Trung tâm Nghiên cứu Sản
xuất Vacxin và Sinh phẩm Y tế. ThS. BS. Đặng Mai Dung Trưởng phòng Kiểm định
Chất lượng Vacxin thuộc trung tâm, nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi học tập và làm việc, sắp xếp thời gian để tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã luôn
quan tâm giúp đỡ và động viên tôi hoàn thành luận văn này.
Vũ Thị Hường
Mục lục
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 - TỔNG QUAN 3
1.1. Virut sởi 3
1.1.1. Phân loại 3
1.1.2. Hình thái học 4
1.1.3. Cấu trúc kháng nguyên 4
1.2. Bệnh sởi 5
1.2.1. Chu kỳ phát triển của virut sởi trong cơ thể bệnh nhân 5
1.2.2. Đáp ứng miễn dịch tự nhiên với virut sởi 7
1.2.3. Biến chứng của bệnh sởi 8
1.2.4. Tình hình mắc bệnh sởi hiện nay 9
1.2.4.1. Tình hình mắc bệnh sởi trên Thế giới 9
1.2.4.2. Tình hình mắc bệnh sởi ở Việt Nam 11
1.3. Phòng và điều trị bệnh sởi 14
1.3.1. Vacxin phòng bệnh sởi 14
1.3.1.1. Vacxin bất hoạt 15
1.3.1.2. Vacxin sống giảm độc lực 15
1.3.1.3. Vacxin sởi kết hợp với vacxin quai bị và rubella (MMR) 16
1.3.2. Điều trị bệnh sởi 17

1.4. Tình hình tiêm chủng vacxin sởi phòng bệnh tại Việt nam 17
1.5. Sản xuất vacxin sởi tại Việt nam 18
1.6. Kiểm định vacxin sởi sản xuất tại Việt nam 19
1.7. Thử nghiệm lâm sàng 19
Chương 2 - VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
2.1. Phương pháp chuẩn độ hiệu giá bằng tạo đám hoại tử 21
2.1.1. Nguyên vật liệu 21
2.1.1.1. Mẫu chuẩn 21
2.1.1.2. Hoá chất, môi trường 21
2.1.1.3. Dụng cụ 21
2.1.1.4. Tế bào sử dụng 22
2.1.1.5. Môi trường sử dụng 22
2.1.2. Quy trình thực hiện 24
2.1.2.1. Chuẩn bị mẫu và mẫu chuẩn 24
2.1.2.2. Pha loãng, gây nhiễm, nuôi 24
2.1.2.3. Phương pháp tính kết quả 26
2.2. Phương pháp khảo sát hiệu giá vacxin sởi dùng cho thử nghiệm lâm sàng 28
2.2.1. Phương pháp lấy mẫu 28
2.2.2. Quy trình chuẩn độ hiệu giá 29
2.2.3. Phương pháp khảo sát 29
Chương 3 - KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 30
3.1. Kết quả xác định hiệu giá vacxin sởi mẫu M-0107 30
3.2. Kết quả xác định hiệu giá vacxin sởi mẫu M-0207 32
3.3 Kết quả xác định hiệu giá vacxin sởi mẫu M-0307 34
3.4 Kết quả xác định hiệu giá vacxin sởi đối chứng (R) 36
KẾT LUẬN 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
MỞ ĐẦU
Bệnh sởi là một bệnh nhiễm trùng cấp tính do virut sởi gây nên, lây nhiễm theo
đường hô hấp và dễ lây thành dịch, đặc biệt là ở trẻ em. Bệnh sởi tuy đã được nhận biết

từ hơn 2000 năm trước đây, nhưng đến năm 860 Zanes mới phân biệt bệnh sởi khác
với bệnh đậu mùa [7]. Vài thập kỷ gần đây, Y học hiện đại đã có nhiều thành tựu trong
việc phòng trừ bệnh dịch. Mặc dù vậy, cho đến nay bệnh sởi vẫn còn là một vấn đề
dịch tễ nghiêm trọng. Ước tính hàng năm trên Thế giới có khoảng 50 triệu trường hợp
nhiễm bệnh và trên một triệu trường hợp tử vong liên quan đến sởi [8,9].
Năm 1954, những thành công của Enders và Peebles trong việc phân lập virut
sởi đã đánh dấu một bước tiến mới trong nghiên cứu bệnh sởi. Việc nghiên cứu dịch tễ
học bệnh sởi đã được thực hiện trên nhiều nước và kết quả cho thấy vacxin sởi có vai
trò then chốt trong việc phòng bệnh sởi. Các chiến dịch tiêm chủng trên diện rộng và
phác đồ tiêm vacxin đã làm giảm đáng kể tỉ lệ mắc bệnh sởi.
Tuy nhiên trong những năm gần đây dịch sởi lại bùng nổ ở nhiều nước như Mỹ,
Anh, Canada, tại các nước đang phát triển, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới châu Phi và
châu Á. Việc phòng chống bệnh sởi còn gặp nhiều khó khăn, dịch bệnh vẫn còn hoành
hành đáng kể. Ở Việt Nam, bệnh sởi vẫn còn là bệnh nguy hiểm đối với trẻ em năm
2000 có 16.200 trẻ em mắc bệnh sởi [2]. Vì thế từ những năm 1982 vacxin sởi đã là
một trong 6 vacxin được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng để gây miễn dịch
chủ động cho trẻ em. Mục tiêu cuối cùng của chương trình này là thanh toán bệnh sởi
trên toàn Thế giới. Muốn thực hiện có hiệu quả chương trình tiêm chủng thì việc đảm
bảo chất lượng vacxin, trong đó có hiệu lực của vacxin là hết sức quan trọng.
Hiệu lực của vacxin sởi được thể hiện bằng hiệu giá virut và được xác định bằng
khả năng gây hủy hoại tế bào cảm thụ Vero của virut vacxin. Hiệu giá là chỉ tiêu quan
trọng quyết định tính sinh miễn dịch và hiệu quả bảo vệ của vacxin. Vì là vacxin sống
giảm độc lực, rất nhạy cảm với ánh sáng và nhiệt độ nên hiệu giá của vacxin sởi dễ bị
1
ảnh hưởng trong quá trình bảo quản và vận chuyển đến người sử dụng nhất là trong
điều kiện khí hậu nhiệt đới của nước ta, do đó ngoài việc kiểm tra hiệu giá của vacxin
khi mới sản xuất ra còn phải giám sát kiểm tra chất lượng, hiệu giá của vacxin trên
thực địa.
Để góp phần vào việc đánh giá chất lượng vacxin dùng trong chương trình tiêm
chủng mở rộng tại Việt Nam, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: “Khảo sát hiệu

