Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Nghiên cứu thực trạng và đề xuất được một số giải pháp cho sự phát triểncủa các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - Thị xã PhủLý - tỉnh Hà Nam trong thời gian ba năm 2001- 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.14 KB, 84 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước xu thế hội nhập và phát triển, đất nước ta đang nỗ lực thực hiện
thành công tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để xây dựng nước
ta thành một nước công nghiệp có lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa tương đối
phát triển phù hợp với quan hệ sản xuất với mục tiêu tạo tiền đề cho bước phát
triển cao hơn hướng tới dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn
minh. Trong chiến lược phát triển kinh tế quốc dân dài hạn mọi thành phần kinh
tế đều được khuyến khích phát triển, đặc biệt nông nghiệp và nông thôn với gần
75% dân số và tới 70% lực lượng lao động cả nước luôn là mối quan tâm hàng
đầu trong các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Xuất phát điểm là
một nước nông nghiệp lạc hậu sau nhiều năm chiến tranh tàn phá nặng nề, gần
hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới mà Đại hội VI đã đề ra, bộ mặt nông
thôn Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực, kinh tế liên tục tăng
trưởng và phát triển, nền sản xuất gắn dần với thị trường tiêu thụ cơ cấu kinh tế
chuyển biến tích cực giảm dần tỷ trọng nông nghiệp kém hiệu quả, đời sống
nhân dân ngày càng cải thiện.
Tuy nhiên nông thôn Việt Nam đang đứng trước những khó khăn thử
thách: đất canh tác trên đầu người thấp, thiếu việc làm, lao động dư thừa, kinh tế
nông thôn chưa phát triển vững chắc nhiều hộ nông dân chậm phát triển thu
nhập thấp. Trong khi đó địa bàn nông thôn có tỷ lệ sinh cao, hàng năm có thêm
hơn một triệu lao động bổ sung, xu hướng đô thị hoá, sự cách biệt ngày càng xa
giữa thành thị và nông thôn.
Xuất phát từ thực tiễn đó cũng như nhiều nước trên thế giới đã gặp phải
trong quá trình phát triển cho thấy phát triển nông thôn tất yếu phải phát triển
ngành nghề, các ngành nghề này bao gồm công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công
nghiệp, nghề truyền thống gia truyền, đặc biệt là việc chế biến nông sản những
điều này sẽ tạo ra lối thoát cho vòng luẩn quẩn đói nghèo – tăng dân số – thiếu
việc làm – tệ nạn xã hội – kém phát triển – đời sống thấp. Đảng và Nhà nước
Website: Email : Tel : 0918.775.368


đang nỗ lực thực hiện thành công nghị quyết VIII mà ban chấp hành trung ương
khoá VII đề ra: “Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn với phương châm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp giá trị thấp rủi ro cao
sang các ngành công nghiệp và dịch vụ có hiệu quả và phù hợp từng vùng từng
địa phương tường đơn vị kinh tế, gắn kết với việc phát triển cơ sở hạ tầng áp
dụng khoa học kỹ thuật phát huy lợi thế và tiềm năng sẵn có giảm chi phí sản
xuất tăng cường năng lực cạnh tranh chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hướng
ly nông bất ly hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá một cách bền vững, tường
bước cải thiện đời sống nhân dân, giảm dần sự cách biệt giữa thành thị và nông
thôn”.
Xã Liêm Chính là một xã thuộc địa giới hành chính của thị xã Phủ Lý –
tỉnh Hà Nam, những năm gần đây bộ mặt kinh tế xã hội của địa phương có sự
chuyển biến tích cực: kinh tế không ngừng tăng trưởng phát triển, lực lượng sản
xuất ngày càng lớn mạnh, cơ cấu kinh tế biến đổi tích cực theo hướng tăng dần
vai trò của ngành nghề phi nông nghiệp, văn hoá đời sống nhân dân tăng lên.Tuy
nhiên trong quá trình phát triển của mình địa phương vẫn chưa tận dụng tốt lợi
thế của mình đặc biệt trong phát triển các ngành nghề công nghiệp,
Công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước đề ra đã đem lại sự chuyển biến
tích cực bộ mặt kinh tế xã hội cả nước, nền kinh tế nước ta vốn là một nền kinh
tế thuần nông phải nhập khẩu lương thực thường xuyên thì đến năm 1989 không
những đủ cung cấp nhu cầu trong nước mà trở thành nước xuất khẩu lương thực
lớn của thế giới; cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ nền kinh tế mỗi năm tăng trưởng cao. Nhân dân
bây giờ không phải lo thiếu ăn, thiếu mặc nữa mà lo sao làm giàu chính đáng
cho mình và cho xã hội, đó cũng là câu hỏi đang được các cấp các ngành quan
tâm cố gắng tìm ra lời giải tốt nhất.
Xuất phát điểm từ một nền kinh tế thuần tuý dựa vào nông, lâm, ngư
nghiệp thì không thể phát triển nhanh được, không tạo được những tích luỹ cần
thiết để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Do đó muốn đẩy nhanh

Website: Email : Tel : 0918.775.368
công nghiệp hoá hiện đại hoá phải đẩy nhanh công nghiệp hoá nông thôn mà hộ
nông dân là một chủ thể chủ yếu ở nông thôn điều này đòi hỏi phải:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng xoá dần
tính chất thuần nông, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Việc phát
triển công nghiệp nông thôn đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản cho phép
nâng cao chất lượng và sản lượng nông sản, nâng cao giá trị kinh tế của các
nông sản hàng hoá cho tiêu dùng và xuất khẩu.
- Phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất và đời sống xã hội như giao thông, thuỷ
lợi, điện, thông tin, cơ sở công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, cơ sở y tế,giáo dục
làm thay đổi bộ mặt nông thôn, giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
- Áp dụng các tiến bộ kỹthuật, các phát triển khoa học nhằm tăng hiệu quả
sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng, nâng cao lợi thế so sánh trên thị
trường tiêu thụ, giảm lao động thủ công nặng nhọc.
- Phát huy những kinh nghiệm được truyền tụng từ những người trước
làm tăng phẩm chất sản phẩm, giảm chi phí, tăng năng lực cạnh tranh, giữ vững
được truyền thống của địa phương.
Xây dựng và phát triển nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn là một vấn
đề lớn và phức tạp, nó liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành. Đề tài này nhằm
triển khai chiến lược “Lấy việc khai thác tiềm năng về địa lý gần trung tâm tỉnh,
chế biến nông sản – nghề truyền thống đang có thế mạnh ở địa phương làm
trọng tâm phát triển kinh tế hộ…” mà lãnh đạo địa phương đang hết sức cố gắng
thực hiện. Vì vậy đề tài này mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng và đề xuất được một số giải pháp cho sự phát triển
của các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - Thị xã Phủ
Lý - tỉnh Hà Nam trong thời gian ba năm 2001- 2003.
b. Mục tiêu cụ thể
. Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề phát triển ngành nghề

cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
. Đánh giá thực trạng phát triển các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa
bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm từ 2001 đến
2003.
. Bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các ngành nghề
trong hộ nông dân trong địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam ở
những năm tới.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các ngành nghề trong hộ nông dân trên
địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi không gian: Nghiên cứu thực trạng các ngành nghề trong hộ
nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu các ngành nghề trong hộ nông dân trên
địa bàn xã qua ba năm ( 2001- 2003).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHỀ CỦA HỘ NÔNG DÂN
1. Vai trò của ngành nghề
Các ngành nghề phi nông nghiệp có vai trò rất to lớn đến sự phát triển của
hộ nông dân. Dưới hình thức là các hoạt động dịch vụ, ngành nghề tiểu thủ công
truyền thống, … Các hoạt động này đã giải quyết những vấn đề rất cơ bản của
hộ.Các nhề truyền thống (làm thêu, mây tre đan, làm đậu, làm bánh …) đã thu
hút rất nhiều lực lượng lao động ở địa phương, nhất là những lúc nông nhàn, đặc
biệt đặc điểm địa phương đất chật người đông, diện tích sản xuất cây lương thực
thực phẩm ngày càng thu hẹp, cộng thêm các dự án về quy hoạch phát triển cơ
sở hạ tầng, quy hoạch đô thị, chương trình dãn dân là các yếu tố trực tiếp đẩy hộ
nông dân vốn sản xuất nông nghiệp là chính phải xem xét lại phương thức sản

xuất của mình cho phù hợp. Từ đó các ngành nghề phi nông nghiệp được coi là
giải pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề dư lao động- thiếu việc làm ở địa phương.
Các nghề truyền thống là các nghề mà một số hộ giữ được lợi thế tuyệt đối của
mình trước ảnh hưởng của dư luận và thời gian mà mấu chốt đó là các bí quyết
sự lành nghề dẫn đến sản phẩm sản xuất ra đạt yêu cầu thị hiếu của cầu tiêu thụ
về phẩm chất, hình thức, kiểu dáng, chi phí, hàm lượng chất xám, độ tinh xảo.
Sự lành nghề có kĩ xảo, có năng lực được mang lại kết quả là các sản phẩm làm
ra sẽ có chi phí thấp lại được ưa chuộng tất yếu hộ sản xuất sẽ có thu nhập tốt,
có sức ổn định. Các vấn đề xã hội (như ma tuý, mại dâm, cờ bạc) đặt ra cho địa
phương nơi mà cách xa trung tâm tỉnh lỵ không xa đòi hỏi phải có phương án
giải quyết xuất phát từ căn nguyên của vấn đề: việc làm là vấn đề bức bách mà
muốn có nhiều việc làm có thu nhập, giải quyết sự nhàn nhã thì phát triển các
nghành nghề phi nông nghiệp là giải pháp hữu hiệu để giúp các thành viên của
hộ không xa phải con đường tội lỗi xấu xa. Việc làm ngoài ngoài nông nghiệp
giúp hộ chủ động hơn dưới ảnh hưởng bất trắc (rủi ro) của thời tiết, thiên nhiên,
sâu bệnh.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quá trình phát triển này sẽ giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hộ của địa
phương theo hướng giảm tỷ lệ nông nghiệp xuống và tăng giá trị ngành nghề phi nông
nghiệp lên.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
Ngành nghề trong các hộ nông dân bao gồm công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp và các hoạt động dịch vụ cho sản xuất và đời sống. Các tổ chức hộ với
mức độ khác nhau đều có thể sử dụng các nguồn lực sẵn có ở địa phương như
đất đai lao động, các sản phẩm từ nông nghiệp và các nguồn lực khác cộng thêm
các kinh nghiệm sản xuất kinh doanh được tích luỹ kế thừa để làm ra các sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh. Các ngành nghề trong hộ được biểu trưng bởi số
lượng các ngành nghề với quy mô các yếu tố sản xuất, trình độ công nghệ được
sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng được ưa chuộng và phù hợp
với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng như thế nào. Sự phát triển các ngành

nghề trong các hộ nông dân là sự tăng số hộ có ngành nghề và sự chuyển biến
tích cực trong nội tại các ngành nghề mà hộ đảm nhận như công nghệ trình độ
tay nghề, sự lành nghề, sự đa dạng hoá sản phẩm cùng một đầu vào, chất lưọng
sản phẩm tăng lên Các ngành nghề mà hộ nông dân tổ chức có hiệu quả sẽ
thúc đẩy kinh tế hộ phát triển từ đó phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
1.3. Đặc điểm ngành nghề nông thôn
Ngành nghề trong các hộ nông dân rất đa dạng: có ngành nghề lấy các sản
phẩm từ nông nghệp thuần tuý qua chế biến phục vụ nhu cầu sống của con
người như nghề làm bún, làm đậu phụ, nấu rượu ; có ngành nghề tận dụng vị trí
gần trung tâm kinh tế văn hoá để phát triển như làm thuê, may, đan, thêu, mộc,
cơ khí ; với những hộ nằm ngay đường trục chính thì có cơ hội tốt để phát triển
nghề buôn bán thông thương và làm dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghệp
hay dịch vụ cho đời sống con người. Các ngành nghề này có một số đặc điểm
sau:
- Không hay ít chịu tác động của thời tiết khí hậu hơn nghề nông nghệp truyền
thống.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Đất đai không phải là tư liệu sản xuất chủ yếu nhưng lại là cơ sở để sản
xuất ngành nghề tồn tại và phát triển.
- Các ngành nghề có sử dụng các sản phẩm đầu vào từ nông nghệp ít
nhiều chịu ảnh hưởng của tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp.
- Công nghệ dùng cho sản xuất kinh doanh có xen kẽ thủ công thô sơ và
cơ khí.
- Quy mô ngành nghề hầu hết đều nhỏ.
- Phụ thuộc rất nhiều vào thị trường đặc biệt là các sản phẩm chế biến từ nông
sản.
- Chất lượng các sản phẩm làm ra phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm tích luỹ
của hộ.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển các ngành nghề trong hộ
nông dân

a. Nhân tố nội tại của hộ nông dân: Như tiềm lực về vốn, kinh tế sẵn có,
trình độ năng lực chuyên môn của chủ hộ.Hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của mình về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình: Các
quyết định đầu tư sản xuất kinh doanh không phải ai khác mà chính do chủ hộ
quyết định do đó trình độ của chủ hộ, của các thành viên có sức ảnh hưởng rất
lớn đến quá trình tồn tại và phát triển cuỉa hộ. Chủ hộ mà có kiến thức, có kinh
nghiệm trên thị trường, trong xã hội, biết nắm bắt thời cơ, biết vận động năng
động trước rủi ro từ bên ngoài sẽ tạo cho hộ khả năng đứng vững, phát triển bền
vững trước thời cuộc.
b. Nhân tố thị trường: Những hộ chuyên ngành nghề nhất là chế biến các
sản phẩm từ đầu vào nông sản tạo ra sản phẩm có thời gian sử dụng thấp bảo
quản khó khăn có yêu cầu gay gắt về thị trường.
c. Nhân tố địa lý: Hộ nằm trên các trục đường chính, gần khu đông đúc
dân cư càng có điều kiện kinh doanh dịch vụ tốt hơn.
d. Nhân tố kĩ thuật: Các nghề truyền thống như mộc, nề, thiêu, đan, may,
sửa chữa máy móc thiết bị đòi hỏi sự lành nghề đặc biệt các hoạt động chế biến
nông sản như làm đậu, nấu rượu, làm bánh kẹo phải cần có sự tích luỹ kinh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệm. Các hoạt động sản xuất công cụ cho đầu vào của hoạt động khác, các
hoạt động sản xuất các vật phẩm tiêu dùng như sản xuất ra dao, kéo, cày, bừa,
máy tuốt lúa đạp chân, cổng sắt… cũng đòi hỏi yêu cầu phải đáp ứng thị hiếu
khách hàng tiêu dùng phải phù hợp với hoàn cảnh ứng dụng các sản phẩm đó.
Những hộ buôn bán nhỏ như hộ buôn bán các sản phẩm nông sản bán ra thị
trường, bán các hàng hoá tiêu dùng ở chợ hay tại gia đình nơi thuận tiện lưu
thông hàng hoá và dễ kiếm lời buộc hộ phải năng động trong việc phải nắm bắt
thị trường để có phản ứng linh hoạt.
đ. Nhân tố chính sách: Các chính sách của chính phủ đưa ra như chính
sách đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong hộ nông dân, chính sách đất đai, xoá
đói giảm nghèo, cơ sở hạ tầng nông thôn… tuỳ vào mức độ tác động mà hộ có
ảnh hưởng khác nhau. Phần lớn các chính sách này có độ nhạy cảm với vấn đề

