Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.56 KB, 55 trang )

CHƯƠNG I
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ
1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái
niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và
cực nhỏ được du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh
nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự

phát triển của khu vực này trong nhiều năm qua. Định nghĩa về doanh
nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rừ ràng phải dựa trước tiên
vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân công, vốn
đăng kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng
chương trỡnh phỏt triển khỏc nhau.
Ở Việt Nam đó giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần nào. Công
văn số
681 /CP-KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó doanh nghiệp nhỏ
và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh
doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá giữa VND và
USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây dựng
một bức tranh chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phục vụ
cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép
phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vỡ
vậy, tiếp theo đó Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và
vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh
độc lập, đó đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng
ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bỡnh hàng năm không
quá 300 người”. Các doanh nghiệp cực nhỏ được quy định là có từ 1 đến 9
nhân công, doanh nghiệp có từ 10
đến 49 nhân công được coi là doanh


nghiệp nhỏ.
2.
Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu và
quy định khác nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại doanh
nghiệp có hai nhóm: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí
định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp như chuyên
môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp...
Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản ch
ất của vấn đề nhưng
thường khó xác định trên thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ sở
để tham khảo trong, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực
tế. Nhóm tiêu chí định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như số lao động, giá
trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
Số lao động: có thể lao động trung bỡnh trong danh sỏch, lao động
thường xuyên, lao động th
ực tế;
Tài sản hay vốn: có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn)
cố định, giá trị tài sản cũn lại;
Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm
(hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này).
Trong các nước APEC tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao
động. Cũn một số tiờu chớ khỏc thỡ tuỳ thuộc vào
điều kiện từng nước.
Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ
mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Trỡnh độ phát triển kinh tế của một nước: trỡnh độ phỏt triển càng
cao thỡ trị số cỏc tiờu chớ càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có
400 lao động ở Việt Nam không được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ

nhưng
lại được tính là SME ở CHLB Đức. Ở một số nước có trỡnh độ phát triển
kinh tế thấp thỡ cỏc chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa
và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển.
Tớnh chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành, có ngành sử
dụng nhiều lao động như dệt, may, có ngành sử dụ
ng ít lao động nhưng
nhiều vốn như hoá chất, điện... Do đó cần tính đến tính chất này để có sự so
sánh đối chứng trong phân loại các SME giữa các ngành với nhau. Trong
thực tế, ở nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm
ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Ngoài ra có thể dùng khỏi niệm
hệ số ngành (I
b
) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau.
Vựng lónh thổ: do trỡnh độ phát triển khác nhau nên số lượng và quy
mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (I
a
) để
đảm bảo tính tương thích trong việc so sỏnh quy mụ doanh nghiệp giữa cỏc
vựng khỏc nhau.
Bảng : Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước
TÊN NƯỚC TIấU CHÍ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
ÚC
- Sản xuất : dưới 100 LĐ
- Phi sản xuất: dưới 20 LĐ
MỸ
- Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ
- Doanh nghiệp vừa: 101-499 LĐ
NHẬT
- Sản xuất:dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên

- Bán lẻ, dịch vụ: dưới 50 LĐ hoặc dưới 10 triệu Yên
CHLB ĐỨC - Dưới 500 LĐ
ĐÀI LOAN
- Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 300 LĐ
- Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500 LĐ
- Thương mại, vận tải và dịch vụ khác: dưới 40 triệu NT$ doanh thu,
dưới 50 LĐ
(Nguồn : tổng hợp từ dữ liệu sưu tầm được qua các trang web trên mạng)
Tớnh lịch sử:
một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng
với quy mô như vậy, hiện tại hoặc tương lai có thể được coi là vừa hoặc nhỏ.
Như vậy trong việc xác định quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng
trưởng quy mô doanh nghiệp trung bỡnh (I
d
) trong từng giai đoạn. Hệ số này
chỉ được sử dụng khi xác định quy mô doanh nghiệp cho các thời kỡ khỏc
nhau.


Mục đích phân loại: khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau
tuỳ theo mục đích công việc phân loại.
Như vậy có thể xác định được quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc
một ngành hoặc một địa bàn cụ thể theo công thức sau:
F(S
ba
) = I
b
* I
a
*S

a
/ I
d

Trong đó:
F(S
ba
): quy mụ một doanh nghiệp thuộc một ngành và trờn một lónh thổ
cụ thể.
I
b
,I
a
,I
d
: tương ứng là hệ số vùng, ngành, hệ số tăng trưởng quy mô doanh
nghiệp;
S
a
: quy mô vừa và nhỏ chung trong một nước.
Cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ cú vai trũ quan trọng trong nền kinh tế một
quốc gia, khu vực và toàn cầu. Cỏc ưu thế và nhược điểm của loại hỡnh
doanh nghiệp này sẽ được trỡnh bày dưới đây nhằm đem lại một cái nhỡn
sõu vào bản chất của loại hỡnh này, cho phộp ta định ra hướng đi rừ ràng
trong việc xác đị
nh hướng phát triển cho loại hỡnh này.
3.Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ cú những lợi thế rừ ràng, đó là khả năng
thoả món nhu cầu cú hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh
hướng sử dụng nhiều lao động với trỡnh độ lao động kỹ thuật trung bỡnh

thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các
nhu cầu và thay
đổi của thị trường. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước
vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của cỏc doanh nghiệp lớn (do
quy mô doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất,
những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn
không đáp ứng vỡ mối quan tõm của họ đặt ở các thị trường có khối lượng
lớn. Doanh nghi
ệp vừa và nhỏ là loại hỡnh sản xuất cú địa điểm sản xuất
phân tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm mạnh:

- Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén
với thay đổi của thị trường.
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng khụng lớn, các
điều kiện sản xuất đơn giản là đó cú thể bắt đầu hoạt động. Vũng quay sản
phẩm nhanh nờn cú thể sử dụng vố
n tự cú, hoặc vay bạn bố, người thân dễ
dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng
thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ cảu nó, doanh nghiệp có
thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng chuyển
đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén
trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống
động trong phát triển kinh tế.
- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro
cao.
Đó là bởi vỡ cỏc doanh nghiệp loại này cú mức vốn đầu tư nhỏ, sử
dụng ít lao động nên có khả năng mạo hiểm sẵn sàng mạo hiểm. Trong
trường hợp th
ất bại thỡ cũng khụng bị thiệt hại nặng nề như các doanh
nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên cạnh đó các doanh nghiệp vừa