giá của vacxin sởi được sản xuất tại Polyvac dùng cho thử nghiệm lâm sàng”. Nhằm
giải quyết 3 mục tiêu:
1. Hiệu giá vacxin Sởi sản xuất tại Polyvac đạt tiêu chuẩn của WHO
2. Hiệu giá vacxin tại bàn tiêm thử nghiệm lâm sàng cũng đạt tiêu chuẩn của
WHO
3. Biến động hiệu giá vacxin trong quá trình vận chuyển vacxin tới địa điểm
tiêm
2
Chương 1 - TỔNG QUAN
1.1. Virut sởi
1.1.1. Phân loại
Virut sởi là một trong 3 thành viên trong chi Morbillivirut thuộc họ
Paramyxoviridae. Họ này gồm 3 nhóm
- Các Paramyxovidae:
+ Para - influenza 1, 2, 3, 4
+ Virut quai bị
+ Virut gây bệnh Newcastle
+ Virut Sendai
- Các virut Pneumo: Virut hợp bào đường hô hấp
- Các virut Morbilli:
+ Virut sởi
+ Virut gây bệnh Carre ở chó
+ Virut dịch hạch bò
Ba virut thuộc chi Morbilli có mối liên quan chặt chẽ với nhau ở những
điểm sau:
- Giống nhau về hình thái, kích thước
- Chúng có đặc điểm chung nổi bật là đều gây hiệu lực hủy hoại trên nuôi
cấy tế bào tạo các hợp bào đa nhân, các tiểu thể trong bào tương và trong nhân
- Ba virut này là các týp đơn. đều gây bệnh giống nhau trên vật chủ mẫn
cảm [20]

3
1.1.2. Hình thái học
Những kết quả nghiên cứu dùng siêu ly tâm và kính hiển vi cho thấy các
virion sởi là những hạt có vỏ bọc, hình cầu, với lõi nucleocapsid hoặc là xoắn
cuộn hoặc là hình sợi chỉ. Đường kính có nhiều kích cỡ, thay đổi từ 120-150 nm,
tính trung bình là 150 nm bao gồm 6 protein. Bên trong của vỏ capsid là chuỗi
ARN là bộ gen di truyền được cấu tạo hình xoắn ốc với 3 protein. Vỏ ngoài cùng
của virut sởi là chất glycoprotein với chất ngưng kết hồng cầu (H) hình nón là
một kháng nguyên lây nhiễm quan trọng của virut sởi và protein F [1].
1.1.3. Cấu trúc kháng nguyên
Norrby và Gollman đã miêu tả 4 cấu trúc kháng nguyên khác nhau của
virut sởi:
- Kháng nguyên kết hợp bổ thể
- Kháng nguyên ngưng kết hồng cầu
- Kháng nguyên tan máu
- Kháng nguyên trung hòa
Trong đó, hai kháng nguyên chính để nhận biết virut sởi là kháng nguyên
ngưng kết hồng cầu và kháng nguyên tan máu [11].
Các nghiên cứu cho thấy kháng nguyên gây ngưng kết hồng cầu là kháng
nguyên gây đáp ứng miễn dịch bảo vệ vì khi tiêm kháng nguyên ngưng kết hồng
cầu tinh khiết cho người và động vật thấy xuất hiện kháng thể sởi với hiệu giá
cao, giống như gây miễn dịch bằng vacxin sởi bất hoạt bởi formalin [4].
Sự tác động giữa kháng nguyên ngưng kết hồng cầu của virut sởi với hồng
cầu khỉ chủ yếu là do phản ứng enzyme vì tốc độ phản ứng ngưng kết hồng cầu
tăng khi nhiệt độ tăng đến 37
0
C [3]. Rất có thể ban đầu enzyme của virut phá hủy
4
một số cấu trúc trên bề mặt hồng cầu, sau đó các thụ thể được bộc lộ, tạo điều
kiện để gây ngưng kết hồng cầu.