phát triển kinh tế của nông thôn mà hộ nông dân là một chủ thể, vấn đề xoá đói
giảm nghèo, phát triển cải thiện cơ sở hạ tầng, cải thiện các điều kiện sống cho
nông dân… Các chính sách mà chính phủ đưa ra luôn luôn xuất phát từ nhu cầu
thực tai khách quan để tháo gỡ những vấn đề nan giải của xã hội.
e. Nhân tố cộng đồng xã hội: Đó là các phong tục tập quán, thuần phong
mỹ tục, truyền thống của cộng đồng gây ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới sự
phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân. Nghề làm đậu phụ, nấu rượu, làm
bánh đa… sở dĩ tồn tại và phát triển được do phong tục nuôi lợn để lấy phân bón
ruộng cũng do tục lệ uống rượu trong các ngày lễ. Tâm lý bảo thủ chậm tiến
mang nặng tính phong kiến cổ hủ của xã hội trước cũng ảnh hưởng không nhỏ
tới tâm lý mở rộng sản xuất kinh doanh trong hộ ngành nghề do lo sợ bị thua lỗ
phá sản.
1.5. Các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển ngành nghề nông
thôn
Các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế nông thôn mà
hộ nông dân là một chủ thể chủ yếu của nông thôn đã tác động mạnh mẽ đến đời
sống kinh tế xã hội nông hộ của đất nước.Đất nước ta là một đất nước xuất phát
điểm từ nông nghiệp trước cách mạng tháng 8 năm 1945 khi mà đất nước ta nửa
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thuộc địa nửa phong kiến bị áp bức bóc lột mất quyền độc lập tự do, xét trên cả
nước giai cấp địa chủ chỉ có 3% dân số đã chiếm 41.4% ruộng đất, nông dân lao
động lại chiếm tới 97%dân số nhưng chỉ có 36% diện tích đất, số còn lại thuộc
đồn điền của pháp và đất công. Các nghành kinh tế quan trọng như thương mại,
khai thác mỏ… đều do pháp quản lý. Các thương gia, các nhà doanh nghiệp Việt
Nam bị chèn ép cô lập không phát triển được. Sau khi nước nhà độc lập, công
cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc năm 1956 đa số hộ nông dân ít nhiều đều
có đất trực tiếp sản xuất nông nghiệp, các nghành sản xuất khác được khôi phục
và khuyến khích phát triển, nét đặc trưng ở giai đoạn này là hộ nông dân sản
xuất hoàn toàn cá thể.
Giai đoạn 1960- 1980 được định hình bởi kinh tế tập thể. Từ năm 1958

tiến hành hợp tác hoá, đến cuối năm 1960 có 84% nông hộ đã tham gia vào hợp
tác xã sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, từ đó làm cho môi trường sản
xuất kinh doanh của nông hộ thay đổi căn bản. Hiến pháp năm 1959 đã xác
định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, mọi quan hệ mua bán trao đổi đất bị cấm
nghiêm ngặt. Giai đoạn này hộ nông dân sản xuất nông nghiệp là chính các
nghành khác nhất là buôn bán lưu thông hàng hoá kiếm lời bị tê liệt hoàn toàn,
mọi hoạt động phi nông nghiệp đều thuộc sự quản lý của nhà nước dưới hình
thức hợp tác xã. Trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nông hộ được tập thể
giành cho 5% đất canh tác để làm “kinh tế phụ gia đình” hay “kinh tế phụ xã
viên”. Với 5% đất canh tác nhưng đã sản xuất ra 48%giá trị sản lượng nông
nghiệp, 50% - 60% thu nhập của hộ. Tuy không công khai nhưng kinh tế nông
hộ đã thực sự là cơ sở đảm bảo cho kinh tế tập thể tồn tại. Nông hộ được chia
thành 2 loại:
Loại 1: Gồm các hộ nông dân cá thể ngày càng giảm có phân biệt đối xử
sản xuất luôn bị kìm hãm bó buộc.
Loại 2: Gồm các hộ gia đình xã viên trong hợp tác xã và hộ công nhân
viên trong các lâm trường loai này có nguồn thu nhập từ kinh tế tập thể thông
qua ngày công đóng góp hoặc tiền lương và thu từ đất 5% với số vật tư và lao
động còn lại mà hợp tác xã huy động đến kinh tế nông hộ với sản xuất nông
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp là chính chỉ giới hạn 5% phần đất, kinh tế hợp tác xã đình đốn, kinh tế
quốc doanh thua lỗ nên thu nhập từ kinh tế tập thể trong tổng thu của hộ có sự
biến đổi lớn: kinh tế tập thể chiếm 70% - 75% còn kinh tế nông hộ chỉ chiếm
25% -30%. Do thu nhập từ kinh tế tập thể thấp đã làm cho nông đân xã viên
chán nản, muốn xa nền kinh tế tập thể.
Giai đoạn 1981-1987 trước thực trạng kinh tế tập thể đình đốn, khủng
hoảng lương thực thường xuyên xảy ra nghiêm trọng, nền kinh tế đất nước đình
đốn, kinh tế nông hộ bị hạn chế không phát triển được thì nghị quyết TW6 tháng
9 năm 1979 xác định “những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách” nhằm tìm giải
pháp đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Xuất phát từ thực trạng đó Bộ chính

trị đã ban hành Chỉ thị 100 ngày 13/01/1981 về cải tiến công tác khoán mở rộng
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Xã viên được
đầu tư vốn, sức lao động được khoán và hưởng trọn phần vượt khoán, nền kinh
tế hộ gia đình được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Năm 1986 -1987 giá
cả các mặt hàng tăng vọt, chế độ thu mua hàng hoá theo nghĩa vụ của nhà nước
nặng nề, trong nông nghiệp mà ruộng đất khoán tập thể đảm nhận 5 khâu; 3
khâu còn lại người lao động chịu trách nhiệm không được ổn định, sản lượng
khoán nâng cao dần từ đó hiệu quả đầu tư giảm, thu nhập của nông hộ cũng
giảm dần.
Giai đoạn từ năm 1988 đến nay. Trước tình trạng trên Nghị quyết 10 Q/
TW ngày 05/ 04/ 1988 của bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải
phóng mạnh mẽ sức sản xuất trong nông thôn trong từng hộ nông dân, đậc biệt
nghị quyết khẳng định hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế nông hộ. Nghị
quyết còn chủ trương giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ nông
dân, xoá bỏ chính sách thu mua theo nghĩa vụ để tạo điều kiện cho hộ nông dân
phát triển sản xuất. Thực hiện khoán theo nghị quyết 10 đã làm cho người lao
động quan tâm đến sản phẩm cuối cùng. Các thành phần kinh tế và kinh tế hộ
nông dân phát triển dẫn đến hiệu quả cao trong sản xuất và không ngừng nâng
cao sức sống nông dân, nền kinh tế được khôi phục và phát triển. Nghị quyết
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đại hội đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX đã đưa ra tiếp những chủ trương về phát
triển 5 thành phần kinh tế, 3 chương trình kinh tế lớn của nhà nước, chiến lược
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.Từ đó hộ nông dân là chủ thể sản xuất
với việc ban hành những chính sách lớn như giao đất lâu dài, mở rộng cho vay
tới hộ, thực hiện xoá đói giảm nghèo, khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
khuyến khích khôi phục và phát triển các nghành nghề truyền thống, khuyến
khích kinh tế thị trường phát triển… kinh tế nông hộ đã có niềm tin mở rộng
quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho nông dân, kinh tế hộ đã có nhiều thay đổi
lớn mà điển hình cơ cấu sản xuất đã có chuyển biến tích cực từ thuần nông sang

