TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM KON TUM
KHOA TIỂU HỌC – MẦM NON
****************
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN:
TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
ĐỀ TÀI
TÌM HIỀU KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA HỌC SINH ĐẦU LỚP 1
TRƯỜNG TH NGÔ QUYỀN – TP KON TUM
TỪ ĐÓ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÙ HỢP
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Võ Đại Nam Anh
Sinh viên thực hiện: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
Lớp: K18 GDTH
Kon Tum, tháng 5 năm 2014
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Tìm hiểu khó
khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù
hợp” chúng tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban Chủ nhiệm Khoa Tiểu học – Mầm non trường
CĐSP Kon Tum.
Quý thầy cô cùng toàn thể các bạn sinh viên lớp K18
GDTH trường CĐSP Kon Tum
Ban quản lý thư viện trường CĐSP Kon Tum.
Đặc biệt, chúng tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Võ
Đại Nam Anh giảng viên phụ trách học phần “Tâm lý học
lứa tuổi và tâm lý học sư phạm” đã tận tình giúp đỡ chúng
tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành
đề tài này.
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đây là công trình ngiên cứu riêng của chúng tôi, không
sao chép của tác giả khác và chưa từng công bố trong bất kỳ tác phẩm nào.
Họ và tên tác giả
Ngô Thị Ngọc Bích Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
3
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
MỤC LỤC
Trang
CÁC TỪ VIẾT TẮT 5
Học sinh 5
HS 5
Giáo viên 5
GV 5
I. Lý do chọn đề tài 6
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
VI. Phương pháp nghiên cứu.
Vận dụng, phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để đạt kết
quả tốt nhất như: 7
V. Cấu trúc đề tài 7
7
NỘI DUNG 8
Chương 1: 8
TÌM HIỂU CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ 8
CỦA HỌC SINH ĐẦU LỚP 1 8
1.1 KHÁI NIỆM KHÓ KHĂN TÂM LÝ 8
1.2. KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA HỌC SINH ĐẦU LỚP 1 8
1.2.1. Quan niệm về học sinh đầu lớp 1 9
1.3 MỘT SỐ BIỂU HIỆN VÀ NHÂN TỐ DẪN ĐẾN KHÓ KHĂN TÂM
LÝ ĐẦU LỚP 1 12
1.3.1 Một số biểu hiện dẫn đến khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 12
1.3.2 Một số nhân tố dẫn đến KKTL của học sinh đầu lớp 1 16
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 19
19
Chương 2 20
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÙ HỢP 20
2.1. Biện pháp tác động từ phía GV 20
2.2. Biện pháp tác động từ phía gia đình. 22
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 24
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 25
26
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
4
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
CÁC TỪ VIẾT TẮT
Học sinh HS
Giáo viên GV
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
5
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Thực tế các nước đã và đang phát triển đều cho thấy, giáo dục tiểu học là một
bộ phận quan trọng trong nền giáo dục quốc dân, làm nền tảng cho sự phát triển giáo
dục của đất nước. Giáo dục tiểu học là bậc học nền móng, có vai trò và vị trí quan
trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông. Luật Giáo dục ban hành năm 2005 (sửa đổi
bổ sung năm 2009) đã xác định: “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học THCS”.
Trong bậc giáo dục tiểu học, lớp 1 có vai trò đặc biệt quan trọng, nếu coi bậc
tiểu học là nền, lớp 1 là móng thì bậc giáo dục phổ thông là một tòa cao ốc, nền móng
có tốt thì tòa cao ốc xây dựng nên mới vững chắc. Đây là hình ảnh trực quan về vị trí
và tầm quan trọng của giáo dục tiểu học trong nền giáo dục quốc dân.
Từ mẫu giáo lên lớp 1 là một bước ngoặt có vị trí vô cùng quan trọng đồi với
mỗi học sinh. Nếu như ở mẫu giáo, hoạt động vui chơi là hoạt đọng chủ đạo thì vào
lớp 1 hoạt động HỌC TẬP là hoạt động chủ đạo. Quá trình này sẽ gây cho trẻ rất
nhiều khó khăn.
Ví dụ: khó khăn về mặt sinh học, khó khăn về các mặt xã hội, khó khăn về sự
thay đổi môi trường sống và trong đó có cả những khó khăn về tâm lí.
Hoạt động chủ đạo là yếu tố quyết định những nét đặc trưng tâm lý của lứa tuổi
học sinh tiểu học. Nếu hoạt động này diễn ra tốt đẹp thì sự phát triển tâm lý của trẻ sẽ
đúng hướng và ngược lại. Vì vậy, nếu chúng ta hiểu được những khó khăn tâm lí của
trẻ và có nhũng biện pháp khắc phục thì trẻ sẽ thích nghi với hoạt động học tập tốt
hơn, tiếp thu sự giáo dục một cách dễ dàng nhất. Từ đó giúp trẻ đạt kết quả cao trong
học tập cũng như trong sự phát triển tâm lí và hình thành nhân cách.
Trên thực tế, mỗi năm nước ta có hơn một triệu học sinh bắt đầu vào lớp 1 và
rất nhiều phụ huynh (nhất là ở những thành phố lớn) đã cho con đi luyện chữ, luyện
toán trước khi vào lớp 1, gây áp lực học tập cho con, khiến cho trẻ mất hứng thú đi
học. Như vậy, áp lực từ phía phụ huynh và nhà trường tới học sinh lớp 1 trên thực tế
vẫn đang diễn ra.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1
trường tiểu học Ngô Quyền (TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù
hợp” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho học phần “Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học
sư phạm” trong quá trình học tập môn học này trong nhà trường.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: những khó khăn tâm lí của học sinh khối lớp 1
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối lớp 1 trường tiểu học Ngô Quyền (TP
Kon Tum)
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
6
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích: Làm rõ những khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1 và từ đó đề xuất
phương pháp dạy học phù hợp.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, các đặc điểm tâm lý về những khó khăn khi đi học
của học sinh đầu lớp 1.
- Đề xuất một số phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục ở đối tượng này.
VI. Phương pháp nghiên cứu.
Vận dụng, phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để đạt kết
quả tốt nhất như:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp nghiên cứu bản chất các hiện tượng tâm lý của học sinh lớp 1.
- Phương pháp nghiên cứu mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý đó.
- Phương pháp vai trò, chức năng của tâm lý đối với hoạt động của con người.
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp phân tích
V. Cấu trúc đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo nội dung chính của đề tài được kết
cấu gồm 2 chương:
Chương 1: Tìm hiểu cơ sở lý luận về khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1
1.1: Khái niệm khó khăn tâm lý
1.2: Khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1
1.3: Nguyên nhân và biểu hiện dẫn đến khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1
Chương 2: Một số phương pháp dạy học phù hợp
2.1: Biện pháp tác động từ phía giáo viên
2.2: Biện pháp tác động từ phía gia đình
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
7
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
NỘI DUNG
Chương 1:
TÌM HIỂU CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ
CỦA HỌC SINH ĐẦU LỚP 1
1.1 KHÁI NIỆM KHÓ KHĂN TÂM LÝ
Một số từ điển tiếng Việt hiện nay cho rằng, khó khăn có nghĩa là có nhiều trở
ngại, thiếu thốn, đòi hỏi nhiều nỗ lực (từ điển tiếng Việt/201).
Như vậy, có thể hiểu “khó khăn là những trở ngại cản trở hoạt động, đòi hỏi
con người phải nỗ lực vượt qua để không đi chệch hướng mục tiêu đã đề ra”.
Trong cuộc sống hàng ngày, khái niệm “khó khăn” thường sử dụng với ý nghĩa
nêu trên, vậy nội hàm của khái niệm “khó khăn” có liên quan gì tới khái niệm “khó
khăn tâm lý” không?