Kháng nguyên ngưng kết hồng cầu bền vững với nhiệt độ 60
0
C trong hơn
1 giờ, nhờ ở đặc điểm của vi rút sởi không có hoạt tính neuraminidaza [5].
Các nghiên cứu cho thấy các thụ thể do hoạt tính ngưng kết hồng cầu
của vi rút sởi không bị phá hủy bởi các enzyme phá hủy thụ thể. Các kháng
nguyên ngưng kết hồng cầu cũng không nhạy cảm với các enzyme ARN-aza
và ADN-aza [7].
Kháng nguyên tan máu là một glycoprotein có trên bề mặt vỏ ngoài virut
với chức năng dung hợp tế bào để tạo các hợp bào. Hoạt tính tan máu của virut
sởi có liên quan chặt chẽ với khả năng gây hủy hoại tế bào sớm, nó giúp cho
virut sởi dễ dàng xâm nhập vào bên trong tế bào và tương ứng với khả năng gây
nhiễm của virut.
Kháng nguyên tan máu có pH thích hợp là 8,0 [14].
Kháng nguyên trung hòa nằm ở vỏ ngoài virut và tham gia vào phản ứng
trung hòa [3,6].
1.2. Bệnh sởi
1.2.1. Chu kỳ phát triển của virut sởi trong cơ thể bệnh nhân
Bệnh sởi là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp có khả năng lây nhiễm
cao. Bệnh này hay lây đến nỗi 90% những người tiếp xúc với bệnh nhân sẽ bị lây
sởi nếu chưa tiêm phòng. Virut sởi có ở mũi và cổ họng của bệnh nhân. Họ
thường đã có thể lây bệnh cho người khác 4 ngày trước khi vết đỏ xuất hiện. Khi
bệnh nhân ho, hắt xì, hay nói chuyện, những giọt nước rất nhỏ có chứa virut sẽ
bắn ra không khí và người khác có thể hít vào và họ sẽ bị lây bệnh. Một khi virut
5
sởi vào cơ thể bệnh nhân, chúng thường nhân lên trong những tế bào đường hô
hấp trên. Sau đó bệnh sẽ lan khắp cơ thể kể cả hệ hô hấp và da.
* Triệu chứng bệnh: Khoảng 10 tới 12 ngày sau khi tiếp xúc với virut
sởi, những triệu chứng sau đây có thể xảy ra:
- Sốt, Ho khan, Chảy nước mũi, Mắt đỏ,

- Những nốt rất nhỏ với trung tâm mầu xanh trắng xuất hiện bên trong
miêm mạc má. Những nốt này có tên là đốm Koplik.
- Người mọc ra những đốm đỏ lớn, phẳng, chụm vào nhau
* Diễn biến của bệnh
Giai đoạn ủ bệnh
Thời kỳ ủ bệnh thường kéo dài từ 10 đến 12 ngày là thời gian từ khi
virut gây bệnh sởi xâm nhập vào cơ thể đến khi xuất hiện những dấu hiệu
đầu tiên của giai đoạn tiền triệu. Trong giai đoạn này không biểu hiện triệu
chứng gì của bệnh.
Giai đoạn tiền triệu chứng
Giai đoạn tiền triệu thường kéo dài 3 đến 5 ngày được đặc trưng bởi sốt
mức độ nhẹ đến vừa, ho khan, chảy mũi nước, viêm kết mạc mắt. Những triệu
chứng này hầu như luôn luôn xảy ra trước khi nội ban xuất hiện. Nội ban hay hạt
Koplik là dấu hiệu chỉ điểm của bệnh. Hạt Koplik là những hạt nhỏ bằng hạt cát,
màu trắng ngà, xung quanh có viền đỏ. Hạt thường xuất hiện và biến mất nhanh
trong vòng 12 đến 24 giờ. Kết mạc mắt có thể bị viêm đỏ và có dấu hiệu sợ ánh
sáng.
Giai đoạn phát ban
6
Đây là giai đoạn điển hình nhất của bệnh với triệu chứng phát ban tuần tự
trên da. Ban thường xuất hiện đầu tiên ở vùng chân tóc phía sau tai, sau đó xuất
hiện ở mặt và lan dần xuống phía dưới trong vòng 24 đến 48 giờ. Ban sởi là
những ban dạng dát-sẩn hơi nổi lên trên bề mặt da, sờ mịn như nhung và không
đau, không hoặc ít ngứa, không sinh mủ. Trong trường hợp nhẹ, ban thường
đứng gần nhau nhưng riêng rẽ. Trong trường hợp nặng, ban có xu hướng hợp với
nhau làm thành những ban lớn hơn, thậm chí từng mảng xuất huyết (sởi đen).
Trong thể đặc biệt nặng, ban có thể có dấu hiệu xuất huyết. Khi ban lan đến chân
thì sốt cũng đột ngột giảm đi nếu không có biến chứng. Sau đó ban cũng nhạt
dần và mất đi đúng theo tuần tự nó đã xuất hiện, nghĩa là cũng từ trên xuống
dưới. Sau khi ban mất đi, trên da còn lại những dấu màu sậm lốm đốm như vằn

da báo [10].
Sởi không điển hình
Một số trường hợp bênh sởi biểu hiện không giống như miêu tả ở trên như
trong trường hợp bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, ban có thể không điển hình.
Các trường hợp này thường thấy ở bệnh nhân AIDS, hội chứng thận hư, điều trị
thuốc ức chế miễn dịch.
1.2.2. Đáp ứng miễn dịch tự nhiên với virut sởi
Đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào là biểu hiện quan trọng cả giai
đoạn bệnh lý và phục hồi bệnh. Ức chế đáp ứng miễn dịch đặc hiệu bắt đầu cùng
với những biểu hiện lâm sàng của bệnh, trước khi phát ban và kéo dài trong vòng
vài tuần sau khi hồi phục bệnh. Các kháng thể do đáp ứng miễn dịch tự nhiên
ngay khi ban xuất hiện. Khởi đầu là IgM tiếp sau là các IgG và IgA trong huyết
thanh và dịch tiết. Các kháng thể này sinh ra nhằm chống lại các kháng nguyên
lạ trong cơ thể chúng đạt đỉnh cao vào ngày thứ 7 đến thứ 10 sau khi phát ban,
7
sau đó giảm nhanh và biến mất. Các kháng thể được sinh ra để trực tiếp kháng
lại các protein khác nhau của virut được phát hiện không giống nhau bằng các
xét nghiệm huyết thanh học. Kháng thể với protein N được sản xuất nhanh và
nhiều, được xác định ngay giai đoạn nhiễm trùng tiên phát bằng kỹ thuật kết hợp
bổ thể. Chính vì sự hình thành kháng thể kháng N ở mức độ nhiều như vậy cho
phép nhận định kết quả là âm tính khi không phát hiện được chúng trong huyết
thanh [7]. Sau khi khỏi bệnh, cơ thể chúng ta sẽ có kháng thể chống bệnh nên ta
sẽ không mắc bệnh sởi lại nữa. Nếu bạn sinh trước năm 1957, bạn thường đã có
kháng thể chống bệnh dù chưa hề chủng ngừa. Ðó là vì bạn đã sống qua nhiều
thời kỳ mà bệnh sởi hoành hành rất nhiều và nhiều phần bạn đã có nhiễm virut
dù có thể không lộ ra. Do đó bạn đã có được miễn dịch.
1.2.3. Biến chứng của bệnh sởi
Các biến chứng thường gặp của sởi là viêm tai giữa, viêm phổi, tiêu chảy,
viêm não. Chính các biến chứng này làm kéo dài thời gian bệnh, ảnh hưởng đến
dinh dưỡng của trẻ. Hậu quả là suy dinh dưỡng.