các nghành nghề khác nhất là vùng nông thôn giáp danh thành thị.
1.6. Thực trạng tình hình phát triển ngành nghề nông thôn ở một số nước
trên thế giới
Việc phát triển ngành nghề nông thôn được xem là một trong những giải
pháp quan trọng để tháo gỡ những khó khăn, những phát sinh trong việc thúc
đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn nông thôn ở một số nước trên thế
giới. Một số nước đã trải qua quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn rất thành công, đó là những bài học kinh nghiệm cho đất nước
ta học tập đúc rút và áp dụng linh hoạt mô hình phát triển nông thôn một cách
hiệu quả nhất.
Ở một ngay cạnh nước ta, Trung Quốc thực hiện rất tốt quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn trong giai đoạn cải cách (1978- 1992) với
phương châm đề ra” ly nông bất ly hương, nhập xướng bất nhập thành” chủ
trương phát triển ngành nghề nông thôn theo mô hình xí nghiệp Hương Trấn lấy
nông thôn làm cơ sở. Bước đi của Trung Quốc là thận trọng từ thấp lên cao,
không chạy theo phong trào không chạy theo hình thức, không chạy theo thành
tích như thời kì “ công xã nhân dân” ; lấy mô hình phát triển xí nghiệp Hương
Trấn vừa là tích luỹ ban đầu vừa là bắt đầu đi vào phát triển chiều sâu bằng áp
dụng công nghệ mới hiện đại và sử dụng nhiều vốn. Nhiều xí nghiệp như Hương
Trấn đã mở rộng về quy mô và phạm vi lĩnh vực kinh doanh. Hiện nay các xí
nghiệp như Hương Trấn đã hoạt động ở ba cấp: huyện, xã, thôn và tạo ra giá trị
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản lượng ngày càng tăng. Nhờ sự phát triển công nghiệp nông thôn mà Trung
Quốc đã giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp từ 70% (1978) xuống dưới
50% (1992) giảm áp lực di dân ra thành thị, kinh tế nông thôn phát triển đã cải
thiện đời sống nhân dân vùng nông thôn.
Nằm trong nhóm nước Niss, Đài Loan bắt đầu tiến trình công nghiệp hoá
nông thôn từ những năm 50 bao gồm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các
làng nghề cổ truyền, các xí nghiệp gia đình sản xuất chế biến lương thực thực
phẩm và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ ngành du lịch. Riêng công

nghiệp chế biến nông sản rất phát triển: năm 1991 đã có 5779 xí nghiệp với 100
nghìn lao động đã tạo ra giá trị sản lượng tới 17.5 tỷ USD . Công nghiệp thực
phẩm với 22 chuyên ngành chủ yếu trong đó công nghiệp chế biến thịt chiếm
15.41% giá trị sản lượng, với chăn nuôi là12.36%, gạo 9.25%, đồ uống có cồn
7.16%. Riêng xay xát gạo có 2500 nhà máy quy mô nhỏ. Công nghiệp nông
thôn Đài Loan đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tỷ trọng gia
đình thuần nông đã giảm từ 39.9% (1955) xuống còn 8.98% (1985), tỷ trọng các
hộ kiêm tăng từ 60.13% (1955) lên 91.2% (1985). Thu nhập các hộ nông dân
ngoài nông nghiệp tăng từ 43% (1952) lên gần 70% (1992), cơ cấu lao động xã
hội cũng thay đổi năm 1952 lao động nông nghiệp chiếm 51% công nghiệp
16.9% dịch vụ 27% thì đến năm 1992 lao động nông nghiệp giảm xuống còn
12.9% công nghiệp tăng 40.25% dịch vụ 49.9%. Nhìn chung Đài Loan thực hiện
công nghiệp hoá nông thôn với hình thức đa dạng đã đem lại hiệu quả kinh tế xã
hội rõ rệt góp phần không nhỏ vào sự thành công quá trình công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước.
Nằm trong khối ASEAN, là một nước đang phát triển, Thái Lan công
nghiệp hoá nông thôn trên cơ sở dựa vào nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa
phương với mục tiêu trước tiên là cải tạo cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn
qua việc cung cấp nguyên liệu và nguồn lực cho công nghiệp. Do đó Thái Lan
đã xây dựng một chiến lược phát triển nông thôn trên cơ sở khu vực lấy trọng
tâm công nghiệp chế biến nông sản thành hàng hoá. Bởi Thái Lan là một trong
số ít nước có lợi thế sản xuất gạo, hải sản, thuỷ sản… Đầu năm 1990 cả nước có
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoảng 32 nghìn xí nghiệp nông phẩm chiếm 62% các ngành công nghiệp ở
Thái Lan thu hút khoảng 60% lao động, hầu hết nguyên liệu đều do nông nghiệp
cung cấp. Các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như chế tác vàng bạc
đá quý, ngọc trai, đồ trang sức được duy trì và phát triển tạo ra nhiều mặt hàng
nổi tiếng thế giới. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mỹ nghệ năm 1990 đạt gần 2
tỷ USD. Nghề gốm sứ cổ truyền trước đây ở Thái Lan chỉ sản xuất đáp ứng nhu
cầu trong nước, gần đây đã phát triển trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn đứng thứ

hai sau gạo, 95% hàng gốm sứ xuất khẩu là đồ trang trí nội thất và đồ lưu niệm
còn lại là những thứ khác. Về cơ khí nông thôn có 94 vạn cơ sở nhỏ( nhỏ hơn 10
công nhân một cơ sở) chiếm 46%, 72 vạn cơ sở vừa chiếm 34%; hoạt động của
các xí nghiệp này là chế tạo và xửa chữa máy công cụ nông nghiệp.
Một số con rồng châu Á (Hàn Quốc, Hồng Công, Shingapo) thực hiện
sách lược dồn hết sức lực cho công nghiệp nặng có trọng điểm kết hợp với dịch
vụ coi nhẹ phát triển nông nghiệp nông thôn để tạo ra sức mạnh kinh tế sau đó
mới tiến hành cải tạo đầu tư cho nông nghiệp nông thôn.
Thông qua thực tế phát triển ngành nghề nông thôn ở một số nước trên thế
giới chúng ta rút ra một số bài học sau:
- Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước phải kết hợp chặt chẽ với công
nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn mà bước đi quan trọng là phải
phát triển ngành nghề nông thôn bao gồm nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề
truyền thống, nghề chế biến nông sản, kinh doanh dịch vụ tạo ra sự chuyển biến
tích cực cơ cấu kinh tế nông thôn.
- Phát huy lợi thế tuyệt đối của địa phương,của vùng, của đất nước về
mọi mặt để sản xuất ra các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh cao.
- Phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân sẽ thúc đẩy kinh tế hộ phát
triển, kinh tế địa phương phát triển, xoá đói giảm nghèo, từng bước cải thiện đời
sống nhân dân vùng nông thôn tạo tiền đề cho quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước thành công.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.7. Thực trạng tình hình phát triển ngành nghề nông thôn ở Việt Nam
Kinh tế nông thôn bao gồm hai lĩnh vực: kinh tế nông nghiệp và kinh tế
phi nông nghiệp. Trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp bao gồm tiểu thủ công
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất cho đời sống ở nông thôn. Công
nghiệp nông thôn ở Việt Nam đã trải qua những bước thăng trầm cùng với tiến
trình cải cách và phát triển kinh tế đất nước. Thực hiện đường lối của Đảng và
chủ trương chính sách của Nhà nước, công nghiệp nói chung, công nghiệp nông
thôn nói riêng đã chứng kiến biến chuyển mạnh mẽ trong hơn mười năm qua.

