Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Pháp luật đại cương - chuong 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.91 KB, 15 trang )

Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


1
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
Muốn hiểu rõ pháp luật trước hết phải nghiên cứu về nhà nước vì nhà nước
là cơ sở hình thành và tổ chức thực hiện pháp luật. Nội dung của chương này sẽ
trình bày những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về nhà nước nói chung và nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nói riêng.
I. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước
1. Học thuyết Mác – Lênin về nguồn gốc của nhà nước
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi giải thích về nguồn gốc nhà nước.
Theo quan điểm của thuyết thần học thì thượng đế sinh ra loài người và sinh ra
nhà nước. Nhà nước có vai trò giữ gìn trật tự chung của XH; theo quan điểm của
thuyết gia trưởng thì nhà nước ra đời là kết quả của sự phát triển của mô hình
gia đình, nhà nước đảm bảo trật tự chung của xã hội cũng giống như người gia
trưởng trong gia đình; theo quan điểm của thuyết khế ước xã hội thì nhà nước là
sản phẩm của một “khế ước” (hợp đồng); theo quan điểm của thuyết bạo lực thì
nhà nước xuất hiện là sản phẩm của việc sử dụng bạo lực giữa thị tộc này với thị
tộc khác; theo quan điểm của thuyết tâm lí thì nhà nước xuất hiện là do tâm lí
của con người trong xã hội cổ đại là luôn cần có một thủ lĩnh, cần có người phụ
trách…Nhìn chung những quan điểm trên đều chưa dựa trên những cơ sở khoa
học để giải thích nguồn gốc nhà nước.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác - Lê Nin giải thích nguồn gốc nhà nước
trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và khẳng định
rằng: nhà nước không phải là một hiện tượng vĩnh cửu, bất biến, mà là một
phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước chỉ
xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định và
luôn luôn vận động. Nhà nước sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho
sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa. Quan điểm này được trình


bày trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” của Ph. Ăng-ghen và được bổ sung, phát triển trong tác phẩm “Nhà nước
và cách mạng” của Lê-Nin.
Lịch sử xã hội loài người trải qua thời kỳ chưa có nhà nước – chế độ công
xã nguyên thủy, song những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước lại
nảy sinh chính trong xã hội đó. Nhà nước xuất hiện là do chính những tiền đề
kinh tế - xã hội ở giai đoạn cuối của chế độ công xã nguyên thủy. Vậy, muốn
nghiên cứu nguồn gốc, sự ra đời của nhà nước thì phải nghiên cứu từ những tiền
đề kinh tế - xã hội ở giai đoạn cuối của chế độ công xã nguyên thủy.
Trong chế độ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất ở trình độ thấp,
công cụ lao động thô sơ, con người cùng chung sống, cùng lao động và cùng
hưởng thành quả lao động chung. Cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu chung về tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động nên trong xã hội có sự bình đẳng trong lao
động và hưởng thụ, không có giàu – nghèo, không phân chia thành giai cấp và
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


2
đấu tranh giai cấp; thị tộc là hình thức tổ chức quản lý trong xã hội. Thị tộc có
cơ cấu bao gồm Hội đồng thị tộc và người đứng đầu thị tộc. Hội đồng thị tộc là
tổ chức quyền lực cao nhất, có quyền bàn bạc, quyết định mọi công việc của thị
tộc, hội đồng thị tộc bao gồm tất cả các thành viên đã trưởng thành của thị tộc.
Người đứng đầu thị tộc là tù trưởng hoặc thủ lĩnh quân sự do Hội đồng thị tộc
suy tôn để thực hiện quyền lực và quản lý công việc chung của thị tộc. Do đó, trong
xã hội thị tộc đã tồn tại quyền lực nhưng về bản chất đó là quyền lực xã hội.
Sau này xã hội công xã nguyên thủy còn phát triển đến các hình thức cao
hơn như bào tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc nhưng vẫn dựa trên cơ sở những
nguyên tắc tương tự của tổ chức quyền lực trong thị tộc: quyền lực vẫn mang
tính xã hội, chưa mang tính giai cấp.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và tăng năng suất lao động xã hội đã