1. Viêm phổi biến chứng gây ra do chính bản thân virut sởi (viêm phổi tế bào
khổng lồ). Viêm phổi do sởi ở bệnh nhân AIDS thường gây tử vong và hiếm khi
có ban điển hình. Thường gặp hơn là bội nhiễm vi khuẩn gây nên viêm phổi. Các
vi khuẩn thường gặp là phế cầu khuẩn, liên cầu khuẩn nhóm A, tụ cầu khuẩn và
Hemophilus Influenzae týp b.
2. Viêm tai giữa là biến chứng luôn luôn phải nghĩ đến ở trẻ mắc sởi.
Nguyên nhân gây bệnh cũng tương tự như trong viêm phổi. Nếu không phát hiện
kịp thời, viêm tai giữa có thể gây thủng màng nhĩ, ảnh hưởng đến thính lực. Đôi
khi viêm tai giữa cấp không được điều trị đúng có thể đưa đến viêm tai giữa mạn
tính với biến chứng nguy hiểm là viêm tai xương chủm và áp xe não.
8
3. Tiêu chảy cũng là biến chứng thường gặp sau mắc sởi, đặc biệt ở những
trẻ suy dinh dưỡng và thiếu vitamin A. Trẻ dễ bị mắc lỵ trực trùng và tiêu chảy
kéo dài. Đôi khi do cơ thể suy kiệt, bệnh nhi dễ có nguy cơ nhiễm trùng huyết
tiêu điểm từ ruột.
4. Viêm loét giác mạc: đây là biến chứng kinh điển và đáng sợ. Trẻ suy dinh
dưỡng và thiếu vitamin A là những đối tượng có nguy cơ cao nhất. Bệnh có thể
diễn biến từ loét gây mờ giác mạc, hỏng toàn bộ giác mạc đến làm mủ trong
nhãn cầu. Hậu quả là giảm thị lực đến mù vĩnh viễn toàn bộ. Biến chứng này
hiện nay cũng đã giảm rõ nhờ điều kiện dinh dưỡng được cải thiện và nhờ vào
chiến dịch bổ sung vitamin A cho cộng đồng.
5. Sởi làm suy giảm chức năng miễn dịch của cơ thể nên có thể tạo điều kiện
cho thể lao tiềm ẩn tái bùng phát mạnh mẽ.
6. Viêm cơ tim cũng có thể xảy ra nhưng hiếm gặp hơn.
7. Viêm não ước tính khoảng 1 - 2/1000 trường hợp mắc sởi. Không có mối
tương quan giữa mức độ nặng của bệnh sởi với khả năng xuất hiện viêm não.
Cũng không có tương quan giữa triệu chứng khởi đầu của viêm não với tiên
lượng của nó. Có hai thể viêm não do sởi. Một thể là do phản ứng miễn dịch
thông qua sự hình thành phức hợp kháng nguyên - kháng thể. Một thể khác là do
sự hiện diện của virut sởi tồn tại trong tế bào thần kinh gây nên viêm não chậm

có thể xuất hiện 5 năm thậm chí 15 năm sau khi mắc sởi.
8. Các biến chứng thần kinh khác là hội chứng Guillain-Barrée, liệt nửa
người, huyết khối tĩnh mạch não, thường ít gặp [11].
1.2.4. Tình hình mắc bệnh sởi hiện nay
1.2.4.1. Tình hình mắc bệnh sởi trên Thế giới
9
Bệnh sởi có mặt ở khắp các nước trên Thế giới. Ở những nước tiêm phòng
vacxin rộng rãi, tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do sởi giảm xuống rõ rệt, tuy nhiên
trong những năm gần đây, bệnh sởi dần quay chở lại và dịch sởi bắt đầu bùng nổ
ngay cả ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Hà Lan, Anh, Trung Quốc.
Theo thống kê, kể từ năm 1995 khi áp dụng hệ thống thống kê bệnh nhân
hiện đại thì số bệnh nhân sởi ghi nhận được ở Anh và xứ Wales vào năm 1998 là
56 trường hợp. Đến năm 2006 số bệnh nhân mắc loại bệnh này tăng lên đột biến:
tính riêng trong năm 2006 số bệnh nhân sởi đã tăng từ 78 tới 740 trường hợp,
năm 2007 đã là 990 trường hợp và trong 9 tháng đầu năm 2008 con số này đã
tăng lên tới 1049 trường hợp.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm có khoảng 30
triệu người trên toàn Thế giới bị nhiễm sởi. Chỉ tính riêng năm 2006, đã có hơn
240 ngàn người, chủ yếu là trẻ em bị tử vong do mắc sởi.
Sở dĩ bệnh sởi trong mấy năm trở lại đây tăng đột biến ở Anh và xứ Wales
là do ngày càng nhiều các ông bố, bà mẹ hoặc là quên, hoặc là từ chối không
tiêm vacxin phòng bệnh sởi, bệnh quai bị, bệnh rubella cho trẻ.
Mà nguyên nhân của vấn đề này là do vào năm 1998 có xuất hiện giả thiết
về khả năng tự miễn dịch với bệnh sởi, bệnh quai bị, bệnh rubella, do đó ít nhiều
có ảnh hưởng đến tâm lý của các bậc cha mẹ. Mặc dù khi đó, các nhà khoa học
đã lên tiếng bác bỏ giả thiết này, song tỷ lệ miễn dịch ở trẻ vẫn ở mức thấp.
Người đại diện của Cơ quan Bảo vệ sức khoẻ cộng đồng của Anh cho biết,
việc trẻ em không tiêm phòng bệnh sởi, bệnh quai bị, bệnh rubella có thể là
nguyên nhân chính dẫn tới sự phát triển nhanh của loại bệnh lây nhiễm này trong
thời gian gần đây.