Theo tư liệu của hội khoa học kinh tế Việt Nam, trong thời kì đổi mới công
nghiệp nông thôn Việt Nam đạt tỷ lệ tăng trưởng giá trị bình quân 7.8%/ năm.
Đặc biệt công nghiệp nông thôn có sức tăng trưởng cao vào các năm 1993-1999
nhờ tác động mạnh mẽ của các chích sách khuyến khích được ban hành và thực
thi vào đầu thập kỉ 90. Thực trạng phát triển ngành nghề nông thôn thể hiện một
số điểm sau:
- Về số lượng hiện nước ta có trên 1350000 đơn vị sản xuất phi nông
nghiệp trong đó có 97.1% là các hộ, số còn lại là dạng tổ hợp và doanh nghiệp.
- Về quy mô hầu hết các cơ sở sản xuất ngành nghề ở nông thôn có quy
mô nhỏ do đó các cơ sở luôn có nhu cầu lớn hỗ trợ sản xuất kinh doanh như đầu
vào thông tin công nghệ, đào tạo và tín dụng.
- Về nguồn nhân lực và chủ sở hữu của các cơ sở. Chủ sở hữu các cơ sở
đóng vai trò quan trọng ra quyết định và điều hành sản xuất kinh doanh ảnh
hưởng tới sự tồn tại phát triển toàn bộ hộ. Thực tế hiện nay trình độ chuyên
môn của các chủ cơ sở và lao động trong hộ còn thấp cụ thể có 1.3% -1.6% số
hộ không biết chữ, 68%- 76% chủ hộ không có trình độ chuyên môn kĩ thuật
chưa qua trường lớp đào tạo nào, chỉ có 1.9%- 2,8% có trình độ đại học, cao
đẳng. Chủ cơ sở là nam chiếm tỷ lệ đa số, nữ chỉ chiếm 3,8%- 5.9%.Quy mô lao
động bình quân của hộ ngành nghề từ 3 đến 5 người chiếm đa số, lao động thuê
ngoài ít.
- Về cơ sở vật chất kĩ thuật và vốn, nhìn chung các hộ ngành nghề còn
thiếu,yếu, kém; phần lớn sử dụng ngay nhà mình cho sản xuất kinh doanh. Số cơ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sở sử dụng điện cho sản xuất chiếm 81.6% hộ cơ sở ngành nghề nguyên nhân
do giá điện ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm sản xuất ra. Phần lớn công nghệ
các hộ sử dụng là thô sơ giản đơn, trình độ cơ khí hoá còn thấp, vì vậy mà sản
phẩm làm ra giá trị thấp mẫu mã không đa dạng khả năng vươn xa thị trường
kém.
- Hiện nay, vốn của các hộ các cơ sở ngành nghề nông thôn còn nhỏ, phần
lớn các cơ sở sản xuất thiếu vốn để nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng

sản xuất kinh doanh. Theo kết quả điều tra ngành nghề nông thôn năm 1997 của
Cục chế biến lâm sản và ngành nghề nông thôn cho thấy: ổ hộ chuyên ngành
nghề có vốn sản xuất bình quân là 25.73 triệu đồng( bằng 3.67%) trong đó vốn
cố định chiếm tỷ lệ 57.2%; về quy mô vốn có tới 86.81% số hộ có vốn dưới 50
triệu đồng, trong đó lại có 37.66% số hộ có vốn dưới 10 triệu; bình quân vốn
đầu tư cho một lao động thường xuyên ở hộ chuyên là 7.75 triệu đồng. Còn đối
với hộ kiêm, vốn sản xuất bình quân là16.10 triệu đồng, trong đó 11.3 triệu đồng
được dùng cho sản xuất phi nông nghiệp, bình quân vốn đầu tư cho một lao
động là 5.07 triệu đồng.
- Về lĩnh vực hoạt động: tiểu thủ công nghiệp – công nghiệp nông thôn
tồn tại ở nhiều dạng ngành nghề khác nhau như: công nghiệp chế biến, dệt, may
mặc, gốm sứ mỹ nghệ, mộc, cơ khí nông thôn…
Đối với công nghiệp chế biến có mặt ở hầu khắp các vùng, hoạt động
dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau. Trong đó có nhiều hoạt động mang
tính truyền thống như làm bún, bánh đa nấu rượu…và nhiều hoạt động mang
tính hiện đại như chế biến phục vụ xuất khẩu…
Trong ngành dệt, may mặc và thêu ren…là những ngành thu hút tương
đối nhiều lao động nữ; có nhiều hoạt động mang tính truyền thống, tính lịch sử
lâu đời như dệt lụa ở Hà Đông, dệt vải ở Thái Bình, Nam Định, Bắc Ninh,Bắc
Giang…riêng may mặc là một ngành khá phát triển cùng với nhu cầu ngày càng
cao của xã hội có ở khắp các vùng quê nông thôn.
Trong nghề gốm sứ, trạm trổ, mỹ nghệ…đây là các ngành chủ yếu phục
vụ xuất khẩu và có yêu cầu kỹ thuật đối với sản phẩm tương đối cao vì thế mà
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nó phát triển chủ yếu ở những làng nghề truyền thống như ở Bình Dương, Bát
Tràng, Đồng Nai…
Ngành cơ khí nông thôn, ngành này đã phát triển khá mạnh ở nhiều thời
điểm khác nhau và phát triển mạnh mẽ nhất ở Nam Định, Bắc Ninh,Thanh Hoá,
Hà Tây,…
Với thực trạng phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nông thôn

hiện nay còn thấp kém cả về số lượng và chất lượng các ngành nghề. Do vậy
Đảng và Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích phát triển sản xuất
đối với từng vùng cụ thể; để mở rộng quy mô lĩnh vực sản xuất, tận dụng lợi thế
của mỗi vùng góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân vùng nông thôn
trong thời gian tới.
1.8. Hệ chỉ tiêu được sử dụng trong nghiên cứu thực trạng phát triển ngành
nghề trong các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý -
tỉnh Hà Nam
a. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích đặc điểm địa bàn xã Liêm Chính- thị
xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: Mật độ dân số, nhân khẩu/ hộ, lao động/ hộ ngành
nghề, lao động/ hộ, đất canh tác/ hộ phi nông nghiệp, lao động phi nông nghiệp/
hộ…
b. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích sự tham gia làm ngành nghề
trong các hộ trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ
hộ có ngành nghề, tỷ lệ hộ sản xuất công nghiệp- xây dựng, tỷ lệ hộ kiêm, tỷ lệ
hộ chế biến nông sản( hộ làm đậu phụ, nấu rượu, làm bánh )/ hộ ngành nghề, tỷ
lệ hộ buôn bán/ hộ ngành nghề
c. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích hiện trạng cơ sở vật chất kĩ
thuật, điều kiện sản xuất kinh doanh, đầu vào của hộ ngành nghề trên địa
bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ nhà xưởng kiên cố,
diện tích sử dụng bình quân ở mỗi hộ ngành nghề, bình quân vốn/ hộ ngành
nghề, số lao động thường xuyên/ hộ ngành nghề, tỷ lệ chủ hộ qua đào tạo…
d. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích kết quả sản xuất kinh doanh
và tiêu thụ sản phẩm trong các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính-
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tổng giá trị sản phẩm sản xuất bình quân 1 hộ/
năm, tổng giá trị sản phẩm tiêu thụ bình quân 1 hộ/ năm, giá trị sản phẩm sản
xuất bình quân trong năm/ 1 lao động, tỷ lệ sản phẩm tiêu thụ/ sản phẩm sản
xuất ra.
e. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích hiệu quả hoạt động sản