và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới này: do tính chất nhỏ bé về
quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây
chuyền hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộ
c kinh
doanh mạo hiểm.
- Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu
quả với chi phí cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản
cố định cũng ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho
phép. Đồng thời doanh nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế
vốn. Với chiến lược phát triển, đầu tư đúng đắn,sử dụng hợp lý cỏc nguồn
lực của mỡnh, cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đạt được hiệu quả kinh tế
- xó hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng tốt và có
sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh
của doanh nghi
ệp có nhiều hạn chế.
- Khụng cú hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người
lao động.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm. Số
lượng lao động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động
trong xí nghiệp chưa quá mức rừ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động
và người lao động khá gắn bó. Nếu xảy ra xung đột, mâu thuẫn thỡ dễ dàn
xế
p.
4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cỏc hạn chế của loại hỡnh doanh nghiệp này đến từ hai nguồn. Các
hạn chế khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến từ chính
các lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của SMEs nằm trong chính đặc điểm
của nó, đó là quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm

vào tỡnh trạng thiếu vốn trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay
tiến hành đổi mới, nâng cấp tr
ang thiết bị.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc vào doanh nghiệp
mà nó cung cấp sản phẩm.
- Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc
biệt là các công nghệ đũi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh trên thị trường.
- Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp,
thiế
u bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản
phẩm, thiếu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển,... nói cách khác là không
đủ năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao
được năng suất và hiệu quả kinh doanh.
- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trườngÆcác doanh nghiệp
vừa và nhỏ thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trườ
ng.
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập
và mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương
doanh nghiệp đó đang hoạt động.
- Cũng do tớnh chất vừa và nhỏ của nú, SMEs gặp khó khăn trong
thiết lập chỗ đứng vững chắc trong thị trường
5. Vai trũ của doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Tạo ra nhiều vi
ệc làm với chi phớ thấp
Các cơ sở doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với các phương
pháp tiết kiệm vốn và do đó chúng được công nhận là phương tiện giải quyết
thất nghiệp hiệu quả nhất
Thứ nhất
, do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp

loại này thường phân tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho
nhiều vùng địa lý và nhiều đối tượng lao động, đặc biệt là với các vùng sâu,
vùng xa, vùng chưa phát triển kinh tế, với các đối tượng lao động có trỡnh
độ tay nghề thấp. Nhờ vậy chúng vừa giải quyết thất nghiệp vừa góp phần
giảm dũng người chuyển về thành phố tỡm việc làm.
Thứ hai
, do tớnh linh hoạt, uyển chuyển dễ thớch ứng với các thay
đổi của thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong trường hợp có
biến động xảy ra, các doanh nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm chạp, không
phải vỡ cấp quản lý bất tài mà bởi vỡ doanh nghiệp lớn thỡ khú xoay trở
nhanh. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động, sau đó sẽ phả
i sa thải
bớt lao động để cắt giảm chi phí đến mức có thể tồn tại và phát triển được
trong điều kiện cung lớn hơn cầu. Trong khi đó do khả năng linh hoạt, có thể
thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
vẫn có thể tồn tại được mà không phải sử dụng đến biện pháp cắt giảm lao
động.
Bảng : Tỷ
trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước Châu Á
TÊN NƯỚC
THU HÚT LAO ĐỘNG
(%)
GIÁ TRỊ GIA TĂNG
(%)
Singapore 35.2 26.6
Malaysia 47.8 36.4
Hàn Quốc 37.2 21.1
Nhật Bản 55.2 38.8


(Albert Bery: Các hoạt động kinh doanh vừa và nhỏ dưới tác động
của tự do hoá thương mại và tỷ giá: kinh nghiệm của Canada và Mỹ Latinh,
1996)
b. Cung cấp cho xó hội một khối lượng hàng hoá đáng kể về cả chất
lượng, số lượng và chủng loại
Các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lượng lớn lao động
và tài nguyên của xó hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh
tranh trực tiế
p với các công ty và tập đoàn lớn, hàng hoá của họ nói chung
thiên về sự đa dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có
nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến vào nhiều thị trường
nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vỡ doanh thu từ đó quá nhỏ.
c. Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh
Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn
làm việc trong các công ty lớn mà muốn mở công ty riêng để tiện đường
vùng vẫy. Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ rất thích hợp đối với họ
trong việc thử sức của mỡnh. Bờn cạnh đó các công ty tư nhân lớn nói
chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên. Tập đoàn Microsoft của tỷ
phú Bill Gates cũng do ông ta xây d
ựng dần lên. Ông ta vào lúc 20 tuổi vẫn
cũn là một người chưa có nhiều tài sản, bỏ học đại học để mở doanh nghiệp
riêng của mỡnh. Chưa đầy 30 năm sau đó trở thành người giàu nhất thế giới,
là một điển hỡnh của người làm giàu dựa vào năng lực của mỡnh.
Cỏc cụng ty nhỏ là cũn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các
công ty l
ớn. Các nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý
rất cần thiết, được công ty lớn đánh giá cao như là:
Điều hành kinh doanh Quan hệ với khỏch hàng
Kiểm soỏt và quản lý nhõn viờn Quy định xuất nhập khẩu
Quản lý thời gian Công nghệ thông tin hiện đại

Điều hành văn phũng Các quy định về thuế
Hậu cần Hệ thống cung cấp và phõn phối
B
ỏn hàng và tiếp thị Luật lệ cụng ty
Xỳc tiến sản phẩm và dịch vụ Bỏn hàng
Định giá và lợi nhuận Quan hệ với quan chức chớnh phủ

Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc ở các công ty lớn và việc đào
tạo chúng cho người lao động cần thời gian. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ thực
hiện “hộ” khâu này. Nhân viên công ty nhỏ sau một thời gian có được kinh
nghiệm rồi sẽ được các công ty lớn thu nhận.
d. Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương
Nhỡn chung cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ được mở ra ở
địa phương nào
đều có công nhân và chủ doanh nghiệp là người ở địa phương đó. Khi các
doanh nghiệp loại đó được mở ra thỡ người dân lao động ở địa phương có
công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Kết cục là quỹ tiền tiết kiệm-đầu tư
của địa phương đó được bổ sung.
e. Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn
Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của
các đơn vị kinh tế nh
ỏ hơn chúng vỡ một nguyờn nhõn đơn giản là quy mô
của chúng quá lớn. Quy luật của vật lý là khối lượng một vật càng lớn thỡ
quỏn tớnh của nú càng lớn. Cũng vậy, cỏc đơn vị kinh tế càng to lớn thỡ
càng thiếu tớnh linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng nhanh, nói cách khác là
sức ỡ càng lớn.Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớ
n nguồn lao động và tài
nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không
bắt kịp và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một nền
kinh tế có một tỷ lệ thích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên

“nhanh nhẹn” hơn, phản ứng kịp thời hơn. Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ
được nâng cao.
f. Cải thiệ
n mối quan hệ giữa cỏc khu vực kinh tế khỏc nhau
g. Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng
trưởng kinh tế
Một nền kinh tế bao giờ cũng cú “vựng biờn giới”, “vùng sâu”, “vùng
xa”. Đó là các khu vực địa lý hoặc cỏc thị trường có quy mô nhỏ, kém phát
triển, hoặc là xa tuyến giao thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường
bỏ qua các khu vực đó vỡ cho rằng nguồn lợi thu
được từ đó không lớn bằng
nguồn lợi thu được từ nơi khác với cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là
chi phí cơ hội của vùng đó cao. Nếu một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp
lớn thỡ điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không đều giữa các vùng,
không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế
cũng như gây ra các thi
ệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thỡ chi phớ cơ hội của các vùng này là chấp nhận
được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vỡ vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây
nếu có các chính sách ưu đói thớch hợp của chớnh quyền địa phương.
h. Giữ gỡn và phỏt huy cỏc ngành nghề truyền thống, th
ể hiện bản
sắc dõn tộc
Trong quỏ trỡnh hiện đại hoá, công nghiệp hoá các ngành nghề truyền
thống đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt, giữa chế tạo sản phẩm thủ
công với sản xuất dây chuyền hàng loạt. Một ví dụ như: thợ đóng giày có
thể đóng những đôi giày rất bền dùng được hàng năm không hỏng . Nhưng
trong thời hiện đại phải đối mặt với các xí nghi
ệp sản xuất giày có sản phẩm
không bền lắm, đổi mới theo mùa và giá rẻ hơn so với giày thủ công. Một

thợ thủ công hay vài người thỡ khụng thể đương đầu được với các doanh
nghiệp lớn đó. Muốn tồn tại được các thợ thủ công phải hợp nhau lại thành
lập doanh nghiệp, sau đó quảng cáo xa rộng để tỡm đến các khách hàng
tiềm năng của các sản ph
ẩm thủ công. Trong xó hội luụn tồn tại nhu cầu đối
với các sản phẩm truyền thống, vấn đề là phải làm cho những khách hàng đó
biết đến sản phẩm của mỡnh.
Loại hỡnh doanh nghiệp vừa và nhỏ cú thể núi là rất thích hợp cho
sản xuất thủ công. Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản
xuất, kinh doanh, quảng cáo. Bên cạnh đó công nghệ tiên ti
ến cũng sẽ dần
tiếp cận vào các ngành nghề này. Và đó cũng là một điều cần phải xẩy ra
trong thời đại công nghiệp.
Cụ thể hơn ta hóy hỡnh dung một cảnh như sau: một số thợ đóng giày
hợp nhau lại thành một doanh nghiệp. Trong thành phố địa phương của họ
chỉ có một số nhỏ khách hàng ưa thích loại giày đóng thủ công và sẵn sàng
trả
giá (dù là cao) để đi loại giầy này Æcầu nhỏ. Doanh nghiệp đó đáp ứng
được nhu cầu đó. Sau đó doanh nghiệp tiến hành một chiến dịch quảng cáo
trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên Internet. Sau một thời gian
các khách hàng có nhu cầu tương tự ở tại các thành phố khác trong cả nước
liên lạc đặt mua. Tiếp sau nữa là các khách hàng nước ngoài ưa thích kiểu
dáng giày quảng cáo trên Internet cũng liên lạc đặt mua. Bên cạnh đó các
nghệ
nhân cũng sử dụng thêm một số công nghệ mới để hỗ trợ thêm cho
việc chế tạo giày như là dùng máy tính để tạo hỡnh sản phẩm trước,... Trong
quá trỡnh phỏt triển đó họ tiếp cận và làm quen với các kỹ thuật và công
nghệ mới. Tuy khách hàng địa phương của họ không nhiều nhưng khách
hàng trên toàn cầu chiếm một lượng đủ để họ tồn tại được tr
ước thách thức

của những đôi giày hiện đại giá rẻ rất mốt được sản xuất hàng loạt kia.

6. Phỏp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Bảng : Hệ thống các nhóm văn bản luật pháp trực tiếp liên quan
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tờn của luật và
chớnh sỏch
Luật bị thay thế Nội dung chớnh
Nghị định số 90/NĐ-
CP về chính sách trợ
giúp phát triển các
doanh nghiệp nhỏ và
vừa (2001)
Nghị định đưa ra một chính sách đặc biệt
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, là chính
sách hỗ trợ bổ sung cho phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Luật Doanh nghiệp
(1999)
Luật Công ty và
Luật Doanh
nghiệp tư nhân
(21-12-1990),
Nghị định số
66/HĐBT ngày 2-
3-1992 cho các
hộ kinh doanh cá
thể
Luật Doanh nghiệp 1999 và Nghị định số
02/2000 hướng dẫn việc thực thi Luật

Doanh nghiệp, đưa ra khuôn khổ pháp lý
hiện đại đầu tiên cho tất cả các doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh trong nước:
Luật quy định việc thành lập các công ty
qua việc đăng ký kinh doanh tự giỏc, hơn
là thông qua phê chuẩn và cấp phép của
chính phủ.
Luật Phỏ sản Doanh
nghiệp (1993)
Luật quy định cơ sở để đánh giá các doanh
nghiệp bị phá sản, các thủ tục yêu cầu và
tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Luật Thuế giá trị gia
tăng
Luật Thuế doanh
thu
Luật này xác định mức thuế giá trị gia tăng,
là mức thuế tính trên giá trị hàng hoá và
dịch vụ trong quỏ trỡnh sản xuất, lưu thông
và tiêu dùng.
Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp (1999)
Luật Thuế lợi tức Các đối tượng chịu thuế thu nhập của
doanh nghiệp được quy định bởi luật này là
thu nhập của tổ chức và cá nhân có hoạt
động sản xuất và kinh doanh. Tỷ lệ thuế
thu nhập của doanh nghiệp theo quy định
của Luật là 32 % ngoại trừ một số trường
hợp đặc biệt.
Bộ luật Lao động

(1999), Nghị định
77/2000/NĐ-CP có
hiệu lực từ ngày 1-1-
2001
Bộ luật Lao động điều chỉnh các mối quan
hệ lao động tại doanh nghiệp. Mức lương
tối thiểu trong các doanh nghiệp ở Việt
Nam là 210 000 VNĐ
Luật khuyến khích đầu
tư trong nước (1994)
Xác định những ưu đói đầu tư trong nước
vào các vùng có khó khăn về kinh tế-xó hội
và cỏc hoạt động kinh tế chiến lược, bao
gồm về đầu tư tạo nhiều việc làm mới.
Luật Thương mại
(1997)
Văn bản luật pháp quy định hoạt động
thương mại tại Việt Nam
Sắc lệnh về hợp tác
chuyển giao công nghệ
(1998). Nghị định
45/1998/NĐ-CP
Khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho hoạt động
chuyển giao công nghệ, quy định những
chi tiết của việc chuyển giao công nghệ.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DNVVN TẠI VIỆT NAM

Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ
khá lâu, trải qua nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trường
khác nhau mà nhìn chung là chịu sự ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố chính
là cuộc trường kỳ kháng chiến kéo dài gần một thế kỷ và những quan điểm
chính trị thời kỳ hậu chiến tranh.
Giai đoạn trước năm 1945, khi mà Việt nam còn nằm trong ách thống
trị của thực dân Pháp thì c
ũng đã tồn tại một số lượng đáng kể các doanh
nghiệp mà lúc đó là các cơ sở, các xưởng sản xuất nhỏ chủ yếu tập trung vào
các lĩnh vực nông nghiệp, các nghề thủ công truyền thống. Các mặt hàng
giai đoạn nay phần lớn vẫn ở dạng nguyên sơ nhưng cũng đáp ứng được nhu
cầu củ nhân dân trong hoàn cảnh rất đặc biệt của thờ
i kỳ đô hộ, thậm chí
nhiều hàng còn được gửi đi triển lãm ở một số nước phương Tây thời bấy
giờ.
Trong giai đoạn từ cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công và cả
nước bước vào giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn
tại cả ở vùng ta và vùng địch, đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã
đóng góp vai trò đáng kể, vừa phục vụ nhu cầu thời chiế
n của nhân dân, vừa
đáp ứng nhu cầu hậu cần cho kháng chiến lâu dài.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy, cả miền bắc bắt tay vào xây
dựng lại đất nước trên con đường xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất
nhanh và nhiều trong giai đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đường lối
chính trị hình thức hợp tác xã, tổ hợp tác kinh doanh được khuyến khích
phát triển, còn các DNVVN dưới hình thức sở hữ
u tư nhân thì bị loại trừ,
trong khi đó loại hình DNVVN tư nhân ở miền Nam lúc đó lại rất phát triển.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 và đến trước đại hội VIII.
Điểm đáng lưu ý trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế

tư nhân là hình thức bị kỳ thị và các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân
buộc phải quốc hữu hoá, DNVVN của tư nhân b
ị cải tạo, xoá bỏ, không
khuyến khích phát triển. Nếu muốn tồn tại thì phải tồn tại dưới dạng khác
như dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công tư hợp danh.
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một
bước ngoặt, Đại hội VI đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, thừa nhận sự tồ
n tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác
nhau, thay đổi quan điểm với kinh tế tư nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi
trọng. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản
xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ,
thương mại ra đời và phát triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nước đ
ã ban hành nhiều văn
bản pháp quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể,
doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước. Đáng chú ý là
Nghị quyết 16 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định
27, 28, 29 /HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình;
Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, Công văn số
681/CP-KTN ngày 20/6/98 về
định hướng chiến lược và chính sách phát
triển DNVVN và một loạt các Luật như: Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư
nhân mà nay hai Luật này đã được gộp lại thành Luật doanh nghiệp (1999),
Luật hợp tác xã, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư
trong nước(1994), Luật đầu tư nước ngoài(1989) đã tạo điều kiện và môi
trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
Trong thời gian qua, nhiều cơ quan khoa họ
c, cơ quan quản lý và
nhiều địa phương nghiên cứu về DNVVN như: Bộ kế hoạch và đầu tư

(MPI), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương(CIEM), Phòng thương
mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), Hội đồng liên minh các hợp tác xã
Việt Nam(VCA), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh; nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về chính
sách hỗ trợ DNVVN đã được tổ ch
ức, và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế,
các dự án hỗ trợ về tài chính và khoa học cho DNVVN, trong đó có Viện
Friedrich Ebert (FES) của CHLB Đức, Ngân hàng hợp tác và phát triển Nhật
bản (JBIC), Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Dự án hỗ trợ của phòng
hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA), Chương trình phát triển dự án Mekong về
DNVVN (MPDF). Bên cạnh đó, Cũng có rất nhiều trung tâm ra đời với mục
đích hỗ trợ các DNVVN, đó là Trung tâm xúc tiến DNVVN thuộc Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt nam (SME PC/VCCI) ở số 9 Đào Duy
Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất
lượng (SMEDEC) ở số 8 Hoàng Quốc Việt, Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ
DNVVN (BPSC) ở số 7 Nguyễn Thái Học, Câu lạc bộ DNVVN Hà nội(
HASMEC) ở số 418 Bạch Mai…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN vẫn gặp
không ít những khó khăn, vướng mắc, và nhằm đáp ứng yêu cầu c
ủa sự
phát triển kinh tế của đất nước, chính phủ đã có Nghị định 90/2001/CP-ND
ngày 23/11/2001 về chính sách trợ giúp, phát triển DNVVN trong đó quy
định rõ khái niệm, tiêu chí xác định DNVVN ở Việt Nam, khẳng định tầm
quan trọng của DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước và các biện pháp, các chính sách hỗ trợ DNVVN phát triển. Chính phủ
còn giao cho MPI đứng lên làm đầu mối phối hợp các Bộ, các ngành và
địa
phương tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo “Chiến lược và chính sách
phát triển DNVVN”, đề xuất giải pháp thực hiện để chính phủ xem xét và
phê duyệt .

Nghị định cũng quy định việc thành lập “Cục Phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ” trực thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư, để giúp Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch - Đầu tư thực hiện ch
ức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến phát triển
DNVVN; thành lập “Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN” làm nhiệm
vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích
phát triển DNVVN; thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN” thuộc
các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhằm
thực hiện các chương trình trợ giúp một cách thi
ết thực và có hiệu quả;
khuyến khích, tạo điều kiện để các DNVVN tham gia các hiệp hội doanh
nghiệp đã có và thành lập các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, nhằm triển
khai các hoạt động kể cả thu hút các nguồn lực từ nước ngoài để trợ giúp
một cách thiết thực, trực tiếp cho DNVVN , các dịch vụ về thông tin, tiếp thị
mở rộng thị trường, đào tạo, công ngh
ệ... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các DNVVN.
Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lượng doanh nghiệp của các
thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng DNVVN
trong khu vực Nhà nước giảm liên tục, thì số lượng DNVVN trong khu vực
tư nhân trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lượng
lao động trên tổng số, đóng góp cho GDP và tỷ trọng trong tổng đầu tư xã
hội cũng tăng nhanh (Xem bảng 5). Quan niệm về kinh tế tư nhân cũng có
nhiều đổi mới, không còn cái nhìn kỳ thị như trong giai đoạn bao cấp, với tư
tưởng giáo điều và tả khuynh, coi kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế
tiêu cực, là tàn dư của chế độ cũ, là bóc lột, ăn bám…, Đến nay, kinh tế t
ư
nhân thực sự đã được coi là “một bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế Việt nam”.
Các DNVVN ở Việt nam, mà đại diện tiêu biểu là khu vực kinh tế tư