Trong tâm lý học, một số tác giả dùng thuật ngữ “hàng rào tâm lý, cản trở tâm
lý, ngăn cản tâm lý ” cùng để chỉ khó khăn tâm lý.
Theo Từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên, “hàng rào tâm lý được hiểu là
trạng thái tâm lý ở tính thụ động quá mức của chủ thể, gây cản trở trong việc thực hiên
hành động.
Theo PGS.TS Trần Trọng Thủy cho rằng, “KKTL” (khó khăn tâm lý) là một
khái niệm rộng chỉ tất cả các nhân tố tâm lý gây khó khăn cho việc thực hiện một hành
động nào đó. Theo ông, khái niệm này rộng hơn khái niệm “rào chắn tâm lý” vốn chỉ
là một loại của khó khăn tâm lý mà thôi. Đó là những trạng thái tâm lý, được thể hiện
là sự thụ động không phù hợp, gây trở ngại cho việc thực hiện một hành động nào đó.
Còn “khó khăn tâm lý” không chỉ là những trạng thái tâm lý, mà còn có thể là những
quá trình hoặc thuộc tính tâm lý nữa, nó không chỉ tăng cường các trải nghiệm đó và
cản trở trực tiếp hành động.
Như vậy, khó khăn tâm lý là sự thiếu hụt phẩm chất tâm lý cần thiết cho sự
hoạt động của cá nhân gây cản trở cho hoạt động của cá nhân và làm cho hoạt động
kém hiệu quả.
Sự “thiếu hụt” phẩm chất tâm lý của cá nhân thể hiện ở chỗ cá nhân đã có những
phẩm chất tâm lý cần thiết cho hoạt động nhưng những phẩm chất tâm lý này chưa phù
hợp hoặc mức độ của các phẩm chất tâm lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt
động. Do đó, cá nhân gặp khó khăn khi tiến hành hành động.
1.2. KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA HỌC SINH ĐẦU LỚP 1.
Để tìm hiểu rõ hơn khái niệm khó khăn tâm lý của HS (học sinh) đầu lớp 1,
trước hết phải xem xét khái niệm HS đầu lớp 1 và một số đặc điểm tâm sinh lý, đặc
điểm hoạt động học tập và đặc điểm sinh hoạt trong nhà trường của các em.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
8
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
1.2.1. Quan niệm về học sinh đầu lớp 1.
Trong luận án tiến sĩ “hình thành kỹ năng đọc và viết tiếng Việt cho học sinh
đầu lớp 1” của tác giả Dương Thị Diệu Hoa, tác giả có nhấn mạnh “có thể hình thành
kỹ năng đọc, viết tiếng Việt cho học sinh đầu lớp 1 trong khoảng thời gian 12 tuần ( +-
1) thực học (tính từ ngày khai giảng)”. Cụ thể, ở nội dung của chương trình sau 12 bài
học tương ứng với 12 tuần có bài kiểm tra chất lượng học phần I. Nhấn mạnh hơn
nữa đến độ tuổi của HS đầu lớp 1, ở phần Kết quả thực nghiệm thăm dò – phần Mục
đích, tác giả Dương Thị Diệu Hoa viết: “để đảm bảo độ “an toàn” của việc nghiên cứu,
chúng tôi kéo dài thời hạn của độ tuổi đầu lớp 1. Trong đó chia làm 2 thời kỳ: Những
tháng trước tuổi đi học (cuối lớp mẫu giáo lớn trong thời gian hè chuẩn bị vào lớp 1)
và thời gian đầu lớp 1 (khoảng 3 tháng đầu của năm học tính từ ngày khai giảng)”
[28ª, trang 100].
Như vậy qua luận án của tác giả Dương Thị Diệu Hoa, tác giả quan niệm về
học sinh lớp 1 là khoảng thời gian tính từ 3 tháng tính từ ngày khai giảng cho đến khi
kiểm tra chất lượng học phần I. Ở luận án này, trên cơ sở tham khảo quan niệm của tác
giả Dương Thị Diệu Hoa và căn cứ vào Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn
học lớp 1 do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành [3, 5-26] để quan niệm về học sinh đầu
lớp 1. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chương trình học các môn của HS
lớp 1 diễn ra trong 35 tuần trong đó có 4 lần kiểm tra định kỳ:
Lần 1 vào tuần 10: Kiểm tra giữa kỳ I
Lần 2 vào tuần 18: Kiểm tra học kỳ I
Lần 3 vào tuần 26: Kiểm tra giữa học kỳ II
Lần 4 vào tuần 35: Kiểm tra học kỳ II.
Căn cứ vào phân phối chương trình như trên, khoảng thời gian 3 tháng đầu tính từ
ngày khai giảng (5/9 đến khoảng 5/11) là mốc đầu lớp 1.
1.2.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh đầu lớp 1.
Các nhà tâm sinh lý cho rằng, thời kỳ trẻ 6 tuổi đến trường là thời kỳ thuận lợi
nhất cho việc phát triển trí tuệ. Ở giai đoạn này, trẻ đã có những tiền đề cần thiết: sự
chín muồi đến trường về các mặt tâm sinh lý, nhận thức, trí tuệ, ngôn ngữ và tâm
thế, để có thể thích nghi bước đầu tiên với điều kiện học tập ở lớp 1.
Về mặt chú ý của trẻ 6 tuổi chưa đạt đến trình độ bền vững và thường không có
chủ định, dễ bị phân tán. Khối lượng chú ý còn hạn chế, trẻ chỉ có thể bao quát được
1-2 đối tượng cùng một lúc, trạng thái chú ý này biểu hiện rất rõ ở bề ngoài của trẻ
qua tư thế, cử chỉ,
Về ghi nhớ trẻ 6 tuổi ghi nhớ máy móc rất tốt. Ghi nhớ có chủ định của trẻ đã
phát triển nhưng ghi nhớ máy móc vẫn chiếm ưu thế.
Cùng với sự phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng của trẻ 6 tuổi cũng phát triển
mạnh và có sắc thái mới so với trí tưởng tượng của trẻ em 4-5 tuổi. Trên cơ sở vốn
kinh nghiệm tích lũy được, trí tưởng tượng của trẻ 6 tuổi trở nên hiện thực hơn, có
tính sáng tạo hơn.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
9
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
Tư duy của trẻ 6 tuổi mang nặng màu sắc cảm tính, kinh nghiệm chủ nghĩa mà
đặc trương của nó là kiểu tư duy chủ quan – hình ảnh tương ứng với cuộc sống và
hoạt động của trẻ 5-6 tuổi. Đó là kiểu tư duy hình thành trong cuộc sống, trong hoạt
động vui chơi của các em, tạo tiền đề cho việc hình thành tư duy kiểu mới – tu duy
trìu tượng.
Ngôn ngữ của trẻ 6 tuổi đã phát triển khá tốt, các em biết sử dụng đúng những
câu đơn giản để giao tiếp với bạn và người lớn. Điều cần chú ý là ngôn ngữ tự kỉ của
trẻ em 6 tuổi, đó là ngôn ngữ hướng vào chính bản thân của đứa trẻ, ít phục vụ cho
việc giao tiếp, nhưng là phương tiện tư duy của các trẻ em.
Về phương diện tình cảm HS lớp 1 vẫn phản ứng mãnh liệt đối với những hiện
tượng riêng lẻ làm trẻ bực mình. Tuy nhiên, trẻ bắt đầu kiềm chế cảm xúc của mình
hơn, nhưng kiềm chế thái độ không bằng lòng, sự bực tức, tính tỵ nạnh khi ở trong
tập thể lớp. HS lớp 1 còn “là người theo chủ nghĩa cực đoan nhất”. sở phát triển
những chức năng tâm lý và trí tuệ, nhân cách của trẻ cũng được phát triển. Trẻ em 6
tuổi có sự phát triển bình thường về mặt sinh lý và tâm lý đều có thể đến trường và
đáp ứng yêu cầu của hoạt động học tập cũng như sinh hoạt trong nhà trường tiểu
học.