làm thay đổi tổ chức xã hội thị tộc. Sau ba lần phân công lao động xã hội, chế độ
tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành kẻ giàu, người nghèo và kẻ giàu đã trở
thành kẻ áp bức bóc lột, những người nghèo trở thành người bị bóc lột. Do đó,
trong xã hội đã hình thành 2 giai cấp cơ bản là giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc
lột, mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt và không thể điều hòa được. Vậy xã hội
thị tộc đã không còn tiền đề, điều kiện để tồn tại. Quyền lực xã hội trước đây
phục vụ xã hội thì nay tách khỏi xã hội và chỉ phục vụ tầng lớp giàu có. Việc
điều hành và quản lý xã hội đòi hỏi phải có một tổ chức mới mà có khả năng dập tắt
được xung đột giai cấp xuất hiện. Tổ chức mới đó là nhà nước và nhà nước ra đời.
Như vậy, nhà nước xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của một xã
hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, những tiền đề kinh tế - xã hội dẫn
đến sự ra đời của nhà nước là sự xuất hiện của chế độ tư hữu, sự phân chia xã
hội thành các giai cấp, tầng lớp mà lợi ích cơ bản là đối kháng dẫn đến mâu
thuẫn đối kháng giữa các giai cấp.
2. Bản chất của nhà nước
a. Tính giai cấp của nhà nước
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng nhà nước ra đời và tồn tại trong xã hội có
giai cấp nên nhà nước luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc. Khi xem xét bản
chất giai cấp của nhà nước, chúng ta cần xem xét nhà nước do giai cấp nào lãnh
đạo, quyền lực của nhà nước đó thuộc về giai cấp nào và phục vụ lợi ích của giai
cấp nào trong xã hội.
Bản thân nhà nước là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với
giai cấp khác nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp cầm quyền. Sự thống trị này
thể hiện trên 3 loại quyền lực mà giai cấp cầm quyền nắm giữ, đó là:
+ Quyền lực về kinh tế: giai cấp thống trị nắm trong tay quyền sở hữu về tư
liệu sản xuất của xã hội nên của cải của xã hội làm ra họ có quyền phân phối,
định đoạt, bắt các giai cấp khác lệ thuộc giai cấp mình về kinh tế.
+ Quyền lực về chính trị: quyền lực chính trị không tự nhiên mà có mà do
đấu tranh giai cấp và được tạo ra từ quyền lực kinh tế. Nhờ có nhà nước, giai
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh



3
+ Quyền lực về tư tưởng: quyền lực về tư tưởng được tạo ra từ quyền lực về
kinh tế và quyền lực chính trị. Bất kỳ một nhà nước nào cũng tạo cho mình một
hệ thống tư tưởng phục vụ cho giai cấp cầm quyền. Giai cấp thống trị thông qua
nhà nước để xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị
trong xã hội.
Trong các xã hội có chế độ người bóc lột người, nhà nước có bản chất
chung là bộ máy trấn áp đặc biệt nhằm duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị,
tư tưởng của thiểu số giai cấp bóc lột đối với đa số nhân dân lao động, thực hiện
nền chuyên chính của giai cấp bóc lột. Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới,
là công cụ thực hiện nền chuyên chính và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, là một bộ máy thống trị của đa số đối với thiểu số là giai
cấp bóc lột và phản cách mạng. Nhà nước XHCN là bộ máy hành chính, cơ quan
cưỡng chế đồng thời là một tổ chức kinh tế - xã hội, là công cụ để xây dựng một
xã hội bình đẳng, tự do và nhân đạo.
b. Vai trò xã hội của nhà nước
Nhà nước ra đời và tồn tại trong xã hội với cơ cấu bao gồm giai cấp thống
trị và các giai cấp, tầng lớp dân cư khác. Bản thân giai cấp thống trị cũng chỉ tồn
tại trong mối quan hệ với các giai cấp, các tầng lớp dân cư khác. Do vậy, nhà
nước ngoài tính cách là công cụ duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị, nhà nước còn là một tổ chức quyền lực công (hay là tổ chức công
quyền), là phương thức bảo đảm lợi ích chung của toàn xã hội. Nhà nước không
chỉ phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị mà trong chừng mực nhất định còn
phải giải quyết những vấn đề nảy sinh từ trong đời sống xã hội, thực hiện chức
năng quản lý toàn xã hội, đảm bảo trật tự chung, sự ổn định để xã hội phát triển.
Vai trò xã hội là một thuộc tính khách quan, phổ biến của nhà nước nhưng
biểu hiện cụ thể và mức độ thực hiện vai trò này không giống nhau ở những kiểu
nhà nước khác nhau, thậm chỉ trong một kiểu nhà nước ở các giai đoạn phát