xuất kinh doanh của các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã
Phủ Lý- tỉnh Hà Nam:giá trị tăng thêm tạo ra trong năm tính bình quân trong 1
hộ, giá trị tăng thêm tính bình quân cho 1 lao động thường xuyên, thu nhập
trong năm tính bình quân cho 1 hộ, tỷ suất thu nhập / 1 đồng chi phí, thu nhập
bình quân trong năm tính cho 1 lao động thường xuyên.
f. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để so sánh ngành nghề hộ nông dân trên
địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam với xã Liêm Tuyền-
huyện Thanh Liêm- tỉnh Hà Nam:khoảng cách thu nhập bình quân 1 hộ ở xã
Liêm Chính so với xã Liêm Tuyền, tỷ lệ hộ giàu của xã Liêm Chính so với xã
Liêm Tuyền, tỷ lệ hộ nghèo của xã Liêm Chính so với xã Liêm Tuyền.
g. Hệ thống chỉ tiêu dùng để phân tích tác động của ngành nghề tới
kinh tế- xã hội - môi trường trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh
Hà Nam: tỷ lệ hộ ngành nghề gây ảnh hưởng xấu tới đất tới nước, tỷ lệ hộ nhận
thêm lao động thuê ngoài, tỷ lệ hộ ngành nghề giàu( trung bình, khá, nghèo) so
với hộ trong xã, tỷ lệ hộ đóng góp đáng kể cho kinh tế địa phương.
k. Hệ thống chỉ tiêu dùng để đánh giá những khó khăn và kiến nghị của
hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ
không có khó khăn, tỷ lệ có khó khăn về vốn ( lao động, nhà xưởng, kinh
nghiệm quản lí).
CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
1.1. Điều kiện tự nhiên
Xã Liêm Chính nằm ở phía Đông Nam thuộc địa giới hành chính của thị
xã Phủ Lý – Tỉnh Hà Nam, xã được thành lập sau khi chia cắt xã Thanh Giang –
huyện Thanh Liêm thành xã Liêm Chung và xã Liêm Chính. Phía Đông giáp với
xã Liêm Tuyền thuộc huyện Thanh Liêm, phía nam giáp với xã Liêm Chung,
phía Bắc xã ngăn cách huyện Duy Tiên bởi con sông Châu Giang chạy dài gần 8
km, phía Tây giáp với phường Hai Bà Trưng và phường Trần Hưng Đạo thuộc

thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Toàn xã có ba thôn gồm Thá, Mễ Thượng, Mễ
Nội, trước kia có cả thôn Bảo Thôn nhưng mới được chia cắt nhập vào phường
Trần Hưng Đạo. Tính từ uỷ ban xã tới trung tâm tỉnh Hà Nam chỉ chừng hơn 2
km lại có con đường 62 nối Phủ Lý –huyện Thanh Liêm – huyện Lý Nhân chạy
qua hai thôn Mễ Nội, Mễ Thượng, trong các thôn đều có con đường liên xã chạy
qua, mạng lưới giao thông được bê tông hoá nhựa hoá tạo điều kiện tốt cho hàng
hoá lưu thông, con người qua lại dễ dàng kích thích sự phát triển các hoạt động
buôn bán dịch vụ trao đổi hàng hoá. Xã lại có con sông Châu Giang ngăn cách
chạy dài suốt chiều dài hai thôn Mễ được thông với con sông Đáy nên giao
thông vận tải bằng đường thuỷ cũng rất thuận lợi giữa xã với các địa phương
khác trong và ngoài tỉnh.Được nằm ngay trên trung tâm kinh tế văn hoá xã hội
của tỉnh Hà Nam, nơi có thị trường tiêu dùng rộng lớn, có khả năng thanh toán
cao ở tất cả các mặt hàng từ hàng hoá nông nghiệp tới các mặt hàng công
nghiệp, dịch vụ nên địa phương có nhiều thuận lợi để phát triển nền sản xuất đa
ngành cung cấp cho thị trường trong và ngoài xã. Lợi thế về thị trường đem lại
là rất lớn, giúp cho hàng hoá sản xuất trong xã được tiêu thụ phần lớn là ở trong
thị xã Phủ Lý, lại có ưu điểm chi phí vận chuyển nhỏ khả năng tiếp cận thị
trường nhanh, đã tạo điều kiện tốt cho phát triển ngành nghề trong hộ nông dân
nói riêng cho toàn xã Liêm Chính nói chung.
1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
1.2.1. Tình hình đất đai
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tình hình đất đai của xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam được
thể hiện qua biểu 1.
Biểu 1: Tình hình sử dụng đất đai ở xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý - tỉnh
Hà Nam qua ba năm (2001- 2003)
Chỉ tiêu
Năm 2001 Năm 2002 Năm2003 So sánh (%)
Số
lượng


cấu(%)
Số
lượng

cấu(%)
Số
lượng

cấu(%)
02/01 03/02 BQ
A. Tổng diện tích đất tự
nhiên
332.4 100 332.4 100 332.4 100 100 100 100
I. Đất nông nghiệp
241.3 72.59 232.17 69.85 226.7 68.20 96.22 97.64 96.93
1. Đất canh tác hàng
năm
166.4
5 68.98 157.59 67.88 154.7 68.23 94.68 98.15 96.40
2. Đất vườn, trồng cây
lâu năm
39.18 16.24 39.15 16.86 39.17 17.28 99.92 100.05 99.99
3. Đất ao hồ
35.68 14.79 35.43 15.26 32.85 14.49 99.30 92.72 95.95
II. Đất chuyên dùng
44.66 13.44 53.95 16.23 58.07 17.47 120.80 107.64 114.03
1. Đất xây dựng cơ
bản
7.95 17.80 11.41 21.15 13.72 23.63