1.2.3. Đặc diểm hoạt động học tập của học sinh đầu lớp 1
Sự hình thành những đặc điểm, cấu trúc và hoạt động học tập ở học sinh tiểu
học là biệt so với trẻ mẫu giáo.
Trước tuổi học, sự lĩnh hội tri thức, kỹ năng và kỹ xảo của trẻ em diễn ra dưới
các hình thức: giao tiếp với người lớn, trực tiếp quan hệ với đồ vật thông qua các trò
chơi, dưới các hình thức này, sự lĩnh hội biểu hiện như là những sản phẩm phụ của
các hoạt động khác, với tư cách là những điều kiện, phương tiện cần có của chúng.
Vậy tình huống học tập là gì? Tình huống học tập là những hoàn cảnh mà giáo
viên đặt ra đòi hỏi học sinh đứng trước nhũng hoàn cảnh đó cần phải tìm ra phương
thúc chung để giải quyết. Thông qua việc giải quyết nó, học sinh sẽ lĩnh hội được một
phương thức hành động mới hoặc vận dụng phương thức hành động chung đã có vào
việc giải quyết những vấn đề cụ thể có cùng bản chất.
Việc giải quyết các tình huống học tập của trẻ được tiến hành từ những hành
động thuộc kiể khác nhau. Trong những hành động này, hành động học tập giữ vai trò
chủ đạo. Nhờ có hoạt động học tập mà học sinh có thể tái tạo, lĩnh hội hoặc tìm ra
những phương thức chung để giải quyết tình huống.
Để hình thành hoạt động học tập của trẻ lớp 1 cần chú ý đến vấn đề sau:
- Trước hết, toàn bộ quá trình dạy học phải được xây dưng trên cơ sở làm cho trẻ có
những biểu tượng đầy đủ về các nhân tố chủ yếu của hoạt động học tập (hành động
mẫu) và lôi cuốn các em tích cực thực hiện các hành động này. Cần vạch ra những chi
tiết, những tiền đề của tình huống học tập và chỉ cho tre một cách rõ ràng, đầy đủ về
các trình tự của các cử động, thao tác của mỗi hành động, ứng xử và logic của mỗi
hành động, đặc biệt là hành động vật chất.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
10
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
- Cần có sự chỉ bảo trực tiếp, sự kiểm tra và đánh giá đúng và chi tiết hành động, ứng
xử của trẻ. Dần dần hình thành ở trẻ khả năng tự kiểm tra, đánh giá và tự điều chỉnh
hành vi bằng cách đối chiếu hành vi ứng xử, hành động của bản thân trẻ với hành động
mẫu của giáo viên.
- Khơi dậy ở trẻ nhu cầu, hứng thú với nội dung bên trong của các môn học, biến
thái độ tích, trừu tượng đối với nhận thức nói chung thành thái độ với tùng môn học cụ
thể.
Có thể nói rằng thông qua hoạt động học tập – hoạt động chủ đạo của học sinh
lớp 1, là cơ sở cho sự phát triển tâm lý của các em. Việc tuân thủ thực hiện những yêu
cầu của hoạt động đòi hỏi ở trẻ những cấu tạo tâm lý mới mà trẻ chưa có, đồng thời
những cấu tạo tâm lý này lại được hình thành trong chính quá trình học tập của trẻ.
Những cấu tạo tâm lý mới ở học sinh lớp 1 được hình thành trong quá trình học
tập bao gồm: Những chuẩn mực và nguyên tắc hành vi, tính chủ định, bình diện bên
trong của hành động và sự phản tỉnh. Nhờ có những cấu tạo tâm lý mới hình thành
trong quá trình hoạt động học, đảm bảo cho trẻ hoạt động học tập ở lớp 1 và những
năm sau này.
Tóm lại, hoạt động học tập ở lớp 1 có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
- Hoạt động học trở thành hoạt động chủ đạo của trẻ học lớp 1. Trong giai đoạn
phát triển tâm lý của mình, trẻ có một hoạt động thể hiện quan hệ nổi bật, chiếm hữu
ưu thế giữa các em với một đối tượng trong hiện thực. Là hoạt động lần đầu tiên xuất
hiện nhưng đóng vai trò quyết định sự hình thành những cấu tạo tâm lý mới cho trẻ và
tạo điều kiện cho sự phát triển trong những giai đoạn tiếp theo
Vào lớp 1, trẻ bắt đầu thực hiện “bước quá độ” vĩ đại nhất trong toàn bộ cuộc
đời. Nó chuyển từ hoạt động vui chơi - hoạt dộng chủ đạo trong giai đoạn trước dã lỗ
thời sang hoạt động chủ đạo mới – hoạt động học với đối tượng mới xuất hiện lần đầu
tiên trong đời. Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này kéo theo một loạt những thay dổi
khác trong cuộc sống, đặt trẻ vào một tình huống mới chưa từng gặp, dễ gây ra cuộc
“khủng hoảng” trong sự phát triển hiện tại và ảnh hưởng lâu dài với trẻ.
- Hoạt động học có đối tượng (nội dung) là tri thức khoa học được phán ánh
thông qua các môn học. Trước tuổi học, ở gia đình và lớp mẫu giáo, trẻ lĩnh hội những
tri thức kinh nghiệm thông qua các trò chơi. Còn với hoạt động học tập, nội dung lĩnh
hội của trẻ lớp 1 là các khái niệm khoa học, phổ thông, chính xác và hiện đại được tổ
chức dưới hình thức các môn học. Để tiến hành có hiệu quả quan hệ với đối tượng này,
trẻ buộc phải có những phẩm chất, năng lực và hành vi mới mà trước đó trẻ chưa có.
- Hoạt động học còn hướng vào lĩnh hội cách học. Với trẻ lớp 1, hoạt động học
được tiến hành theo một quy trình mới. Để thực hiện hoạt động này có hiêu quả và để
hình thành được những phương tiện học tập, một trong những nhiệm vụ quan trọng
của hoạt động học ở trẻ lớp 1 là phải hình thành chính hoạt động học mà bản chất là
lĩnh hội được cách học, cách làm việc trí óc như một phương thức mới.
Những đặc điểm cơ bản nêu trên của hoạt động học đòi hỏi trẻ phải có những thay
đổi căn bản về cách thức sống, cách thức hoạt động để có thể đáp ứng được những yêu
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
11
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
cầu của việc học. Tuy nhiên, không phải trẻ lớp 1 nào cũng có thể đáp ứng được
những yêu cầu của hoạt động học tập ngay từ những ngày đầu đi học, chính vì vậy đã
có nhứng KKTL trong hoạt động học tập ở trẻ lớp 1.
1.2.4.Đặc điểm sinh hoạt trong nhà trường của HS đầu lớp 1
Đi học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ. Có thể nói rằng,
năm học lớp 1 là năm diễn ra những biến đổi quan trọng trong các điều kiện sống và
hoạt động của trẻ, và từ đó kéo theo sự thay đổi tâm lý của trẻ.