nhân và hộ cá thể, đã trải qua 2 bước ngoặt tính từ giai đoạn đổi mới. Bước
ngoặt thứ nhất có thể xem như cởi trói cho doanh nghiệp là vào cuối thập
niên 80, đầu thập niên 90 khi nhà nước ban hành Lu
ật Đầu tư nước
ngoài(1989), Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật doanh
nghiệp tư nhân, Luật công ty(1990), tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của
nhiều loại hình doanh nghiệp. Theo VCCI thì trong giai đoạn 1991-1999,
mỗi năm nền kinh tế Việt nam tăng thêm 3.388 doanh nghiệp.
Có thể xem xét tình hình tổng hợp của khu vực kinh tế tư nhân (đại
diện cho các DNVVN) qua một số các chỉ tiêu chính như số lượng các
doanh nghiệp t
ư nhân, số lượng và tỷ lệ lao động so với xã hội, mức đóng
góp vào tổng sản phẩm quốc nội (GPP), đầu tư phát triển mức độ đóng góp
vào đầu tư phát triển cả nước trong vài năm gần đây theo bảng dưới đây.
Trong khi mà chưa có một nguồn nào cung cấp số liệu thống kê chính thức
riêng cho khu vực DNVVN thì các số liệu thống kê về khu vực kinh tế tư
nhân có th
ể xem như đại diện cho các DNVVN, vì như nói từ phần đặc điểm
các DNVVN tại Việt nam, khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu
nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh.
Bảng : Số liệu kinh tế về khu vực kinh tế tư nhân
(Đại diện cho các DNVVN).
Số liệu về khu vực kinh tế tư nhân

évt

1996

1997


1998

1999

2000

1. Số lượng đơn vị


1.1.Doanh nghiệp của tư nhân

DN

20.272

21.032

20.578

22.767

29.519

- Cụng nghiệp

DN

5.832

6.073


5.927

6.049

6.979

- Thương nghiệp dịch vụ

DN

12.695

13.010

12.494

14.234

17.506

- Cỏc ngành khỏc

DN

1.745

1.949

2.157


2.484

5.034

1.2. Hộ cỏ thể

hộ

2.016.259 1.949.836 1.981.306

2.054.178

2.137.713
- Cụng nghiệp

hộ

616.855

608.250

583.352

608.314

645.801

- Thương nghiệp dịch vụ


hộ

1.102.619 1.022.385

1.058.542

1.088.606

1.109.293
- Cỏc ngành khỏc

hộ

296.785

319.201

339.412

357.258

382.619

2. Lao động


- Tổng số

người 3.865.163 3.666.825


3.816.942

4.097.455

4.643.844
- Tỷ lệ so với tổng lao động xó
hội

%

11,2

10,3

10,3

10,9

12

2.1.Doanh nghiệp của tư nhân

DN

354.328

395.705

435.907


539.533

841.787

- Cụng nghiệp

DN

233.078

252.657

273.819

322.496

498.847

- Thương nghiệp dịch vụ

DN

60.936

63.050

62.470

96.720


151.433

- Cỏc ngành khỏc

DN

60.314

79.998

99.618

120.317

191.507

2.2 Hộ cỏ thể

DN

3.510.835 3.271.120

3.381.035

3.557.922

3.802.057
- Cụng nghiệp

DN


1.524.708 1.403.205

1.350.152

1.464.013

1.622.381
- Thương nghiệp dịch vụ

DN

1.531.638 1.388.701

1.455.351

1.501.636

1.584.391
- Cỏc ngành khỏc

DN

454.489

479.214

575.532

592.273


595.285

3. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP)


- Tổng số toàn quốc

tỉ
đồng
272.036

313.623

361.017

399.943

444.140

Trong đó doanh nghiệp của tư
nhân và cá thể

tỉ
đồng
77.481

87.475


98.625

106.029

119.337

Tỷ lệ trong tổng GDP toàn quốc

%

28,48

27,89

27,32

26,51

26,87

3.1 Doanh nghiệp

tỉ 19.602

21.920

25.304

27.975


31.733

đồng
- Cụng nghiệp

tỉ
đồng
4.609

5.278

6.367

7.179

8.626

- Thương nghiệp dịch vụ

tỉ
đồng
7.565

8.564

10.238

11.203

12.397


- Cỏc ngành khỏc

tỉ
đồng
7.428

8.078

8.699

9.593

10.710

- Tỷ lệ trong tổng GDP

%

7,21

6,44

7,01

6,99

7,14

3.2 Cỏ thể


tỉ
đồng
57.879

65.555

73.321

78.054

87.604

- Cụng nghiệp

tỉ
đồng
9.261

10.658

11.804

12.662

15.491

- Thương nghiệp dịch vụ

tỉ

đồng
17.381

19.728

22.878

24.865

27.393

- Cỏc ngành khỏc

tỉ
đồng
31.237

35.169

38.639

40.527

44.720

- Tỷ lệ trong tổng GDP

%

21,28


20,90

20,31

19,52

19,72

4. Vốn đầu tư phát triển


- Tổng số toàn xó hội

tỉ
đồng

131.171

147.633

Trong đó: Doanh nghiệp của tư
nhân và cá thể

tỉ
đồng

31.542

35.894


Tỷ lệ trọng tổng số toàn xó hội

%


24,05

24,31

4.1 Doanh nghiệp của tư nhân

tỉ
đồng

5.628

6.627

% Trong tổng số toàn xó hội

%


4.29

4.49

4.2. Cỏ thể


tỉ
đồng

25.914

29.267

Tỷ lệ trong tổng số toàn xó hội

%


19,76

19,82

Nguồn: Tổng cục Thống kờ
Bước ngoặt thứ hai bắt đầu kể từ khi Luật doanh nghiệp được ban
hành vào1/1/2000. Trong vòng một năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có
hiệu lực có 14.417 doanh nghiệp mới được thành lập với tổng vốn đăng ký
đến hơn 24.000 tỷ (tương đương với 1,65 tỷ USD, trong đó 17.000 là vốn
đăng ký mới và 7000 là vốn đăng ký bổ sung của các doanh nghiệp đang
hoạt động, tức là tăng hơn ba l
ần nếu xét về số lượng doanh nghiệp và hộ
kinh doanh, và tăng hơn năm lần nếu xét về số vốn so với năm 1999. Năm
2001, có thêm hơn 21.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh
nghiệp, tăng 1,46 lần so với năm 2000, tổng số vốn huy động được của các
doanh nghiệp đạt khoảng 35.000, tăng gấp 1,78 lần so với cùng kỳ năm
2000. Có thể thấy tình hình năm 2001 như sau:
Bảng : Tổng hợp số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân dến

năm 2001
Đên 31/12/2000 Đến 30/9/2001
Loại DN 31/12/98 31/12/99
Tổng
số
đăng

Đang
hoạt
động
Báo
nghỉ
KD
Tổng
số
đăng

Đang
hoạt
động
Báo
nghỉ
KD
Cty TNHH
9.375 13.850 21.031 20.255 776 29.160 28.356 804
Cty cổ phần
582 933 1.718 1.668 50 2.986 2.928 58
DNTN
18.751 22.794 28.719 27.277 1.442 33.925 32.459 1.466
Tổng số