10
Các chuyên gia dự đoán rằng, chỉ tính riêng ở Anh, số bệnh nhân bị bệnh
sởi có thể tăng lên từ 30.000 đến 100.000 trường hợp/năm. Để ngăn chặn sự lây
lan bệnh truyền nhiễm này sang các khu vực khác cần phải tiến hành tiêm vacxin
mở rộng cho các em học sinh.
Bệnh sởi cũng là một vấn đề nghiêm trọng tại Nhật Bản. Riêng ở
Hokkaido, trong số 541 trường hợp mắc bệnh sởi, trẻ em chiếm khoảng 17,7%,
trong đó trẻ trên 6 tháng tuổi chiếm 68%, 95% số mắc bệnh đều chưa tiêm phòng
vacxin. Điều đó cho thấy sự cấp bách của việc tiêm phòng cho trẻ ngay từ khi
dưới 1 tuổi [16].
Từ vài chục năm nay, với thuốc chích ngừa sởi, bệnh sởi ít xảy ra ở những
quốc gia tiến bộ, chẳng hạn như Mỹ, nhưng vẫn còn là một ám ảnh kinh hoàng
cho những người dân các nước đang phát triển.
Bệnh lại rất hay lây và dễ dàng lan ra từ những người du lịch quốc tế. Hiện
nay trên Thế giới có đến 30 tới 40 triệu trường hợp bệnh sởi xảy ra, gây ra hơn
750.000 cái chết.
1.2.4.2. Tình hình mắc bệnh sởi ở Việt Nam
Hầu như không một người Việt Nam nào không từng nghe nói tới bệnh
sởi. Ðứa bé nào bị mọc nhiều nốt đỏ trong người cũng được cho là đang bị “ban
sởi”. Một đứa bé dưới 5 tuổi có thể bị rất nhiều bệnh có kèm theo triệu chứng nổi
những vết đỏ khắp người và lần nào cũng cho là lên ban, phải kiêng ra nắng gió,
phải kiêng nước, nếu không thì sẽ bị “chạy hậu”.
Tỷ lệ mắc bệnh sởi tại Việt Nam đã giảm rõ rệt trong những năm qua,
đây là hiệu quả của hoạt động tiêm chủng mở rộng (TCMR) được triển khai
rộng rãi trên cả nước. Tuy nhiên cho đến nay bệnh sởi vẫn chưa được loại
trừ tại Việt Nam. Thời tiết sắp chuyển sang mùa đông xuân - mùa bệnh sởi
11
phát triển mạnh nên những hiểu biết về căn bệnh này và cách phòng chống
sẽ giúp cộng đồng hiểu rõ hơn giá trị của việc phòng bệnh bằng vacxin.
Chương trình TCMR đã làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong và mắc bệnh sởi ở

Việt Nam.Tỷ lệ lưu hành bệnh sởi ở Việt Nam hiện đã giảm đến 573 lần so với
trước năm 1985, thời điểm bắt đầu chương trình TCMR. Căn bệnh này đang
được khống chế tốt và dự kiến sẽ bị loại trừ vào năm 2010.
Tình hình bệnh sởi ở Việt Nam thời kỳ trước khi tiêm 1 liều vacxin sởi
trong chương trình TCMR cũng tương tự như ở các nước trên Thế giới. Trong
thời kỳ này được ghi nhận ở miền Bắc Việt Nam với tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất là
65/100.000 người dân (năm 1981), tỷ lệ mắc cao nhất là 137,7/100.000 người
dân (năm 1979) và 125,7/100.000 người dân (năm 1983) và đây là 2 đỉnh của
một chu kỳ dịch sởi cách nhau khoảng từ 4-5 năm. Bệnh sởi lưu hành địa
phương ở mọi nơi trong cả nước và phổ biến ở trẻ em, nhất là ở trẻ dưới 5 tuổi.
Việc gây miễn dịch phòng bệnh sởi bằng một liều vacxin sởi sống giảm
độc lực được bắt đầu trong chương trình TCMR ở Việt Nam từ tháng 10 năm
1985. Sau 5 năm, tỷ lệ tiêm 1 liều vacxin sởi cho trẻ em từ 9 - 11 tháng tuổi đã
tăng dần từ 19% (năm 1985) tới 89% (năm 1989) và tỷ lệ mắc bệnh sởi đã giảm
xuống từ 91/100.000 người dân (năm 1986) xuống 23/100.000 người dân (năm
1989). Từ đó đến năm 2000, tỷ lệ tiêm 1 liều vacxin sởi luôn được duy trì trên
90% và tỷ lệ mắc bệnh sởi đã giảm đến mức thấp nhất là 8,55/100.000 người dân
và cao nhất là 19,01/100.000 người dân (năm 1993) và 23,16/100.000 dân (năm
2000) và đây cũng là 2 đỉnh của một chu kỳ dịch sởi cách nhau khoảng từ 8 - 9
năm của thời kỳ sau khi tiêm vacxin sởi. Như vậy, sau 16 năm thực hiện tiêm 1
liều vacxin sởi cho trẻ em từ 9 - 11 tháng tuổi tỷ lệ mắc bệnh sởi đã giảm xuống
84%, chu kỳ dịch sởi đã kéo dài gấp đôi và tỷ lệ mắc bệnh cao đã được chuyển
12
dịch lên nhóm tuổi cao hơn. Tuy nhiên, bệnh vẫn còn tản phát ở nhiều nơi và vẫn
xảy ra dịch sởi với quy mô có nhỏ hơn thời kỳ chưa tiêm vacxin sởi. Tình hình
này cũng tương tự như ở các nước khác trên Thế giới.
Theo Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cho biết, đến nay có 30 tỉnh, thành phố
có người bị bệnh sởi và sốt phát ban dạng sởi; số ca dương tính sởi là 650.
Tại Hà Nội ngày 23/02 có thêm 29 ca sốt phát ban dạng sởi, tổng số từ đầu
vụ dịch đến nay là 1.235 ca, trong đó 230 ca được xác định dương tính với sởi,