Ở giai đoạn lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo, thì vào lớp
1, việc học tập và tích lũy tri thức đã trở thành hoạt động chủ đạo của trẻ. Chính trong
quá trình chuyển hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập khiến trẻ gặp phải một số
KKTL nhất định. Bởi lẽ, bước vào lớp 1, học tập trở thành bổn phận hàng đầu và quan
trọng nhất của trẻ. Đến trường, HS bước vào các quan hệ mới và phức tạp hơn đối với
các em. Đó là mối quan hệ với thầy cô và bạn bè cùng tuổi. Trong quan hệ với giáo
viên (GV) của trẻ lớp 1 khác với quan hệ với GV ở thời mẫu giáo. Nếu như ở giai
đoạn mẫu giáo, trẻ dược cô cưng chiều hơn, dỗ dành nhiều hơn thì ở giai đoạn này,
việc nhà trường và GV đề ra một loạt yêu cầu mới (nội quy, nề nếp sinh hoạt học tập)
khá nghiêm túc bắt buộc trẻ phải tuân thủ để cho việc học tập tiến hành một cách bình
thường, và điều này ít nhiều làm xáo trộn tâm lý của trẻ. Ngoài ra, đây còn là giai đoạn
chuyển tiếp của trẻ khi kết hợp những nét tâm lý đã hình thành ở tuổi mẫu giáo với
những phẩm chất của một HS đang được hình thành. Quá trình chuyển đổi này đòi hỏi
học sinh lớp 1 phải có những cấu tạo tâm lý mới để giúp trẻ thích nghi với quá trình
học tập ở nhà trường.
Như vậy, trong giai đoạn đầu lớp 1, trẻ phải tuân thủ những yêu cầu của nhà trường,
hình thành những hành vi, hứng thú học tập. Tuy nhiên, trẻ không có ngay những điều
đó. Để hình thành được những hứng thú học tập trẻ phải trải qua những khó khăn nhất
định ở mức độ khác nhau tùy thuộc vào mỗi trẻ.
1.3 MỘT SỐ BIỂU HIỆN VÀ NHÂN TỐ DẪN ĐẾN KHÓ KHĂN TÂM LÝ ĐẦU
LỚP 1.
1.3.1 Một số biểu hiện dẫn đến khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1
1.3.1.1 KKTL trong hành vi thực hiện nội quy học tập
Nội quy học tập là những quy định do nhà trường đề ra áp dụng trong nhà trường,
đòi hỏi mọi HS phải tuân thủ và nghiêm chỉnh thực hiện.
Có người cho rằng hành vi là tất cả các phản ứng của con người (vô thức, ý thức,
máy móc). Trong khi đó lại có người cho rằng, hành vi là những phản ứng có ý thức,
được điều khiển bởi ý thức. Một số khác lại cho rằng hành vi là cách ứng xử của một
người trong một hoàn cảnh cụ thể được biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ
nhất định.
Như vậy, hành vi thực hiện nội quy học tập thể hiện cách ứng xử của HS đối với
những quy định do nhà trường đề ra.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
12
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
KKTL trong hành vi thực hiện nội quy học tập được biểu hiện qua 9 mặt sau:
1. Không tập trung (quay ngang, quay ngửa, nhìn ra ngoài )
2. Ngủ gật trong giờ học
3. Nói chuyện riêng
4. Làm việc riêng trong giờ học
5. Chui xuống gầm bàn, nằm ra ghế
6. Đi học muộn
7. Quên xếp hàng vào lớp
8. Vẽ bậy, vứt rác ra lớp, trường
9. Quên mặc đồng phục
1.3.1.2 KKTL trong hành vi thực hiện nề nếp học tập
Đi đôi với việc thực hiện nội quy trong học tập, công tác xây dựng nề nếp cho HS là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của người GV. Trên thực tế, nếu không có nề
nếp thì giáo dục và dạy học trên lớp sẽ không đạt hiệu quả cao.
Nề nếp học tập là những quy đinh thói quen chung để duy trì sự ổn định, trật tự
trong học tập và làm cho quá trình học tập của học sinh thu được kết quả tốt.
Như vậy, hành vi thực hiện nề nếp sinh hoạt và học tập thể hiện cách ứng xử của HS
đối với những quy định và thói quen chung trong sinh hoạt và học tập tại trường.
Căn cứ vào thực hiện nề nếp sinh hoạt và học tập trong nhà trường tiểu học, KKTL
trong hành vi thực hiện nề nếp sinh hoạt và học tập được nghiên cứu và thể hiện vào 8
biểu hiện sau:
1. Quên làm bài tập về nhà
2. Quên học bài trước khi đến lớp
3. Quên chép bài trong giờ học
4. Quên mang sách vở, đồ dùng học tập
5. Mang nhầm sách vở, đồ dừng học tập
6. Nhìn bài của bạn
7. Nhắc bài cho bạn khi không được phép của cô giáo
8. Không giơ tay xin phép cô khi phát biểu ý kiến.
1.3.1.3 KKTL trong hành động đọc, viết, làm toán
Đối với HS đầu lớp 1, nội dung học tập dành cho HS lớp 1 không nhiều nhưng
khó thành công. Nội dung học tập dành cho lớp 1 chỉ cần đủ để tiếp cận với việc học
như học nghe, học nói, học đọc, học viết; học làm tính cộng, làm tính trừ với những số
nhỏ trong phạm vi 10, 20; học về một số phép ứng xử trong mối quan hệ của trẻ nhỏ,
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
13
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
học múa, học vẽ, học hát Như vậy, nội dung học đọc, viết, làm toán chiếm phần lớn
nội dung học tập của HS.
Quá trình học tập của HS lớp 1 là quá trình hình thành ở các em hoạt động đích
thực, trong đó việc hình thành cách học, hình thành các thao tác trí óc nổi lên hàng
đầu, là cái chất cần đạt được.
Căn cứ vào các yêu cầu của hoạt động học tập đối với HS lớp 1, KKTL trong hành
động đọc, viết, làm toán được nghiên cứu trên 8 biểu hiện:
1. Đọc không theo kịp hướng dẫn của cô giáo
2. Cúi sát mặt xuống vở khi viết
3. Ngồi viết sai tư thế
4. Khi viết tay cứng đờ
5. Khi viết ấn mạnh bút
6. Viết không theo kịp bạn
7. Không trả lời được câu hỏi của cô giáo trong các giờ học toán
8. Làm toán không theo kịp bạn.
1.3.1.4 KKTL trong tự chủ khi chuyển từ trạng thái học sang chơi và ngược lại.
Tự chủ là năng lực thực hiện các hoạt động trong các tình huống hỗn độn, thiếu
tổ chức có ảnh hưởng đến mặt cảm xúc. Tính tự chủ thể hiện sự tổ chức một cách có ý
chí, có ý thức quá trình điều chỉnh tâm lý hoạt động. Tự chủ là chỉ số chín chắn về mặt
cảm xúc và xã hội của nhân cách.
Sự tự chủ khi chuyển từ trạng thái học sang chơi và từ chơi sang học thể hiện sự tổ
chức một cách có ý chí, có ý thức trong quá trình chuyển giao cảm xúc, sự chú ý và ý
chí của HS trong khoảng thời gian giữa giờ học sang giờ chơi (và ngược lại) theo yêu
cầu của nhà trường hoặc theo yêu cầu của PHHS. Trên cơ sở đó, KKTL trong sự tự
chủ khi chuyển từ trạng thái học sang chơi và ngược lại được thể hiện qua 8 biểu hiện
sau:
1. Cố chơi thêm chút nữa rồi mới vào lớp khi có trống vào lớp.
2. Muốn ra chơi ngay khi có trống ra chơi
3. Không cần chờ GV cho phép đã ra chơi ngay khi có trống
4. Chờ cô nhắc mới ra chơi khi có trống ra chơi
5. Khi đang chơi hoặc đang xem ti vi bị bố mẹ nhắc nhiều lần mới chịu học bài
6. Dừng chơi và lên lớp ngay khi có trống vào lớp
7. Cất sách vở xong rồi mới chịu ra chơi khi có trống
8. Cảm giác thích thú sau giờ giải lao
1.3.1.5 KKTL trong thái độ đối với học tập
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
14
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
Có nhiều quan điểm khác nhau về thái độ. Gordon W.Allport định nghĩa: “Thái
độ là một trạng thái tâm lý – thần kinh của sự sẵn sàng cho hoạt động trí óc và cơ thể”.