28.708 37.577 51.468 49.200 2.268 66.071 63.743 2.328
Nguồn: Bộ Tài chính
Về cơ cấu của các DNVVN hiện nay, xuất phát từ điều kiện lịch sử
kinh tế xã hội, DNVVN ở Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế,
trong đó phần lớn tập trung trong ba lĩnh vực chính: các DNVVN trong lĩnh
vực công nghiệp, các DNVVN trong thương mại dịch vụ và các DNVVN
hoạt động ở khu vực nông thôn. Sau đây sẽ nghiên cứu cụ thể các doanh
nghiệp trong từng l
ĩnh vực kể trên.
1. DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp
Từ sau năm 1986, do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài quốc
doanh trong lĩnh vực công nghiệp ra đời, các DNVVN lúc này tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau như công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh
nghiệp tư nhân, kinh tế hộ gia đình, kinh tế quốc doanh. Số lượng DNVVN
cũng tăng dần.
Về cơ cấu phân bố theo vùng: Các DNVVN chủ yếu tập trung ỏ
Miền Nam Việt nam (81%), Số DNVVN tập trung ở miền Bắc chỉ chiếm
12,6% tổng số các DNVVN trong công nghiệp.
Về ngành nghề kinh doanh: Các DNVVN trong công nghiệp tồn tại
ở 4 nhóm ngành chính sau là
+ Nhóm ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống: ngành này trong thời
gian qua đ
ã có những thay đổi mạnh mẽ, các giá trị công nghiệp và văn hóa
đã hình thành, những mặt hàng của ngành này đã trở thành một trong các
mặt hàng có thế mạnh của Việt nam. Tuy nhiên do góc độ truyền thống và
văn hóa, sự hội nhập của nhóm ngành này hạn chế bởi tính chất manh mún,
quy mô nhỏ, khác biệt văn hóa, cho nên thị trường xuất khẩu rất khó khăn
đòi hỏi phải tìm được những phân đoạn thị trườ
ng ngách.
+ Nhóm ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô: như khoáng sản,

hải sản, lâm sản. Trong những năm qua, sự hội nhập của nền kinh tế Việt
Nam nói chung, DNVVN nói riêng vẫn dựa rất lớn vào nhóm ngành này-
đây là thực trạng cần được đánh giá và điều chỉnh để hình thành chiến lược
cơ cấu ngành bảo đảm hiệu quả cao của quá trình hội nhập. Việc tham gia
hội nhập bằng tài nguyên khai thác m
ột mặt đạt hiệu quả kinh tế - xã hội
thấp, mặt khác còn làm cho nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên không tái
tạo bị suy kiệt, ảnh hởng nghiêm trọng cân bằng sinh thái.
+ Nhóm ngành chế biến, lắp ráp: mặc dù mang lại ý nghĩa xã hội
trong việc tạo ra nhiều chỗ làm việc song giá trị thụ hưởng chủ yếu mới chỉ
dừng lại ở giá trị gia công (phải mua nhiều yếu tố đầu vào từ bên ngoài). Từ

đó, tác dụng tích lũy, thúc đẩy nền kinh tế hạn chế. Đặc biệt sẽ chịu nhiều
rủi ro của các biến động tiền tệ của khu vực và quốc tế.
+ Nhóm ngành chế tạo sản phẩm kỹ thuật cao: (máy móc, điện tử,
hóa chất, thiết bị đo lường, động cơ...) có thể coi là mới bắt đầu. Hiện tại
nhóm ngành này còn phụ thuộc nhiề
u vào đầu tư tài chính, công nghệ kỹ
thuật và trình độ quản lý của nước ngoài. DNVVN thuộc lĩnh vực công
nghiệp Việt Nam còn thể hiện sự đuối sức ở nhóm ngành này, bởi không chỉ
lý do tài chính mà còn vì sự tụt hậu của năng lực nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng. Đây chính là nhóm ngành mà trong chiến lược lâu dài
của quá trình hội nhập cần được đặc biệt quan tâm. Chúng cần được phân
công và hợp tác một cách khoa học và hiệu quả để tham gia nhiều nhất
nguồn lực vào quá trình cạnh tranh khu vực và quốc tế
Về lao động: Có quy mô khá nhỏ, phần lớn các DNVVN có số công
nhân< 100 người( chiếm hơn 90%). Theo con số của tổng cục thống kê thì
trong lĩnh vực sản xuất cơ bản các DNVVN chiếm 36% tổng số lao động.
Trong lĩnh vực xây dựng là 51%.
Về công nghệ: cũng không khác so với tình hình chung của các doanh

nghiệp Việt nam, nói chung là lạc hậu, lỗi thời, tỷ lệ đổi mới công nghệ
thấp.
Trình độ công nghệ lạc hậu, yếu kém thể hiện ở năng lực vận hành, tiếp thu
công nghệ, đổi mới công nghệ thấp. Khả năng nghiên cứu triển khai tạo sản
phẩm mới cũng không tốt.
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: Toàn bộ các DNVVN ( cả Nhà
nước cũng như ngoài quốc doanh và kể các các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nướ ngoài) tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp hàng năm.
Trong đó, bộ phận bộ phận DNVVN ngoài quốc doanh tạo ra 25% giá trị
sản lượng công nghiệp.

Bảng : Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1998
Doanh nghiệp trong công
nghiệp
Tổng số
(Tỷ đồng)
Ước tính phần của DNVVN trong
từng loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước
trong công nghiệp
69.588,4 20% 12.917,7
Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
33.148,2 60% 19.888,9
Doanh nghiệp có vốn nước
ngoài
47.948,0 5% 2.397,4
Tổng 150.684,6 31% 46.712,04
Nguồn: Giải pháp phát triển các DNVVN tại Việt nam-GS-TS Nguyễn
Đình Hương chủ biên-NXB chính trị quốc gia.