hơn 77% số người mắc ở độ tuổi 18. Dịch sởi đã xuất hiện tại 329 xã, phường
trên tất cả 29 quận, huyện của Hà Nội. Theo Viện Các bệnh truyền nhiễm và
nhiệt đới quốc gia, từ đầu vụ dịch có 15 trường hợp biến chứng nặng do sởi, hiện
vẫn còn năm ca nặng biến chứng viêm não, viêm màng não.
Theo Sở Y tế TP Hồ Chí Minh, đến ngày 23/02, thành phố có 28 trường
hợp mắc bệnh sởi.
Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Hà Tĩnh cho biết, sau nửa tháng triển khai
phòng, chống bệnh sởi ở bản Rào Tre, huyện Hương Khê và ở huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh. Đến nay, dịch sởi cơ bản được khống chế, không có trường hợp
nào mắc thêm. Dịch sởi xuất hiện đầu tiên vào ngày 05/02 ở bản Rào Tre. Người
bệnh là Hồ Thị Lý (26 tuổi). Nhưng những ngày sau đó có thêm ba người bệnh
khác lây bệnh. Và một tuần sau đã có 26 trường hợp mắc bệnh, trong đó người
bệnh hơn 18 tuổi là 10 người. Cũng trong thời gian này, tại huyện Nghi Xuân rải
rác có ba người bệnh mắc bệnh sởi.
Từ ngày 03/02, trên địa bàn huyện Thanh Hà (Hải Dương) có hơn 20
trường hợp có biểu hiện sốt phát ban dạng sởi, chủ yếu tại xã Việt Hồng, Tiền
Tiến, Thanh Hải. Ðộ tuổi của người bị nhiễm bệnh chủ yếu 18-40 tuổi.
13
Từ đầu tháng 2 đến nay, dịch sởi phát triển nhanh tại nhiều địa phương
trong tỉnh Nam Ðịnh. Số liệu của Sở Y tế cho biết, đến ngày 24/02 đã phát
hiện 27 bệnh nhân sốt phát ban dạng sởi, Hiện có 9/10 huyện, thành phố phát
hiện người bệnh mắc dịch sởi, gần đây nhất vào ngày 21/02 Trung tâm Y tế
dự phòng huyện Vụ Bản phát hiện thêm một trường hợp có triệu trứng sốt
phát ban dạng sởi.
Theo Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Phú Thọ, đến nay toàn tỉnh đã phát
hiện 47 người bệnh thuộc 10/13 huyện, thành phố, thị xã mắc sốt phát ban dạng
sởi Hầu hết người bệnh có độ tuổi từ 14 đến 30 [12].
Khi miễn dịch giảm thì nguy cơ mắc bệnh sẽ rất cao. Đó là lý do khiến số
thanh niên mắc bệnh gia tăng. Một điều nguy hiểm nữa là bệnh sởi do virut lây
lan rất mạnh, virut phát tán qua đường hô hấp vào không khí, những người