143.5
2 120.25 131.37
2. Đất giao thông
21.87 48.97 25.88 47.97 27.03 46.55
118.3
4 104.44 111.17
3. Đất mặt nước thuỷ
lợi
7.13 15.97 7.13 13.22 7.13 12.28 100.00 100.00 100.00
4. Đất nghĩa trang, di
tích văn hoá
4.16 9.31 4.16 7.71 4.16 7.16 100.00 100.00 100.00
5. Đất trường học,
trạm y tế, bệnh viện
3.55 7.95 5.37 9.95 6.03 10.38 151.27 112.29 130.33
III. Đất để ở
30.69 9.23 33.73 10.15 35.09 10.56 109.91 104.03 106.93
IV. Đất đầm vực
12.55 3.78 12.55 3.78 12.55 3.78 100.00 100.00 100.00
B. Các chỉ tiêu đánh giá
Đất canh tác / hộ
1440 1363 1338 94.68 98.15 96.40
Đất chuyên dùng /
khẩu
109 132 142 120.80 107.64 114.03
Đất để ở / hộ
265 288 297 108.59 103.15 105.84
(Nguồn số liệu: Ban thông kê xã Liêm Chính)
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã Liêm Chính là 332.4 ha trong đó diện
tích đất nông nghiệp chiếm đa số tới 226.7 ha chiếm 68.23% tổng diện tích đất

của xã năm 2003. Đất nông nghiệp ngày càng giảm do áp lực tăng dân số làm
nhu cầu về nhà ở của người dân tăng lên, hơn nữa quá trình đô thị hoá mở rộng
thị xã Phủ Lý cũng là nhân tố làm giảm đất nông nghiệp. Bình quân mỗi năm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
diện tích đất nông nghiệp giảm 3.07 % Như vậy đất nông nghiệp vốn rất nhỏ
trên một khẩu chỉ có chưa đến 300 m
2
/ khẩu, gắn bó với nông nghiệp truyền
thống thì không thể thì các hộ nông dân trên xã phải làm gì để phát triển kinh tế
hộ gia đình mình. Chỉ có tham gia làm ngành nghề phi nông nghiệp mới giải
quyết được vấn đề trên, và thực tế đây là xu thế đang diễn ra trong hộ nông dân
ở Liêm Chính, hộ nông nghiệp ngày càng giảm, hộ ngành nghề ngày càng chiếm
số đông. Nhu cầu đất ở ngày càng tăng, trung bình mỗi năm tăng 6.93 % chiếm
10.56% tổng diện tích tự nhiên của xã đạt mức độ 297 m
2
một hộ. Tương lai nhu
cầu về nhà ở ngày tăng và trở thành mối lo cho chính quyền xã. Trong diện tích
đất của xã, đất chuyên dùng ngày càng tăng, nguyên nhân do địa phương đang
thực hiện đầu tư trọng tâm vào các dự án phát triển cơ sở hạ tầng mở rộng thị xã
Phủ Lý đã được hội đồng nhân dân các cấp thông qua năm 2002, hệ thống giao
thông là ưu tiên hàng đầu đang được hoàn thiện ở xã, dự kiến Liêm Chính sẽ có
đường 62 mới chạy qua thay thế đường cũ tạo điều kiện cho giao lưu vận
chuyển hàng hoá và đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong tỉnh, mong
muốn của lãnh đạo địa phương là khi hệ thóng giao thông hoàn thiện đồng bộ sẽ
tạo cơ hội cho kinh tế địa phương phát triển mạnh hơn nữa.
Trong cơ cấu diện tích đất tự nhiên của xã Liêm Chính có phần đất đầm
vực được tạo ra do quá trình vỡ đê hình thành đầm, tương lai đây là một khu
sinh thái dịch vụ giải trí của thị xã Phủ Lý.
1.2.2. Tình hình dân số và lao động
Lao động là một yếu tố cực kì quan trọng đối với bất kì một nền sản xuất

nào, quy mô cơ cấu cùng với chất lượng lao động góp phần quyết định vị thế
của nền sản xuất đó trong cơ cấu kinh tế tổng thể.Chính vì thế mà khi nghiên
cứu tình hình phát triển ngành nghề hộ nông dân ta cũng phải xem xét tình hình
lao động và nhân khẩu của địa phương.Tình hình dân số và lao động của xã
Liêm Chính được thể hiện qua biểu 2.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Biểu 2: Tình hình dân số và lao động của xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm (2001-2003)
Chỉ tiêu
Năm 2001 Năm 2002 Năm2003 So sánh (%)
Số lợng Cơ cấu(%) Số lợng Cơ cấu(%) Số lợng Cơ cấu(%) 02/01 03/02 BQ
I. Tổng số hộ
1156 100 1170 100 1180 100 101.21 100.85 101.03
1. Hộ thuần nông nghiệp
186 16.09 170 14.53 153 12.97 91.40 90.00 90.70
2. Hộ phi nông nghiệp
970 83.91 1000 85.47 1027 87.03 103.09 102.70 102.90
II. Tổng số nhân khẩu
4098 100 4137 100 4187 100 100.95 101.21 101.08
1. Khẩu thuần nông nghiệp
1250 30.50 1225 29.61 1173 28.02 98.00 95.76 96.87
2. Khẩu phi nông nghiệp
2848 69.50 2913 70.41 3014 71.98 102.28 103.47 102.87
III. Tổng số lao động
2389 100 2401 100 2423 100 100.50 100.92 100.71
1. LĐ thuần nông nghiệp
502 21.01 475 19.78 424 17.50 94.62 89.26 91.90
2. LĐ phi nông nghiệp
1887 78.99 1926 80.22 1999 82.50 102.07 103.79 102.92
IV. Các chỉ tiêu đánh giá
1.Mật độ dân số

1232.85 1244.58 1259.63 100.95 101.21 101.08
2. Tỷ lệ LĐ phi NN / tổngLĐ
78.99 80.22 82.50 101.56 102.85 102.20
3. Tỷ lệ khẩu phi NN / tổng khẩu
69.50 70.41 71.98 101.32 102.23 101.77
Nguồn số liệu: Ban thống kê xã Liêm Chính
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Xã Liêm Chính cũng như nhiều xã khác xung quanh trong tỉnh Hà Nam
được xem là xã đất chật người đông, dân số hàng năm vẫn tăng lên. Qua ba năm
số nhân khẩu của xã tăng 1.08 % đến năm 2003 đã có 4187 nhân khẩu. Số hộ
cũng không ngừng tăng lên năm 2003 có 1180 hộ nông dân trên toàn xã tăng
mỗi năm là 1.03 %. Xét về cơ cấu dân số, cơ cấu hộ theo ngành nghề hiện nay ở
địa phương thì trong ba năm số nhân khẩu thuần nông nghiệp luôn chiến tỷ
trọng thấp nhưng ngày càng giảm: năm 2003 khẩu thuần nông chỉ chiếm 28.02
% mỗi năm giảm 3.13 % ngược lại khẩu phi nông nghiệp không ngừng tăng lên
và chiếm chủ yếu trong cơ cấu của xã, qua ba năm khẩu phi nông nghiệp tăng
trung bình 2.87 % đạt 71.98% năm 2003. Cơ cấu khẩu thay đổi là xuất phát từ
sự chuyển dịch ngành nghề từ các hộ nông dân trong xã: hộ nông dân đang
chuyển từ làm nông nghiệp truyền thống sang làm ngành nghề có thu nhập cao
hơn cho hộ. Xét về cơ cấu lao động, cũng giống như cơ cấu hộ, cơ cấu khẩu, lao
động ngành nghề phi nông nghiệp vẫy chiếm đa số trong lực lượng lao động
những diều đó chứng tỏ ngành nghề là sự lựa chọn của hầu hết hộ nông dân
trong xã và kinh tế ngành nghề ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của hộ, của địa phương.
1.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống
Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất,đời sống nhân dân trong xã Liêm
Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam được thể hiện qua biểu 3.
Trong những năm qua cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật ở xã Liêm Chính
được đầu tư phát triển hoàn thiện không ngừng và đạt được những kết quả sau:
Về hệ thống đường giao thông trong xã: mạng lưới giao thông trong xã

dày đặc chất lượng tốt, đường liên xóm đã được bê tông hoá từ 5 năm nay,
đường liên thôn liên huyện được nhựa hoá gắn kết chặt chẽ với mạng lưới giao
thông của các xã xung quanh, hai con đường trục chính dẫn vào nội thị đã được
mở rộng nâng cấp thành con đường tốt nhất của xã phục vụ đắc lực cho vận
chuyển hàng hoá cho đi lại của người dân với nội thị.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Biểu 3: Tình hình cơ sở vật chất kĩ thuật của xã Liêm Chính – thị xã
Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm (2001- 2003)
Chỉ tiêu ĐVT Năm1 Năm2 Năm3
I. Công trình thuỷ lợi
 Trạm bơm nước
Cái 3 3 3
 Trạm bơm tiêu kết hợp
Cái 2 2 2
 Kênh mương
Km 21 21 21
II. Côn g trình giao thông
 Đường liên xã
Km 11 11 11
 Đường liên thôn
Km 18 18 18
 Đưòng liên huyện
Km 8 8 8
 Đường nội bộ
Km 40 43 46
III. Công trình điện
 Trạm biến áp
Cái 4 4 4
 Đường dây cao thế
Km 11 11 11