Trong 8 tháng đầu năm nay(năm 2002), tốc độ tăng trưởng sản xuất
công nghiệp của khu vực ngoài quốc doanh đạt 19,2% so cùng kỳ năm trước
(tốc độ tăng trởng công nghiệp chung đạt 14,5%) so với mức chung14%,
khu vực nhà nước là 11,7%, khu vực nước ngoài tăng 13,1%. Có thể thấy
tình hình đóng góp của các DNVVN qua tình hình đóng góp của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh 8 tháng đầu năm 2002 như sau:
Bảng : Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vào mức tăng
sản lượng công nghiệp 8 tháng đầu năm 2002
Thực hiện (Tỷ đồng)

7 tháng đầu
năm 2002
ước tính
tháng 8/2002
Cộng dồn 8
tháng đầu
năm 2002
Thỏng
8/2002 so
với thỏng
8/2001
8 tháng đầu
năm 2002 so
với cùng kỳ
2001 (%)
Tổng số
149219 23636 172855 114.2 114.0
Phõn theo khu vực và thành phần kinh tế
Khu vực doanh nghiệp
Nhà nước

59798 9379 69177 111.1 111.7
Trung ương
Địa Phương
39634
20164
6212
3617
45846
23331
111.7
109.7
112.6
110.2
Khu vực ngoài quốc
doanh
35846 5792 41638 119.6 119.2
Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài
53575 8465 62040 114.2 113.1
Dầu mỏ và khí đốt 15402 2100 17502 87.7 96.1
Cỏc ngành khỏc 38173 6365 44538 126.8 121.6
Nguồn
Về thị trường: Một thị trường nội địa đông dân với sức tiêu thụ lớn là
cơ hội rất tốt cho các DNVVN ở Việt nam. Tuy vậy, với tình hình nhập lậu
tràn lan như hiện nay thì cơ hội cạnh tranh là rất khó cho các DNVVN nói
chung và các DNVVN trong công nghiệp nói riêng. Cạnh tranh xét cả theo
nghĩa cạnh tranh đối với hàng nhập lậu với giá rẻ, và cạnh tranh với cả
doanh nghiệp lớn trong nền kinh t
ế.Thêm vào đó là khả năng tiếp cận thị
trường chưa cao, chất lượng sản phẩm hạn chế .

Chính phủ cũng không ngừng có những bước tiến tích cực trong việc
tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ bên ngoài nói chung và từ các quốc
gia đang phát triển nói riêng. Hoạt động hợp tác cùng phát triển, chia sẻ kinh
nghiệm giữa Việt nam và các nước không ngừng được tăng cường và củng
cố. Việt nam hiện đã có nhiều quan hệ với các nước về phát triển lĩnh vực
DNVVN, đáng kể trong số đó là Italia, Đức, Nhật…Ngày 22/5/2000, tại Hà
nội đã diễn ra “Hội thảo DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp - kinh
nghiệm của Italia và Việt nam” do Bộ Công nghiệp, Văn phòng đại diện
của UNIDO và Đại sứ quán Italia tổ chức, qua đó phía Italia cũng chia sẽ
với Việt nam những kinh nghiệ
m quý báu của mình trong việc phát triển
DNVVN. Ngày 6/12/2000 cũng tại Hà Nội, Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam phối hợp với Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (ZDH) của
Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức hội thảo" Hợp tác giữa Chính phủ và
doanh nghiệp nhằm hỗ trợ phát triển DNVVN"
Bên cạnh đó có dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN trong lĩnh vực
công nghiệp sản xuất
đá ốp lát đã triển khai ngày 4/12/2000 do Trung tâm
xúc tiến hợp tác quốc tế (ICPC), Liên minh các hợp tác xã Việt nam, Liên
minh Châu Âu và Liên đoàn thủ công nghiệp và dịch vụ Italia
(Confartigianato) cùng phối hợp thực hiện. Dự án có nguồn vốn 140.000
EURO trong đó phía EU tài trợ 80%, mục tiêu của dự án này là nhằm tạo
ra một liên hiệp xuất khẩu cho các DNVVN trong lĩnh vực đá ốp lát của
Việt nam.Qua dự án này, các DNVVN sẽ nắm bắt được những thông tin cần
thiết v
ề hoạt động xuất nhập khẩu, kỹ năng sản xuất và cung cách làm ăn
của các nước EU, mở ra hướng mới cho xuất khẩu của Việt nam sang EU.
2. DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Ngành thương mại dịch vụ, với những lợi thế riêng của nó như vốn
đầu tư ít, khả năng thu hồi vốn nhanh, mức lợi nhuận hấp dẫn, thị tr

ường đa
dạng...đã và đang thu hút được một số lượng không nhỏ các DNVVN.
Về vốn: Với đặc trưng là thị trường cung ứng vốn chủ yếu là thị
trường tài chính phi chính thức, các chủ doanh nghiệp sử dụng vốn tự có,
hoặc vay mượn của ban bè, người thân...nên các DNVVN gặp khó khăn rất
nhiều trong vấn đề vốn. Các DNVVN trong dịch vụ cũng nằm trong tình
trạng chung của các DNVVN là khó có kh
ả năng tiếp cận đến nguồn vốn
của ngân hàng.
Về lao động: Nếu như một trong những đặc điểm nổi bật của các
DNVVN nói chung là thu hút nhiều lao động thì các DNVVN trong lĩnh vực
thương mại dịch vụ lại không hoàn toàn như vậy. Xuất phát từ tính đặc thù
của ngành thương mại dịch vụ là ngành ít đòi hỏi lao động. Các DNVVN
chưa thực sự góp phần quan trọng vào việc giải quyết lực lượng lao động dư
thừa nhiều ở nước ta hiện nay.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ tuy
chưa phải là cao nhưng lại cao hơn hiệu quả hoạt động của các DNVVN
trong l
ĩnh vực công nghiệp. Theo thống kê của Tổng cục thống kê năm 1998
thì trong khi bình quân một lao động trong các DNVVN công nghiệp tạo ra
doanh thu 14,6 triệu VND với mức lãi 0,4 triệu VND thì con số này tại các
DNVVN thương mại dịch vụ là 75,8 triệu và 1,3 triệu tiền lãi, tức là bằng
407% và 125% so với cách DNVVN công nghiệp. Hạn chế ỏ đây là mặc dù
doanh thu rất cao nhưng lãi thì không hơn bao nhiêu so với các DNVVN
công nghiệp.
Về cơ cấu: Các DNVVN thương mại dịch vụ
tập trung quá đông ở các
thành phố, đô thị và kinh doanh một số ngành như nhau. Một số các công ty
đi sâu chuyên doanh mặt hàng ngành hàng nhưng vẫn còn trùng lặp. Một số

các công ty thực hiện chuyên doanh ổn định, còn tuyệt đại đa số thì kinh
doanh tổng hợp.
Về kinh doanh:Thiếu sự hợp tác kinh doanh giữa các DNVVN, quản
lí chồng chéo không có sự đồng nhất theo đầu mối ngành nghề nên hiệu quả
kinh doanh thấp. Hoạt động củ
a các DNVVN không mang tính bổ sung, hợp
tác mà mang tính cạnh tranh gay gắt do sự tập trung quá đông các DNVVN
tại cùng một địa điểm, cùng một lĩnh vực kinh doanh.