triển khác nhau của nó, vai trò xã hội của nhà nước cũng có những nội dung cụ
thể không giống nhau. Một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
khi vai trò xã hội của nhà nước được nâng cao, bản chất nhà nước không còn
đúng nghĩa thống trị, cưỡng chế mà chỉ còn vai trò chủ yếu là phục vụ. Khi đó, bản
chất của nhà nước chỉ còn “nửa nhà nước”, nhà nước không còn nguyên nghĩa.
Từ sự phân tích nguồn gốc, bản chất của nhà nước có thể định nghĩa về nhà
nước như sau: nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có một
bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc
biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp
thống trị trong xã hội.
Trong xã hội có giai cấp ngoài nhà nước, giai cấp thống trị còn thiết lập
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


4
nhiều tổ chức chính trị - xã hội khác như: các đảng chính trị, các tổ chức xã hội,
các tổ chức quần chúng. Các tổ chức này tạo thành một hệ thống chính trị của
một nước. Trong hệ thống đó nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị, giữ vị trí trung tâm, chi phối đến sự phát triển của xã hội. Bởi vì chỉ có
nhà nước mới có những cơ quan đặc biệt với các phương tiện vật chất đi kèm
như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù…và chỉ có nhà nước mới có những đặc
trưng riêng sau đây:
- Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng: Để giữ vai trò quyền lực thống
trị, nhà nước có một bộ máy đặc biệt được thiết lập nhằm xây dựng những thiết
chế phục vụ cho giai cấp thống trị. Quyền lực này đảm bảo cho ý chí của giai
cấp thống trị thành ý chí của toàn xã hội (ý chí của nhà nước).
- Nhà nước phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ: Mọi nhà
nước đều có lãnh thổ riêng để cai trị và quản lý. Đơn vị hành chính, lãnh thổ
được phân chia không phụ thuộc vào huyết thống, dân tộc. Quan hệ giữa người
dân với nhà nước thông qua mối quan hệ quốc tịch.

- Nhà nước có chủ quyền quốc gia: chủ quyền quốc gia thể hiện quyền tự
quyết của nhà nước về mọi chính sách đối nội, đối ngoại không phụ thuộc vào
bất kỳ ai hay thế lực nào.
- Nhà nước ban hành các luật thuế và tiến hành thu các loại thuế.
- Nhà nước ban hành pháp luật.
II. Chức năng của nhà nước:
1. Khái niệm và phân loại chức năng
Bản chất giai cấp, vai trò xã hội của nhà nước được thể hiện trực tiếp và
đầy đủ nhất trong các chức năng của nhà nước. Do đó, tìm hiểu khái niệm chức
năng nhà nước giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất giai cấp, vai trò xã hội, nhiệm
vụ và mục tiêu cơ bản của mỗi kiểu nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định.
Chức năng của nhà nước là những phương diện, những mặt hoạt động chủ
yếu của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của nhà nước. Chức
năng của nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất giai cấp của nhà nước do
cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động, chức năng nhà nước được phân chia thành
chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng đối nội là những phương diện, những mặt hoạt động chủ yếu
của nhà nước trong nội bộ đất nước, thường giới hạn trong lãnh thổ quốc gia
như giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo an toàn xã hội, bảo vệ trật tự pháp luật,
quyền và lợi ích hợp pháp của giai cấp cầm quyền; tổ chức và quản lý nền kinh
tế, văn hóa, giáo dục, KHCN…
Chức năng đối ngoại là những phương diện, những mặt hoạt động chủ yếu
thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước, vùng lãnh thổ và
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