 Đường dây hạ thế
Km 54 55 56
 Đường dây điện thoại
Km 23 25 26
 Đường dây thông tin xã
Km 17 18 18
IV. Tài sản cố định khác
 Xe ô tô
Cái 20 27 29
 Xe máy
Cái 214 276 305
 Máy cày bừa
Cái 5 5 5
 Máy xay xát
Cái 14 14 14
 Trâu bò kéo
Cái 213 212 208
 Xe công nông
Cái 16 17 28
 Máy tuốt lúa
Cái 5 5 5
V.Công trình phúc lợi
 Nhà trẻ
Cái 4 4 4
 Trường học
Cái 2 2 2
 Trạm y tế
Cái 1 1 1
 Nhà văn hoá
Cái 3 3 3

 Máy bơm nước sinh hoạt
Cái 1 1 1
 Đường nước sạch
Km 10 11 13
 Bệnh viện
Cái 1 1 1
 Chợ
Cái 3 3 3
(Nguồn số liệu: Ban thống kê xã Liêm Chính)
Về hệ thống điện, thông tin liên lạc trong xã: hiện tại mạng lưới điện
trong xã dày đặc với mạng lưới điện cao thế hạ thế, điện đã phủ hoàn toàn tới
các ngõ xóm trong xã, mỗi thôn có một trạm biến luôn cung cấp đầu đủ nhu cầu
điện phục vụ cho sản xuất, cho đời sống nhân dân, không còn tình trạng thiếu
điện ngai cả trong giờ cao điểm. Xã đã được trang bị hệ thống thông tin, loa đài
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phát thanh công cộng từ lâu, hàng ngày chuyển tải cho nhân dân xã nhiều thông
tin bổ ích tạo điều kiện nâng cao sự hiểu biết cho người dân trong xã. Mạng
điện thoại cũng đang được phủ rộng tới các xóm làng đến nay đã có 26 km
đường dây điện thoại và hàng năm số thuê bao tăng tới 28%, điều đó chứng tỏ
nhu cầu sống của nhiều hộ dân trong xã đã được nâng cao.
Tốc độ phát triển, tốc độ đô thị hoá nông thôn cũng đang diễn ra nhanh ở
Liêm Chính. Năm năm gần đây xã đã được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng một
cách toàn diện, trường học nhà trẻ được đầu tư xây dựng, bệnh viện lao cũng đã
hoàn thành đưa vào sử dụng không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống người
dân. Ba thôn với ba chợ nhỏ cũng đã được chính quyền đầu tư xây dựng tạo điều
kiện tốt cho nhu cầu mua bán trao đổi hàng hoá.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Vấn đề đặt ra khi nghiên cứu thực trạng phát triển ngành nghề trong các
hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam là phải

đánh giá một cách khách quan đầy đủ và cụ thể các ngành nghề công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông sản, kinh doanh dịch vụ mà các hộ nông dân
trong xã tổ chức; như vậy bước đầu chọn điểm nghiên cứu là việc làm rất quan
trọng để từ các số liệu thu thập được qua điều tra có thể đánh giá được vấn đề
quan tâm.
Việc chọn điểm nghiên cứu được tiến hành như sau: xã Liêm Chính với
ba thôn hình thành bởi các xóm nhỏ, trong thôn Thá với 3 xóm các xóm liền kề
nhau tôi tiến hành điều tra các hộ trong xóm đầu làng do ở xóm này hộ có ngành
nghề nhiều xóm này tôi sẽ điều tra 50% hộ trong xóm, nhiều hộ thuần nông kinh
tế chậm phát triển tôi sẽ điều tra các hộ không ngành nghề trong xóm này; thôn
Mễ Nội với 4 xóm. (vực, dốc Mễ, trại giam, bệnh viện) tôi chọn xóm dốc Mễ để
điều tra vì xóm này có thuận lợi khi nằm ở khu vực có nhiều người qua lại xóm
nằm trên ngã ba đường liên xã với đường trục 62 của tỉnh nên nhiều hộ kinh
doanh dịch vụ làm cơ khí, xóm dốc Mễ tôi tiến hành điều tra ở 50% hộ trong
xóm và các hộ không ngành nghề; thôn Mễ Thượng giáp với phường Trần Hưng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đạo lại có địa giới nhỏ ít hộ thuần nông nên tôi tiến hành điều tra thu thập số
liệu ở 40 hộ ngành nghề.
Để thấy được vai trò kinh tế ngành nghề mà các hộ nông dân trên địa bàn
xã thực hiện ảnh hưởng thế nào tới kinh tế- đời sống bản thân hộ và tới địa
phương tôi cũng tiến hành điều tra ngành nghề của xã bên cạnh xã Liêm Chính
là xã Liêm Tuyền- thuộc huyện Thanh Liêm- tỉnh Hà Nam để so sánh với tất cả
các vấn đề như khi điều tra ở xã Liêm Chính. Tôi cũng chọn ở xã Liêm Tuyền
một xóm gần xã Liêm Chính để điều tra.Tôi tiến hành điều tra ở 50% hộ trong
xóm đó.
2.2. Phương pháp thu thập số liệu mới
2.2.1. Số liệu ở cấp hộ
Các hộ ngành nghề được điều tra tôi thu thập số liệu qua phỏng vấn trực
tiếp các thành viên của hộ đặc biệt là từ chủ hộ theo phương pháp PRA với mẫu
điều tra1.

Các hộ không ngành nghề tôi tiến hành thu thập số liệu cũng qua phỏng
vấn trực tiếp các hộ theo phương pháp như trên bằng mẫu điều tra 2.
Mẫu điều tra được tôi sử dụng khi thu thập số liệu mới từ các hộ ngành
nghề, thông tin từ hộ không ngành nghề được sử dụng cho so sánh giữa hộ
ngành nghề và hộ không ngành nghề xem có gì khác biệt về kinh tế, điều kiện
sống…để nói lên vị trí vai trò của ngành nghề ảnh hưởng mức độ nào trong phát
triển kinh tế hộ, kinh tế địa phương và các mặt khác về văn hoá- xã hội- môi
trường. Số liệu mới từ hộ thu được qua phỏng vấn trực tiếp hộ điều nhằm có
các thông tin sau:
- Đặc điểm của các chủ hộ, các thành viên trong hộ ngành nghề về trình
độ chuyên môn, kiến thức, sự hiểu biết ở mức độ nào.
- Đặc điểm khái quát của hộ nói lên vấn đề gì?
- Thông tin tình hình về hộ ngành nghề với điều kiện cơ sở vật chất kĩ
thuật, đầu vào ra sao?

×