không có miễn dịch hoặc miễn dịch kém thì khả năng bị lây nhiễm cao.
1.3. Phòng và điều trị bệnh sởi
Sởi thường xuất hiện nhiều vào cuối năm cũ, đầu năm mới. Không chỉ gây
các biến chứng như kiết lỵ ra máu mũi, tiêu chảy kéo dài, viêm phổi, sởi còn có
thể là nguyên nhân gây còi xương, suy dinh dưỡng, thậm chí tử vong ở trẻ dưới 5
tuổi nếu không được điều trị đúng.
1.3.1. Vacxin phòng bệnh sởi
Cách phòng bệnh tốt nhất là tiêm phòng. Phòng bệnh bằng vacxin được
khuyến cáo khi trẻ đủ 9 tháng tuổi, tuy nhiên người ta thấy rằng việc tiêm một mũi
vacxin duy nhất không đủ tạo ra miễn dịch bền vững và rộng rãi trong cộng đồng
vì tỷ lệ trẻ tiêm phòng bệnh sót cũng như tỷ lệ đạt được miễn dịch của vacxin này
cũng chỉ đạt khoảng 90%. Do vậy cần phải tiêm nhắc lại mũi thứ 2, thời gian tiêm
14
là khi trẻ đủ 6 tuổi, độ tuổi bước vào lớp 1. Việc tiêm liều thứ 2 có thể tạo miễn
dịch tới 99%. Chương trình TCMR Việt Nam đã thực hiện mũi nhắc lại này trên
cả nước từ năm 2006. Tại các địa phương còn xuất hiện những vụ dịch sởi nhỏ,
đối tượng mắc không chỉ trẻ em thì cần thiết phải thực hiện những chiến dịch tiêm
nhắc cho người dân khu vực này để tạo miễn dịch lớn và bền vững trong cộng
đồng trong nhiều năm. Có hai loại vacxin phòng bệnh sởi là vacxin bất hoạt bởi
focmalin và vacxin sống giảm độc lực.
1.3.1.1. Vacxin bất hoạt
Vacxin bất hoạt bằng formalin có nguồn gốc từ chủng Edmonston đã được
cấp phép tại Mỹ năm 1963 và được sử dụng cho đến năm 1967.
Phác đồ tiêm chủng là 3 liều vacxin bất hoạt hoặc hai liều vacxin bất hoạt
và một liều vacxin sống được tiêm cách tháng. Vacxin bất hoạt gây đáp ứng
miễn dịch ngắn và có một số phản ứng phụ đặc biệt là mắc sởi không điển hình
nên sau đó ít được sử dụng [16].
1.3.1.2. Vacxin sống giảm độc lực
Chủng virut dùng trong sản xuất vacxin sống giảm độc lực được tạo ra
bằng cách cấy truyền liên tiếp trên các tế bào nuôi cấy để chọn dòng virut đã mất

độc tính nhưng vẫn dữ tính kháng nguyên.
Nhiều loại vacxin giảm độc lực đã phát triển và được sử dụng có hiệu quả
trên Thế giới, bao gồm các chủng Edmonston A và B do Enders phân lập được
dùng rộng rãi nhất hiện nay. Vacxin chế từ chủng Moraten được sử dụng duy
nhất tại Mỹ. Vacxin chế từ chủng Schwarz là sản phẩm chiếm ưu thế tại nhiều
quốc gia khác, ngoài ra một số vacxin được chế từ một số chủng khác giảm độc
nhiều hơn như AIK-C, Schwarz-F88, CAM-70, DT79 đang và đã được sử dụng
tại Nhật [17].
15
Cũng như hầu hết các vacxin khác vacxin được sản xuất từ chủng AIK-C
được sản xuất trong tế bào phôi gà nguyên phát. Loại vacxin này đã bắt đầu được
sản xuất tại Việt Nam, Bộ Y tế đã giao cho Trung tâm Nghiên cứu sản xuất
vacxin và sinh phẩm y tế (POLYVAC) thực hiện dự án sản xuất vacxin sởi tại
Việt Nam. Dự án được thực hiện bằng nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của
chính phủ Nhật Bản. Mục tiêu của dự án là xây dựng một cơ sở sản xuất vacxin
sởi với công suất 7,5 triệu liều/năm đạt tiêu chuẩn GMP của WHO. Công nghệ
sản xuất vacxin do viện Kitasato, Nhật Bản chuyển giao và chủng AIK-C được
lựa chọn để sản xuất vacxin [13].
Hình 1: Vacxin sởi sản xuất tại Việt Nam
1.3.1.3. Vacxin sởi kết hợp với vacxin quai bị và rubella (MMR)
Cũng như nhiều nước trên Thế giới, việc tiêm chủng phòng bệnh sởi
thường được kết hợp với vacxin quai bị và rubella đang được người dân Việt
Nam rất ưa chuộng. Vacxin hỗn hợp này được cấp phép năm 1971. Một liều
MMR (0,5ml) chứa ít nhất 1000 CCID
50
của chủng sởi Moraten, ít nhất 5000
CCID
50
chủng quai bị Jeryl Lynn và ít nhất 1000 CCID
50

chủng virut vacxin
rubella RA27/3. Có thể có vacxin sởi phối hợp với rubella mà không có thành
phần quai bị. Hai loại vacxin MMR khác cũng được cấp phép, một loại có chứa
chủng sởi CAM-70 và loại kia chứa chủng Shawrz F88. Số liệu nghiên cứu miễn
16
dịch và an toàn cho thấy việc kết hợp kháng nguyên sởi và kháng nguyên quai
bị, rubella rất an toàn và hiệu quả [17].
1.3.2. Điều trị bệnh sởi
Hiện nay, chúng ta vẩn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu đối với virut sởi. Vì
vậy, việc chẩn đoán bệnh sớm được đặt ra nhằm ngăn chặn sự lây lan và phát
triển thành dịch ở những nơi đông dân cư.
Bệnh nhân sởi được điều trị không đặc hiệu: chế độ dinh dưỡng, nghỉ ngơi
và điều trị triệu chứng:
+ Cho bệnh nhân dùng những thức ăn giàu chất dinh dưỡng, dễ tiêu hóa,
không cần thiết kiêng cữ. Lưu ý dùng thêm thức ăn nhiều vitamin A để tránh
biến chứng loét giác mạc, mù mắt.
+ Vệ sinh răng miệng, da, mắt.
+ Hạ sốt: Lau mát, thuốc hạ sốt thông thường (Paracetamol, không dùng
Aspirin vì dễ gây hội chứng Reyes).
+ Giảm ho bằng Dextromethorphan, Codein, thuốc long đàm.
+ Kháng Histamin: Pipolphen, Dimedron.
+ Sát trùng mũi họng, nhỏ mắt bằng nước muối sinh lý, vitamin A chống
khô mắt.
+ Chỉ sử dụng kháng sinh khi có biến chứng: viêm thanh quản, viêm phổi.
+ Các biện pháp hồi sức cấp cứu được áp dụng tùy theo tình trạng của
bệnh nhân: thở oxy hỗ trợ, thở máy, hồi sức tim mạch.[10]
1.4. Tình hình tiêm chủng vacxin sởi phòng bệnh tại Việt nam
17
Tất cả trẻ em Việt nam từ 9 – 12 tháng đều được tiêm chủng vacxin sởi để
phòng bệnh sởi. Vacxin sởi là trong các vacxin nằm trong chương trình Tiêm