3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn.
Với đặc trưng là một nền kinh tế nông nghiệp đi lên thì hiển nhiên là
trong chiến lược phát triển DNVVN để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thì vai trò của các DNVVN ở khu vực nông thôn có ý nghĩa rất quan
trọng. Bộ mặt của các DNVVN đã thay đổi phần nào qua dự án VIE/816 do
UNDP tài trợ trong vòng 4 năm từ 11/1997 đến 2001.Hiện nay, các ngành
nghề nông thôn thu hút hơn 5 triệu lao động nông nhàn và 11 triệu lao động
phi nông nghiệp. Năm 2000, đã tạo ra hơn 4000 tỷ đồng giá trị sản lượng,
90% tiêu thụ nội địa và 10% xuất khẩu.
Các DNVVN ở khu vực nông thôn với đại diện phổ biến là các doanh
nghiệp hộ gia đình và các doanh nghiệp tư nhân
Về vốn: Vốn bình quân rất thấp cả về tương đối và tuyệt đối so với
các DNVVN nói chung.Theo báo cáo của Viện bảo hộ lao động và các vấn
đề xã hội - NXB Khoa học và Kỹ thuật , Hà nội , 1998 thì :Với doanh
nghiệp hộ gia đình vốn bình quân là 921 USD, với doanh nghiệp tư nhân thì
là 2.153 USD, vốn thấp không chỉ hiểu là như cầu về vốn ở các DNVVN
khu vực nông thôn thấp mà còn hiểu ở sự thiếu hỗ
trợ tín dụng.
Về thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Thị trường chủ yếu được phân
làm hai loại là thị trường địa phương và thị trường ở các thành phố lớn.
Một điểm sáng trong quá trình phát triển các DNVVN ở nông thôn,

nhằm bắt tay vào tìm tiếng nói chung cho các DNVVN khu vực này, ngày
16/8/2002 tại Hà nội, Đại hội thành lập “ Hiệp hội các DNVVN khu vực
nông thôn Việt nam” do VCCI tổ chức đã khai mạc vớ
i sự tham gia của hơn
100 DNVVN khu vực nông thôn. “Hiệp hội các DNVVN khu vực nông
thôn” ra đời nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển ngành nghề
nông thôn, hỗ trợ bảo vệ lẫn nhau, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nghiên
cứu khoa học, thông tin kinh tế, thị trường, xúc tiến thương mại, đầu tư, thúc
đẩy quan hệ hợp tác thương mại trong nước và quốc tế, giữ gìn và phát triển
các làng nghề truyền thống, đầu tư
thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nâng
cao năng suất cây trồng, vật nuôi, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Hiệp hội cũng đã thông qua nhiệm
kỳ 2002-2007, tập trung vào một số lĩnh vực phổ biến như thông tin kinh tế,
trao đổi góp ý về các cơ chế, chính sách, đào tạo và tư vấn, tổ chức phát
triển DNVVN ở các địa phươ
ng, tạo nhịp cầu giao thương phát triển.
II. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH VĨ MÔ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
CÁC DNVVN
Một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự tồn tại và
phát triển của các DNVVN là vấn đề cơ chế chính sách, môi trường hành
lang pháp lý cho hoạt động của các DNVVN. Dưới đây là những nét chính
khái quát về ảnh hưởng của một số chính sách vĩ mô đến hoạt động và phát
triển của DNVVN Việt nam.
1. Tác động của chính sách thương mại
Trước hết, về vấn đề khởi s
ự tiến hành sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, các DNVVN cũng đã được “cởi trói” qua quy định mới về việc tiến
hành đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp được quy định tại Luật
doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 20/6/1999,

có hiệu lực từ 1/1/2000 đã luật hoá các quy định thành lập doanh nghiệp
theo hướng bãi bỏ cơ chế xin phép thành lập, chủ đầu tư chỉ đăng ký kinh
doanh với hồ sơ hết sức đơn giản, xoá bỏ mọi kiểm tra kiểm soát trước khi
thành lập, tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư nhanh chóng tiếp cận thị
trườ
ng, việc giám sát kiểm tra của nhà nước chuyển sang giai đoạn sau đăng
ký kinh doanh. Luật doanh nghiệp cũng xoá bỏ vốn pháp định ở hầu hết các
ngành nghề ( chỉ còn áp dụng đối với một số ngành nghề như Ngân hàng,
Bảo hiểm..) đã tạo điều kiện cho các DNVVN ra đời thuận lợi, giảm tối
thiểu các chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp.
Kế đó, sự đổi mới chính sách th
ương mại theo hướng “mở cửa”,
không ngừng đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, tăng cường
thu hút vốn đầu tư nước ngoài với chiến lược vốn đầu tư trong nước có vai
trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đã là một trong
những nhân tố quyết định trong đổi mới kinh tế, đóng góp đáng kể vào tình
hình đổi mới kinh tế
ở Việt nam trong những năm gần đây.
Chính sách thương mại của Việt nam đã đạt được những tiến bộ đáng
kể trong suốt giai đoạn vừa qua, đặc biệt với sự ra đời của Luật Thương mại
có hiệu lực từ 1-1-1998 và nghị định số 57/CP hướng dẫn thi hành Luật
Thương mại ngày 31/7/1998 đã cải thiện đáng kể các điề
u kiện tiếp cận
thương mại quốc tế của các DNVVN. Thêm vào đó là việc tham gia vào
hàng loạt các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới như
ASEAN(1995), APEC(1998)…và đặc biệt là ký được Hiệp định thương mại
song phương với Hoa kỳ vào 20/7/2001 và mở đường cho việc gia nhập
WTO đã được cụ thể hoá bằng nhiều biện pháp cải tổ thương mại theo
hướng tự do hơn, h
ội nhập hơn cũng là những thuận lợi và cũng là chứa

đựng những thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp nói chung và
DNVVN nói riêng.
a. Điều kiện tham gia xuất nhập khẩu của các DNVVN được cải
thiện theo cơ chế thông thoáng hơn.
Điều kiện tham gia hoạt động xuât nhập khẩu đã thực sự được mở ra
cho tất cả các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Nghị định
57/CP đã cho phép tất c
ả các doanh nghiệp được tham gia hoạt động xuất
nhập khẩu trong phạm vi kinh doanh đã đăng ký mà không cần phải có giấy

×