I.Srnoff định nghĩa: “Một thái độ của cá nhân đối với một lớp đối tượng được xác định
bởi vai trò riêng biệt của các đối tượng trong việc tăng cường các phản ứng làm giảm
sự căng thẳng của các động cơ riêng biệt và giải quyết các xung đột riêng biệt trong
các động cơ”. Lomov cho rằng: “Thái độ bao hàm cả việc đánh giá, biểu hiện hứng thú
cá nhân”.
Như vậy, thái độ của cá nhân là sự đánh giá của cá nhân về đối tượng hoạt
động biểu hiện qua xúc cảm của cá nhân đối với các đối tượng đó.
Thái độ đối với học tập được hiểu là sự định hướng cảm xúc (mang tính tích cực hay
tiêu cực) liên quan tới việc học của nhà trường hay thành tích và có thể phụ thuộc vào
các nội dung ở nhà trường hay các nội dung học tập (ví dụ: các môn học), các hoạt
động, các cá nhân (như đội ngũ GV) hay những không gian sống (ví dụ như trường
lớp)
Tìm hiểu về KKTL trong thái độ đối với hoc tập được thể hiện qua 10 biểu hiện sau:
1. Không ốm mà vẫn nghỉ học
2. Buổi tối vừa học vừa chơi
3. Buổi tối chơi xong rồi mới học
4. Buổi tối nhiều hôm chưa học xong đã đi ngủ
5. Chưa học bài buổi tối lần nào
6. Nắn nót mỗi khi tập viết
7. Dành thời gian cho môn học yêu thích
8. Buổi tối học bài xong rồi mới chơi hoặc ngủ
9. Ý thức tự giác trong việc học và làm bài tập
10. Sự tập trung trong quá trình học và làm bài tập ở nhà.
1.3.1.6 KKTL trong sự thiết lập các mối quan hệ trong giao tiếp với bạn.
Giao tiếp là sự xác lập và vân hành mối quan hệ giữa con người với con người
thể hiện qua sự tiếp xúc tâm lý, thông qua đó con nguời trao đổi với nhau về thông tin,
về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau.
Như vậy, giao tiếp là hoạt động không thể thiếu đối với con người nói chung và
HS đầu lớp 1 nói riêng. Bước chân vào trường tiểu học, HS lớp 1 bắt đầu thiết lập các
mối quan hệ giao tiếp. Trong trường tiểu học giao tiếp của các em thường xảy ra trong
các mối quan hệ với thầy cô giáo và cán bộ nhân viên của trường, với bạn bè cùng lớp,
với bạn bè cùng trường, với tập thể.
Giao tiếp có ý nghĩa quan trọng tới cuộc sống cũng như sự phát triển của HS
lớp 1: trong giao tiếp mỗi HS là nguồn phát ra thông tin, vừa là nơi tiếp nhận thông tin.
Thu nhận và sự lý thông tin là con đường quan trọng để hình thành, phát triển và hoàn
thiện nhân cách. Qua giao tiếp các em thiết lập và vận hành được mối quan hệ với bạn,
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
15
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
với thầy cô nhờ vậy mà tìm được sự bình yên trong đời sống tình cảm để vượt qua
những khó khăn trong đời sống nhà trường, đặc biệt là trong học tập. Hơn thế, nhờ
giao tiếp, các em hiểu nhau, có được những ấn tượng tốt về nhau đẻ nảy sinh tình cảm.
Giao tiếp góp phần to lớn trong việc hình thành và phát triển khả năng hợp tác tinh
thần cộng đồng trách nhiệm để hoàn thành những nhiệm vụ chung của tổ, tập thể lớp
Tuy nhiên do đặc điểm lứa tuổi, phạm vi giao tiếp của HS thường hẹp, các em
chủ yếu quan hệ với người thân trong gia đình, bạn bè cùng xóm, phố; với bạn cùng
tổ, cùng lớp và với thấy cô giáo phụ trách lớp. Nội dung giao tiếp của các em thường
xoay quanh học tập, vui chơi, sinh hoạt tập thể, trao đổi về sách báo, “bàn luận” về
những điều xảy ra trong cuộc sống thật của các em. Vì vậy, giao tiếp của các em còn
đơn giản và mang tính chất cảm xúc.
KKTL trong sự thiết lập các mối quan hệ trong giao tiếp với các bạn được thể hiện
qua 8 biểu hiện sau:
1. Thích chơi với bạn
2. Hỏi bài bạn mỗi khi không làm được bài
3. Đánh nhau với bạn
4. Cãi nhau với bạn
5. Bị bạn trêu chọc
6. Trêu chọc bạn
7. Sợ chơi với bạn
8. Các bạn trong lớp không thích chơi cùng.
1.3.2 Một số nhân tố dẫn đến KKTL của học sinh đầu lớp 1
1.3.2.1 Những nhân tố khách quan
1. Trí tuệ của HS đầu lớp 1
Hiện nay trong tâm lý có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trí tuệ, điều này thể
hiện sự đa dạng, phong phú trong nghiên cứu trí tuệ, nhưng cũng cho thấy sự chưa
thống nhất về khái niệm. Có thể khái quát các định nghĩa về trí tuệ thành 3 nhóm:
a. Trí tuệ là khả năng lao động, học tập của cá nhân
b. Đồng nhất với trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng của cá nhân
c. Trí tuệ là năng lực thích ứng của cá nhân với ngoại cảnh
Các nhóm trí tuệ trên không loại trừ nhau mà chỉ là sự nhấn mạnh một mặt, một
mặt của trí tuệ chứ chưa bao quát khái niệm trí tuệ.
Trí tuệ là nhân tố ảnh hưởng đến KKTL của HS đầu lớp 1. Tuy nhiên, trí tuệ không
phải là thước đo nói chung hay phương tiện luyện tập trí lực cho HS, mà chỉ là những
chỉ báo về trí lực của trẻ ở một thời điểm nhất định. Qua đó, sự tương quan giữa các
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
16
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
mức độ trí tuệ với KKTL của trẻ cho thấy có sự đồng thuận hay không đồng thuận về
chiều biến thiên giữa mức độ trí tuệ với mức độ KKTL của trẻ.
1. Tâm thế sẵn sàng đi học của HS đầu lớp 1:
Tâm thế sẵn sàng đi học của HS đầu lớp 1 là trạng thái chủ quan của HS thể hiên sự
sẵn sàng tham gia hoạt động học tập. Tâm thế sẵn sàng đi học được thể hiện trong các
mặt của xúc cảm, tình cảm, ý chí và định hướng cho các quá trình tâm sinh lý của HS
diễn ra theo một cách nhất định khi tham gia vào hoạt động học tập. Tâm thế sẵn sàng
đi học của HS đầu lớp 1 được nghiên cứu ở 2 mặt biểu hiện sau: xúc cảm và sinh lý.
Tâm thế sẵn sàng đi học của HS được hình thành trong quá trình tích lũy kiến thức,
kinh nghiệm tự hoạt động học tập ở lớp mẫu giáo và từ sự chuẩn bị của gia đình cho
trẻ trước khi vào lớp 1. Độ vững chắc của tâm thế sẵn sàng đi học là có điều kiện, nó
sẽ bị mất đi nếu như HS không thường xuyên được củng cố và tích lũy. Chính vì vậy,
có HS những ngày đầu đến trường tiểu học thì rất thích thú, nhưng chỉ sau một thời
gian ngắn đã chán nản mỗi khi phải đến trường.