5
Hai nhóm chức năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau, thực hiện tốt

chức năng đối nội sẽ có thuận lợi cho thực hiện các chức năng đối ngoại và
ngược lại.
2. Hình thức và phương pháp thực hiện chức năng
Để thực hiện chức năng của mình, nhà nước sử dụng nhiều hình thức và
phương pháp hoạt động khác nhau.
Có ba hình thức thực hiện chức năng chủ yếu là: xây dựng và ban hành
pháp luật (hoạt động lập pháp của nhà nước); tổ chức thực hiện pháp luật (hoạt động
hành pháp của nhà nước); bảo vệ pháp luật (hoạt động tư pháp của nhà nước).
Trong mỗi hình thức thực hiện chức năng nói trên, cách thức thực hiện
cũng tùy thuộc vào từng quốc gia, tuy nhiên có hai phương pháp thực hiện chủ
yếu là phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế.
Các chức năng của nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động của bộ
máy nhà nước.
3. Chức năng cơ bản của các kiểu nhà nước trong lịch sử
Chức năng cơ bản của các kiểu nhà nước có chế độ người bóc lột người:
bảo vệ, duy trì chế độ tư hữu về TLSX; đàn áp nhân dân lao động về chính trị, tư
tưởng; tiến hành chiến tranh xâm lược…
Chức năng cơ bản của nhà nước XHCN: bảo vệ, duy trì chế độ công hữu về
TLSX, bảo đảm ANCT, TTATXH, chống lại những phần tử chống đối nhà
nước…
III. Kiểu nhà nước và hình thức nhà nước
1. Kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản của nhà nước,
thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện phát sinh, tồn tại và
phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế-xã hội nhất định.
Học thuyết Mác – Lê nin về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học để
phân chia các nhà nước trong lịch sử thành từng kiểu. Trong lịch sử nhân loại, từ
khi xuất hiện xã hội có giai cấp đã tồn tại 4 kiểu hình thái kinh tế - xã hội là
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Tương ứng
với 4 kiểu hình thái kinh tế - xã hội, trong lịch sử có 4 kiểu nhà nước là: nhà

nước Chủ nô (hay nhà nước chiếm hữu nô lệ); nhà nước phong kiến; nhà nước
tư sản; nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Sự thay thế kiểu nhà nước trong lịch sử là một quá trình tiến hóa gắn với sự
thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội tương ứng, nó mang tính tất yếu khách
quan, phụ thuộc vào sự thay đổi của cơ sở kinh tế và thông qua con đường cách
mạng xã hội. Kiểu nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu
nhà nước trước
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


6
2. Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước cùng với các
phương pháp để thực hiện quyền lực đó.
Hình thức nhà nước là một khái niệm chung được hình thành từ 3 yếu tố:
hình thức chính thể, hình thức cấu trúc và chế độ chính trị.
* Hình thức chính thể: là cách thức tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan
tối cao của nhà nước, trình tự thiết lập mối quan hệ cơ bản của cơ quan ấy cũng
như mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhân dân và mức độ tham gia
của nhân dân vào quá trình hình thành các cơ quan nhà nước.
Hình thức chính thể bao gồm: chính thể quân chủ, chính thể cộng hòa.
- Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước
tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước (vua, hoàng
đế) theo nguyên tắc thừa kế.
Chính thể quân chủ được chia thành chính thể quân chủ tuyệt đối và chính
thể quân chủ hạn chế. Chính thể quân chủ tuyệt đối (hay quân chủ chuyên chế)
là chính thể quân chủ mà người đứng đầu nhà nước – vua - là người có quyền
lực vô hạn, nắm giữ quyền lực tối cao; chính thể quân chủ hạn chế (hay quân
chủ nhị nguyên, quân chủ đại nghị) là chính thể quân chủ mà người đứng đầu
nhà nước - vua - chỉ nắm một phần quyền lực tối cao; quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp được chia sẻ cho cơ quan khác.
- Chính thể cộng hòa là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước
thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời hạn nhất định.
Chính thể cộng hòa có hai hình thức chủ yếu là cộng hòa quý tộc và cộng
hòa dân chủ. Trong các nước cộng hòa quý tộc quyền tham gia bầu cử để thành
lập các cơ quan đại diện của nhà nước chỉ dành riêng cho giới quý tộc và quyền
đó được quy định cụ thể trong luật. Trong các nước cộng hòa dân chủ, quyền
tham gia bầu cử để lập ra các cơ quan đại diện (cơ quan quyền lực) của nhà
nước được pháp luật quy định đối với công dân nhưng điều này có được thực
hiện hay không còn phụ thuộc vào chế độ cộng hòa dân chủ tư sản hay cộng hòa
dân chủ XHCN.
Khi nghiên cứu hình thức chính thể của một nhà nước nhất định cần gắn
với những điều kiện lịch sử cụ thể.
* Hình thức cấu trúc nhà nước: là sự tổ chức nhà nước theo các đơn vị
hành chính, lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở Trung
ương với cơ quan nhà nước ở địa phương.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là nhà nước đơn nhất và nhà
nước liên bang. Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có duy
nhất một cơ quan quyền lực và quản lý thống nhất từ trung ương đến địa
phương. Nhà nước liên bang là nhà nước có hai hay nhiều nước thành viên hợp
lại với nhau, có hai hệ thống cơ quan quyền lực và cơ quan quản lý: hệ thống cơ
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