chủng mở rộng, tiêm miễn phí cho trẻ.
Từ trước tới nay vacxin sởi được khuyến cáo cần tiêm 1 mũi, tuy nhiên
trong thời gian gần đây tình hình mắc Sởi khá phức tạp, do vậy chủ trương của
Chương trình tiêm chủng mở rộng đang thực hiện thí điểm tiêm bổ sung mũi 2
cho trẻ dưới 6 tuổi.
Liều lượng : 0,5 ml/liều, trong đó chứa ≥ 3000 virut sởi/0,5 ml/liều
1.5. Sản xuất vacxin sởi tại Việt nam
Mỗi năm chương trình Tiêm chủng mở rộng cần khoảng 1,5 triệu liều
vacxin sởi cho trẻ trong độ tuổi 9 – 12 tháng tuổi (tiêm mũi 1) và tiêm bổ sung
mũi 2 trong trường hợp cần thiết.
Vacxin sởi sử dụng cho chương trình Tiêm chủng mở rộng hiện nay đều là
vacxin nhập ngoại, lý do là chưa có vacxin sởi sản xuất tại Việt nam.
Năm 2004, Việt Nam nhận được dự án xây dựng cơ sở sản xuất vacxin sởi
do Chính phủ Nhật và tổ chức JICA giúp đỡ bằng nguồn vốn ODA không hoàn
lại. Polyvac là đơn vị được Bộ Y tế chỉ định thực hiện dự án này. Đến tháng
4/2006 nhà máy xây dựng hoàn thành, bắt đầu giai đoạn chuyển giao công nghệ
sản xuất vacxin sởi. Tháng 11/2007, 3 loạt vacxin đầu tiên sản xuất thành công,
được cấp chứng chỉ chất lượng và được phép sử dụng tiêm thử nghiệm trên
người tình nguyện (thử nghiệm lâm sàng).
Chủng sản xuất vacxin sởi là chủng AIK-C, được sản xuất trên trứng gà
sạch nhập khẩu từ Đức. Vacxin sởi sản xuất tại Polyvac là vacxin sống giảm độc
lực đông khô.
18
1.6. Kiểm định vacxin sởi sản xuất tại Việt nam
Vacxin sởi sản xuất tại Polyvac có chất lượng theo tiêu chuẩn của Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) quy định, sản phẩm thành phẩm sau khi đông khô sẽ
được kiểm tra chất lượng thông qua 6 thử nghiệm sau :
1) Thử nghiệm vô trùng
2) Thử nghiệm nhận dạng
3) Thử nghiệm hiệu giá và ổn định nhiệt

4) Thử nghiệm độ ẩm tồn dư
5) Thử nghiệm an toàn chung trên động vật
6) Thử nghiệm quan sát trạng thái vacxin
Thử nghiệm hiệu giá của vacxin sởi là thử nghiệm nhằm xác định hàm
lượng virut sởi. Có nhiều phương pháp chuẩn độ hiệu giá như :
- Chuẩn độ vi lượng, gây nhiễm trên tế bào cảm thụ Vero kín 1 lớp, quan
sát đám hoại tử và tính hàm lượng virut theo công thức Kaber hoặc Reed -
Muench, đơn vị tính CCID
50
/0,5 ml (liều huỷ hoại 50% tế bào).
- Phương pháp tạo đám hoại tử, gây nhiễm trên tế bào cảm thụ Vero kín 1
lớp, nhuộm và đếm số lượng đám hoại tử, tính hàm lượng virut, đơn vị tính
PFU/0,5 ml.
Hiện tại Polyvac đang sử dụng phương pháp tạo đám hoại tử để chuẩn độ
hiệu giá vacxin sởi sản xuất tại cơ sở.
Theo tiêu chuẩn của WHO, vacxin sởi phải chứa ≥ 3000 CCID
50
/ liều /
0,5 ml (hoặc ≥ 3000 PFU / liều). Tương đương ≥ 3 lg CCID
50
/ liều / 0,5 ml
(hoặc ≥ 3 lg PFU / liều)
1.7. Thử nghiệm lâm sàng
19
Theo quy chế cấp phép sử dụng vacxin của Bộ Y tế, mọi vacxin mới đều
phải qua giai đoạn thử nghiệm lâm sàng, là giai đoạn thử nghiệm trên người tình
nguyện nhằm đánh giá: tính an toàn và tính sinh miễn dịch nhằm bảo vệ người
tiêm vacxin không mắc bệnh sởi.
Vacxin sởi sản xuất tại Polyvac mặc dù có quy trình công nghệ giống với
vacxin đang sản xuất tại Nhật Bản, nhưng chưa từng được sử dụng tại Việt Nam

nên cũng được coi như là vacxin mới, bắt buộc phải thực hiện thử nghiệm lâm
sàng trên người tình nguyện.
Tất cả trẻ tình nguyện đều được kiểm tra sức khỏe và lấy máu kiểm tra
kháng thể sởi trước khi tiêm, sau tiêm 6 tuần lấy máu để kiểm tra kháng thể sởi,
đánh giá mức độ đáp ứng miễn dịch.
20

×