1.3.2.2 Những nhân tố khách quan
* Quan hệ giữa GV và HS: Trong nhà trường, hoạt động của GV và HS có cùng một
mục đích. Mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò là một dạng đặc biệt của những mối
quan hệ giữa con người với con người, bắt nguồn từ tính chất đặc biệt của sự hoạt
động phối hợp giữa thầy và trò. Mối quan hệ này được biểu hiện và thay đổi trong quá
trình dạy học và giáo dục. Nó vừa là tiền đề, vừa là điều kiện và kết quả của hoạt động
sư phạm. Nói cách khác, quan hệ thầy trò là một trong những con đường tác động giáo
dục quan trọng nhất của người lớn đối với trẻ em. Quan hệ thầy trò tạo nên cái nền
cảm xúc, quy định mọi thứ diễn ra trong giờ học. Nó có thể làm tăng hay giảm sự căng
thẳng tâm lý của HS. Những tâm trạng, xúc cảm được HS thử nghiệm trong giờ học có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển chung và đến kết quả học tập của HS.
Đối với HS đầu lớp 1, GV là người có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các em.
GV là người trực tiếp dạy dỗ, dìu dắt các em trong học tập và trong sinh hoạt tại
trường tiểu học. Thời gian của HS lớp 1 ở trường với cô nhiều hơn thời gian của trẻ ở
nhà với cha mẹ. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa cô và trò là rất khăng khít. Do đó,
nghiên cứu mối quan hệ giữa GV với HS là điều cần thiết. Nếu mối quan hệ diễn ra tôt
đẹp chắc chắn nó sẽ ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển nhân cách của HS và ngược
lại.
* Sự chuẩn bị của gia đình cho trẻ vào lớp 1:
Sự chuẩn bị của gia đình cho trẻ vào lớp 1 là một quá trình diễn ra trước khi trẻ vào
lớp 1 nhằm giúp trẻ thích nghi được với các hoạt động khi trẻ bước chân vào trường
tiểu học. Chuẩn bị cho trẻ đến trường cần theo 3 hướng chính:
- Những tri thức cần thiết
- Những hành vi của bản thân
- Các động cơ kích thích học tập
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
17
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
Như vậy, việc giúp cho trẻ thích nghi được với hoạt động mới không thể thiếu sự
chuẩn bị của gia đình cho trẻ trước khi vào lớp 1.
* Ứng xử của cha mẹ với trẻ học lớp 1:
Ứng xử là sự phản ứng của con người đối với sự tác động của người khác đến mình
trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở chỗ con người không chủ động
trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có tính toán, thể hiện qua
thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng – tùy thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân
cách của mỗi người nhằm đạt kết quả giao tiếp cao nhất.
Ứng xử của cha mẹ với trẻ đi học lớp 1 thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách
nói năng của cha mẹ đối với trẻ liên quan đến chuyện học tập và sinh hoạt của trẻ ở
trường cũng như ở nhà.
Những nhân tố chủ quan và những nhân tố khách quan sẽ được tính tương quan với
các mặt biểu hiện KKTL của HS đầu lớp 1 và từ đó đưa ra mức độ dự báo về KKTL
của HS đầu lớp 1.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
18
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Từ lý luận về đặc điểm tâm sinh lý của HS đầu lớp 1, quan niệm về HS đầu lớp 1,
kết hợp với những đặc điểm học tập và sinh hoạt của học sinh đầu lớp 1 tại trường tiểu
học, ta thấy KKTL của HS đầu lớp 1 là sự thiếu hụt phẩm chất tâm lý cần thiết cho
hoạt động học tập và sinh hoạt trong nhà trường của HS trong những ngày đầu đi học
tiểu học gây cản trở cho hoạt động học tập và sinh hoạt của HS và khiến cho các hoạt
động này kém hiệu quả.
Sự thiếu hụt phẩm chất tâm lý của học sinh thể hiện ở chỗ HS đã có những phẩm
chất tâm lý cần thiết cho hoạt động học tập và sinh hoạt ở đầu lớp 1, nhưng những
phẩm chất tâm lý này chưa phù hợp hay mức độ cử các phẩm chất tâm lý chưa đáp
ứng được yêu cầu của hoạt động học tập và sinh hoạt trong nhà trường. Sự thiếu hụt
phẩm chất tâm lý của học sinh còn thể hiện ở chỗ các phẩm chất tâm lý ở học sinh
chưa phát triển được đến mức tạo ra cấu tạo âm lý mới cần thiết cho giai đoạn phát
triển của học sinh đầu lớp 1. Do đó, HS gặp khó khăn khi tiến hành hoạt động học tập
và sinh hoạt trong nhà trường.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
19
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
Chương 2
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÙ HỢP
2.1. Biện pháp tác động từ phía GV.
Việc đề xuất các biện pháp tác động dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực
tiễn về KKTL trong học tập của HS đầu lớp 1. Cụ thể:
- Xuất phát từ vị trí của GV lớp 1 trong nhà trường tiểu học và quan hệ với HS lớp
1: Vị trí của GV trong nhà trường tiểu học khác với vị trí của GV THCS và các cấp
học trên. Người GV lớp 1 có vị trí số một cả về chữ và về người (giáo dục trẻ). Cụ thể:
Về chữ, nhìn tổng thể thì GV lớp 1 dạy tất cả các môn học, không như ở cấp THCS trở
lên, HS phải học đa môn, đa thầy cô (mỗi thầy cô chỉ phụ trách đảm nhận một môn).
Về người (giáo dục trẻ), GV lớp 1 trực tiếp giáo dục trẻ toàn bộ cả về nội dung và thời
gian làm việc trong ngày của trẻ bên cạnh sự hỗ trợ của Ban Giám hiệu, Hội đồng sư
phạm nhà trường. Với vị trí số 1 như vậy, nên GV lớp 1 có rất nhiều ảnh hưởng tới trẻ,
đặt biệt trong việc tháo gỡ KKTL cho trẻ khi đi học đầu lớp 1.
=> Như vậy, nâng cao nhận thức, hiểu biết cho GV chủ nhiệm lớp 1 về KKTL của
trẻ khi đi học lớp 1 và ảnh hưởng KKTL đến kết quả học tập nhân cách của các em sẽ
góp phần giúp GV nâng cao chất lượng dạy và học.
- Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của HS lớp 1: Xuất phát từ đặc điểm tình cảm của
HS đầu lớp 1 cho thấy: Bộ mặt nhân cách của HS lớp 1 là bộ mặt tình cảm, tuổi HS
lớp 1 là tuổi sống bằng tình cảm, tình cảm chi phối toàn bộ đời sống tâm lý của các
em.
+ Về nhận thức: tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng đều chịu ảnh hưởng rất lớn
từ tình cảm. Trong quá trình học tập, nếu thích các em sẽ quan sát và quan sát tốt hơn,
tư duy, tưởng tượng, trí nhớ cũng tốt hơn.
+ Về nhân cách: ở HS lớp 1, nếu yêu quý ai thì trẻ sẽ tin, bắt chước và làm theo
lời người đó. Bản thân người GV lớp 1 có vị trí số một về dạy chữ và về người. Vì
vậy, nếu xây dựng và thiết lập được quan hệ giao tiếp tích cực giữa GV lớp 1 và HS
lớp 1, thì bằng quan hệ của mình với HS lớp 1 người GV lớp 1 có thể tháo gỡ KKTL
cho trẻ trong học tập và sinh hoạt ở trường những ngày đầu đi học lớp 1.
=> Tuổi của HS lớp 1 nói riêng cũng như HS tiểu học nói chung là tuổi sống
bằng tình cảm, trẻ rất dễ bị xúc động trước những tình cảm, cảm xúc từ bạn bè, GV và
những người xung quanh. Vì vậy, GV cần có những biện pháp tác động tâm lý kịp
thời, giúp cho trẻ vượt qua những KKTL ban đầu để trẻ nhanh chóng thích ứng với
hoạt động học tập trong nhà trường tiểu học. Ngoài ra, thiết lập giao tiếp tích cực giữa
GV và HS cũng là một phương pháp tích cực của GV.