7
quan chung cho toàn liên bang và riêng đối với các tiểu bang.
* Chế độ chính trị: là tổng thể những phương pháp, cách thức, phương tiện
mà các cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.
Có phương pháp dân chủ, phương pháp phản dân chủ nên có 2 dạng chế độ
chính trị là chế độ chính trị dân chủ và chế độ chính trị phi dân chủ.

IV. Bộ máy nhà nước:
1. Khái niệm
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ TƯ đến địa phương,
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tăc chung thống nhất nhằm thực
hiện những nhiệm vụ và chức năng của nhà nước vì lợi ích của giai cấp thống
trị.
2. Sự phát triển của bộ máy nhà nước trong lịch sử
Mỗi kiểu nhà nước có cách thức tổ chức bộ máy nhà nước riêng, tùy thuộc
vào bản chất giai cấp, nhiệm vụ, chức năng và mục tiêu hoạt động của nhà nước,
cũng như các điều kiện, hoàn cảnh khác về lịch sử, văn hóa, lịch sử dân tộc, mức
độ đấu tranh giai cấp, tương quân các lực lượng chính trị… Trong lịch sử đã tồn
tại bốn kiểu nhà nước, do đó cũng tồn tại bốn kiểu bộ máy nhà nước: Bộ máy
nhà nước Chủ nô, bộ máy nhà nước Phong kiến, bô mấy nhà nước Tư sản và bộ
máy nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Dưới dạng khái quát, có thể nêu quá trình phát
triển của bộ máy nhà nước trong lịch sử như sau:
a. Bộ máy nhà nước Chủ nô:
Ban đầu bộ máy nhà nước Chủ nô được cấu tạo đơn giản theo mô hình
quân sự hành chính (lực lượng chủ yếu là quân đội và cảnh sát). Đứng đầu là
Vua, dưới Vua là các cơ quan cưỡng chế như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù
và một vài cơ quan khác. Sự phân chia chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan
nhà nước khi đó chưa cụ thể, rõ rang. Người lãnh đạo trực tiếp các cơ quan quân
đội, cảnh sát cũng là người trực tiếp quản lý hành chính hoặc làm công tác xét
xử.
Về sau, do sự phát triển của bộ máy chiếm hữu nô lệ và tính chất ác liệt của
cuộc đấu tranh giai cấp, nên bộ máy nhà nước ngày càng được hoàn thiện và trở
nên khá phức tạp. Nhiều cơ quan mới được thành lập nhưng nòng cốt vẫn là
quân đội, cảnh sát và các cơ quan cưỡng chế khác. Trong bộ máy nhà nước đã
có sự phân định chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và sự phối kết hợp giữa
các cơ quan cũng được tăng cường.
b. Bộ máy nhà nước Phong kiến

So với bộ máy nhà nước Chủ nô thì bộ máy nhà nước Phong kiến phát triển
hơn cả về số lượng so với chất lượng. Nhà nước Phong kiến phát triển qua hai
giai đoạn chủ yếu là nhà nước quân chủ phân quyền cát cứ và nhà nước quân
chủ trung ương tập quyền. Bộ máy nhà nước của cả hai giai đoạn được tổ chức
theo mô hình giống nhau; Đứng đầu bộ máy nhà nước là Vua, dưới Vua là triều
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