Một số biện pháp tác động khắc phục KKTL của học sinh đầu lớp 1:
1. Tạo môi trường học tập thuận lợi cho trẻ
2. Chuẩn bị bài giảng hấp dẫn
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
20
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
3. Trang bị đầy đủ đồ dùng học tập
4 Tạo cho trẻ tính tự tin mạnh dạn
5. Động viên, khên ngợi trẻ kịp thời
6. Hiểu hoàn cảnh HS
7. Sáng tạo trong những giờ chơi của HS
8. Kết hợp giữa nghiêm khắc với tìn thương trong khi dạy trẻ
9. Tạo hứng thú học tập cho trẻ
10. Thưởng phạt công bằng
11. Tổ chức hoạt động học đi đôi với hành thông qua trò chơi, tham quan, kể
chuyện.
12. Giao việc phù hợp cho trẻ
13. Kết hợp chặt chẽ với cha mẹ trong giáo dục trẻ
14. Ứng xử thích hợp khi HS có khuyết điểm
15. Gương mẫu với HS
=> GV lớp 1 cần có quan điểm mới, cái nhìn đúng đắn trong mọi khía cạnh để
đưa ra những quyết định sáng suốt trong dạy học. Không nên áp đặt tư duy chủ quan
của mình vào dạy học. Ngoài ra, GV cần quan tâm đến đổi mới phương pháp dạy học
– dạy học hướng vào năng lực tự học của HS, đồng thời tôn trọng cách học riêng của
trẻ, tạo cơ hội cho trẻ thực hành, trao đổi với nhau, với GV về các vấn đề trong bài
học. GV dạy học lấy HS làm trung tâm, GV luôn coi trọng sự khác nhau giữa những
HS. HS học theo nhiều cách khác nhau, với các mức độ (học lực) khác nhau. Một số
HS học hỏi được nhiều hơn nếu các em được tự tay thực hành và học kém hiệu quả
hơn nếu chỉ được ngồi nghe giảng bài. Ngược lại, có những HS lại chỉ có thể học hiệu
quả hơn khi nghe thuyết trình và kém hiệu quả hơn khi thực hành. Như vậy, mỗi HS
đều có một cách học riêng, mà GV cần lưu ý để các em có được kết quả tốt nhất.
Thêm vào đó, GV cần chú trọng những trò chơi bổ ích trong các tiết học, chẳng hạn
như thông qua các trò chơi về toán học hoặc ngôn ngữ, HS có thể làm quen với các
khái niệm và củng cố vốn hiểu biết của mình một cách vui vẻ và thú vị. Vui chơi giúp
trẻ phát triển ngôn ngữ, kĩ năng xã hội, trí tuệ, tình cảm và thể chất. Vui chơi giúp trẻ
học những kĩ năng mới, nâng cao kiến thức và hiểu biết về thế giới xung quanh, giúp
trẻ được thực hành, tương tác, rút kinh nghiệm và giao tiếp thông qua các hoạt động.
Điều quan trọng là GV lớp 1 phải quan sát được lúc trẻ đang vui chơi để xem trẻ hoạt
động như thế nào và hiểu được sự phát triển của trẻ. Quan sát trẻ lúc vui chơi giúp GV
biết được khả năng, nhu cầu và sở thích của từng trẻ để từ đó tìm cách hỗ trợ và thúc
đẩy sự phát triển và hoạt động học tập của trẻ.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
21
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
2.2. Biện pháp tác động từ phía gia đình.
Học sinh đi học lớp 1, bậc tiểu học thực hiện việc “chuyển tiếp sinh” từ môi
trường mẫu giáo sang môi trường học đường của hệ thống giáo dục quốc dân. Theo
các nhà tâm lý, nguyên nhân dẫn tới những khó khăn tâm lý đó ở trẻ rất nhiều, nhưng
chủ yếu do sự thay đổi môi trường làm việc của trẻ. Ngoài ra các giáo viên luôn kiểm
tra đánh giá mọi công việc của trẻ; gia đình đòi hỏi quá cao về kết quả học tập của trẻ;
nội dung học tập nhiều, khó khăn cũng là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới
những khó khăn tâm lý khi trẻ bước vào lớp 1.
Trước 6 tuổi, trẻ mầm non có chương trình nuôi dạy rất phù hợp với lứa tuổi. Trẻ
chơi là chính và có được làm quen với chữ cái và chữ số. Sang lớp 1, đầu năm các
cháu có 1 tuần để làm quen với nề nếp học tập, trường lớp, bạn bè. Đây là hoạt động
quan trọng giúp trẻ chuyển từ chơi sang học.
Việc cho trẻ đi học chữ trước khi vào lớp 1 là phản khoa học. Thứ nhất trẻ được
học trước vào lớp sẽ không còn sự háo hức, mất tập trung vì thấy kiến thức cô dạy đã
học rồi dẫn tới tâm lí chủ quan. Càng về sau các cháu sẽ càng đuối dần.
Học trước cũng như kiểu “bắt chín ép”. Nếu không được dạy chu đáo dẫn tới tư
thế ngồi, cách viết sai. Sau muốn sửa cho trẻ rất khó. Trẻ rất dễ gặp phải những khuyết
tật về cơ, hệ thần kinh. Kể cả cô dạy tốt cũng không nên. Như thế là có tội với trẻ em.
=> Phụ huynh cần quan tâm trẻ một cách hợp lý và kịp thời, có cái nhìn, quan
điểm đúng đắn sẽ giúp trẻ giải quyết KKTL một cách kịp thời, đúng dắn.
* Giải pháp khắc phục
- Giúp trẻ quen dần với giờ giấc mới. Khi bắt đầu vào lớp 1, trẻ cần làm quen với
nhịp sống mới. Vài ngày trước khi khai giảng, hãy cho trẻ lên giường và thức dậy sớm
hơn.
- Chuẩn bị tâm lý. Vào những ngày kề lễ khai giảng hãy nói với trẻ về năm học
mới. Hãy giải thích cho trẻ hiểu tại sao lại cần phải đến trường và trẻ sẽ được lợi gì khi
đi học. Phụ huynh phải là người xây dựng cho bé những viễn cảnh mà bé cảm thấy
thích thú và hào hứng khi chuẩn bị nhập học.
- Động viên. Trẻ bạn thấy lo lắng và khóc sụt sùi khi bạn nói với cháu về chuyện
học hành. Đây là chuyện hết sức bình thường. Hãy nói với trẻ là bạn hiểu nỗi lo lắng
của trẻ, và khi còn nhỏ bạn cũng đã từng có cảm giác như vậy. Hãy bảo trẻ nếu gặp
khó khăn trẻ đã có bố mẹ luôn sát cánh để giải quyết.
- Chuẩn bị cho trẻ tác phong tự lập. Những đứa trẻ không có thói quen sống tự lập
thường bị stress khi không có bố mẹ ở bên. Để tránh điều đó, phụ huynh cần dạy trẻ
cách xoay xở một mình như tự mặc quần áo, tự đi vệ sinh.
- Kiểm tra sức khỏe cho trẻ trước năm học mới. Kiểm tra thị lực, thính giác, răng
miệng và tiêm chủng là những việc rất quan trọng với tương lai của trẻ, vì một đứa trẻ
có thể trở thành học trò kém chỉ vì có vấn đề về thị lực hoặc thính giác.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
22
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
- Giúp trẻ làm quen trước với môi trường mới. Hãy đưa con bạn đến trường vài lần
trước khi khai giảng và giới thiệu cho trẻ đâu là phòng học, nhà ăn để trẻ cảm thấy tự
tin hơn khi một mình đến trường.
- Sắm những vật dụng cần thiết. Trẻ thường thích tưởng tượng mình là nhân vật
trong các câu chuyện mang tính giáo dục. Phụ huynh nên mua cho con mình các cuốn
sách viết về các hoạt động ở nhà trường và nhất là lễ khai giảng. Chuẩn bị cặp sách và
những đồ dùng cá nhân Những đồ vật mới tạo cho trẻ hào hứng và một tâm trạng
yên tâm khi vào lớp.
- Tự đưa trẻ đến trường. Đừng để con đến trường một mình vào ngày khai giảng
hoặc nhờ một người quen nào đó đưa con bạn đến trường. Nếu có thể hãy đưa cháu
đến tận cửa lớp. Tối về hãy nghe con bạn kể lại những gì đã diễn ra vào những buổi
học đầu tiên, chia sẻ những lo lắng, suy nghĩ của trẻ. Trấn an chúng và tạo điều kiện để
trẻ bộc bạch hết những lo lắng ấy.
Hầu hết các bậc cha mẹ đều tỏ ra lo lắng khi bé chuẩn bị bước vào lớp 1. Các nhà
giáo dục khuyên rằng, nếu bạn biết củng cố một số kỹ năng đơn giản như dạy bé biết
tự mặc áo, đi giày bé sẽ không còn bỡ ngỡ khi tới trường nữa. Bên cạnh đó, phụ
huynh nên phối hợp với GV trong giáo dục trẻ, thường xuyên liên lạc với GV để nắm
được tình hình học tập của trẻ để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
23
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Nghiên cứu thực trạng KKTL trong học tập của HS đầu lớp 1 cho thấy:
- Đa số HS đi học đầu lớp 1 đều gặp KKTL ở mức độ bình thường, phân tích
KKTL của HS đầu lớp 1cho thấy việc thiếu hụt chú ý, thiếu hụt trí nhớ có chủ định,
thiếu hụt ý thức học tập, thiếu hụt các thao tác đọc, viết, làm toán, thiếu hụt sự tự chủ
và các kỹ năng giao tiếp ở bạn bè … thể hiện KKTL của HS khi đi học đầu lớp 1.
- Xem xét những nhân tố ảnh hưởng tới KKTL của HS đầu lớp 1 cho thấy, bên
cạnh quan hệ giữa GV và HS còn có những ảnh hưởng tiêu cực tới tâm lý của HS, thì
gia đình góp phần không nhỏ vào những khó khăn đó. Sự chuẩn bị chuẩn bị của gia
đình cho trẻ không đúng cách, những ứng xử tiêu cực của bố mẹ với trẻ khi đi học và
áp lực học tập do bố mẹ gây nên KKTL ở trẻ.
- Khi xem xét tương quan giữa các mặt KKTL với nhau và tương quan giữa những
nhân tố ảnh hưởng tới KKTL của HS lớp 1, một số nhân tố có tương quan thuận và
tương đối với chặt với các mặt KKTL trong học tập và sinh hoạt của HS. Trong các
KKTL nổi bật hơn cả là là tương quan giữa hành vi thực hiện nề nếp học tập, thái độ
đói với học tập và trong các cặp biến số giữa KKTL và những nhân tố khách quan thì
tương quan giữa quan hệ của trẻ với GV với những KKTL là chặt chẽ hơn cả.
- Sự kết hợp giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan có khả năng dựu báo
mức độ KKTL của HS đầu lớp 1 cao hơn hẳn so với dự báo của từng nhân tố riêng lẻ.
kết quả cho thấy việc chuẩn bị của trẻ chưa đúng cách , ứng xử chưa phù hợp của bố
mẹ, quan hệ chưa tích cực của GV và việc chưa có tâm thế sẵn sàng đi học của trẻ là
nguyên nhân dẫn đến việc HS có những KKTL.
- Kết quả thực nghiệm tác động cho thấy giao tiếp tích cực của GV và ứng xử tích
cực của PH với HS sẽ giúp HS khắc phục những KKTL khi đi học đầu lớp 1.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
24
Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô Quyền
(TP Kon Tum) từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
1.1 Nghiên cứu lý luận cho thấy, KKTL là sự thiếu hụt phẩm chất tâm lý cần thiết cho
hoạt động của cá nhân gây cản trở cho hoạt động của cá nhân và làm cho hoạt động
kém hiệu quả.
KKTL của HS đầu lớp 1 là sựu thiếu hụt phẩm chất tâm lý cần thiết cho hoạt động học
tập và sinh hoạt trong nhà trường của HS những ngày đầu đi học tiểu học, gây cản trở
cho hoạt động học tập và sinh hoạt của học sinh và khiến cho các hoạt động này kém
hiệu quả.
1.2 Đa số HS lớp 1 đều gặp các KKTL trong học tập và trong sinh hoạt học đường.
KKTL được biểu hiện trên các mặt khác nhau trong học tập và trong sinh hoạt học
đường. KKTL biểu hiện các mặt khác nhau trong hoạt độn của học sinh đầu lớp 1:
hành vi thực hiện nội quy học tập; hành vi thực hiện nề nếp sinh hoạt và học tập; hành
động đọc, viết, làm toán; sự tự chủ khi chuyển từ trạng thái học sang chơi và ngược
lại; thái độ đối với học tập; và thiết lập các mối quan hệ trong giao tiếp với bạn. trong
đó học sinh gặp khó khăn nhiều nhất khi thiết lập mối quan hệ với bạn và ít gawpk khó
khăn nhất khi thực hiện nội quy học tập. So sánh giữa HS nam và HS nữ thì HS nam
có KKTL hơn HS nữ khi đi học đầu lớp 1.
1.3 Trí tuệ của HS, tâm thế sẵn sàng đi học, quan hệ của GV với HS, sự chuẩn ị của
gia đình cho trẻ vào lớp 1, ứng xử của bố mẹ với trẻ là các nhân tố tác động đến KKTL
của trẻ, trong đó có nhân tố sự chuẩn bị của gia đình cho trẻ vào lớp 1 và quan hệ của
GV với HS có tác động mạnh mẽ nhất tới KKTL của HS đầu lớp 1.
1.4 Khi trẻ được chuẩn bị những điều kiện thuận lợi để vào lớp 1, có tâm thế sẵn sàng
đi học, cách ứng xử của bố mẹ với trẻ mang tính tích cực,khuyến khích trẻ tham gia
vào các hoạt động học tập và GV có quan hệ tốt với trẻ, khuyến khích, khen thưởng
khi trẻ có thành tích, động viên khích kệ trẻ khi trẻ mắc lỗi thì những trẻ này sẽ có ít
KKTL ở giai đoạn đầu lớp 1.
2. KIẾN NGHỊ
2.1 Về phía giáo viên
GV cần thông cảm sâu sắc với tất cả HS trong thời gian đi học đầu lớp 1, bởi lẽ
chuyển từ cuộc sống gia đình hay sinh hoạt ở lớp mẫu giáo sang học tiểu học, HS
không tránh khỏi vấp váp và không thể thích nghi ngay được. Mỗi học sinh có những
đặc điểm tâm sinh lý riêng, mỗi em thích nghi với việc học tập và sinh hoạt trong
trường theo một nhịp độ, phong cách riêng. Do vậy không thể yêu cầu tất cả các HS
cùng tiến như nhau, mà tiếp cận HS theo từng cá nhân để có biện pháp giáo dục phù
hợp từng đối tượng. Trong ứng xử với HS, GV cần chú ý ứng xử phù hợp với đặc
điểm tâm lý lứa tuổi của HS
Trong quan hệ với HS, trừ những lúc cần nghi thức đàng hoàng, GV nên tân dụng tối
đa thời gian gần gũi HS. Hỏi han các em để tăng cường ứng xử tích cực và thắt chặt
mối quan hệ giữa GV và HS.
GV cũng rất cần phải quan sát HS giao tiếp với nhau. Bởi lẽ chỉ lo tới kết quả học
tập mà không quan tâm tới giao tiếp của HS thì khó có thể xây dựng một tập thể lớp
đoàn kết và cùng nhau tiến bộ.
* GVHD: Th.s Võ Đại Nam Anh * SVTH: Ngô Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thị Ngọc Ánh B
25