8
đình gồm các quan đại thần thân tín nắm giữ các trọng trách chính trong bộ máy
nhà nước. Tiếp đến là hệ thống các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa
phương, quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù và các cơ quan khác. Tuy nhiên, trong
thời kỳ phân quyền cát cứ quyền lực của bộ máy nhà nước ở trung ương yếu vì
vua đã phân chia quốc gia thành các lãnh địa, trên đó hình thành các quốc gia
nhỏ dưới sự quản lý của các lãnh chúa, dưới lãnh chúa là bộ máy quan lại đầy
quyền lực và các cơ quan cưỡng chế rất mạnh. Đến thời kỳ nhà nước trung ương
tập quyền, quyền lực nhà nước ở trung ương được tăng cường, bên cạnh nhà
Vua là cả bộ máy quan lại khổng lồ từ rtrung ương đến địa phương mang nặng
tính chất quan liêu, độc tài chuyên chế, được phân hàng theo chế độ đẳng cấp,
đặc quyền, đặc lợi.
c. Bộ máy nhà nước Tư sản
Bộ máy nhà nước Tư sản phát triển hơn nhiều so với bộ máy nhà nước
Phong kiến và Chủ nô, nó đã đạt tới mức hoàn thiện khá cao. Trong đó, các cơ
quan được phân định rõ ràng, cụ thể về chức năng, nhiệm vụ và đều được pháp
luật quy định.
Bộ máy nhà nước Tư sản được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền. Theo
nguyên tắc này, quyền lực nhà nước được phân chia thành ba quyền độc lập là
quyền Lập pháp (phụ thuộc thẩm quyền của Nghị viện), quyền Hành pháp (do
Chính phủ đảm nhiệm) và quyền Tư pháp (do Tòa án thực hiện). Các cơ quan
thực hiện 3 quyền này độc lập và chế ước lẫn nhau nhằm không để quyền lực tập

trung quá nhiều vào một cơ quan nào. Ngoài 3 cơ quan kể trên, trong bộ máy
nhà nước Tư sản còn có chức vụ Nguyên thủ quốc gia (Quốc vương hoặc Tổng
thống), các cơ quan hành chính và cưỡng chế khác từ trung ương đến địa
phương.
d. Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
Khác với bộ máy nhà nước Tư sản, bộ máy nhà nước XHCN được tổ chức
theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là: Quyền lực nhà nước tập trung
thống nhất trong tay nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân mà cao
nhất là Quôc hội. Tất cả các cơ quan khác của nhà nước đều bắt nguồn từ các cơ
quan quyền lực của nhà nước và chịu trách nhiệm trước các cơ quan đó.
Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN còn được đảm bảo
bằng các nguyên tắc chung: Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản đối với nhà nước; nguyên tắc đảm bảo sự tham gia đông đảo của nhân dân
lao động vào quản lý nhà nước; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc pháp
chế XHCN.
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


9
Tóm lại, sự phát triển của mỗi kiểu bộ máy nhà nước phụ thuộc vào mục
tiêu của nhà nước và điều kiện, hoàn cảnh lịch sử trong từng giai đoạn phát triển
của mỗi quốc gia. Nhìn cả quá trình phát triển của bốn kiểu nhà nước, chúng ta
thấy bộ máy nhà nước được tổ chức từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện, chức năng, nhiệm vụ ngày càng được phân định rõ ràng,
khoa học và giai cấp cầm quyền nào cũng chăm lo xây dựng bộ máy nhà nước

về mọi mặt vì lợi ích của mình.
V. Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam
1. Bản chất của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
Bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam được xác định “Nhà nước CHXH
CN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều
2 Hiếp pháp 1992).
Bản chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam được thể hiện ở tính giai cấp
công nhân và tính xã hội sâu sắc.
- Tính giai cấp công nhân được thể hiện: nhà nước do giai cấp công nhân
Việt Nam thiết lập và lãnh đạo. Hoạt động của nhà nước nhằm thực hiện nhiệm
vụ, mục tiêu của giai cấp công nhân Việt Nam; từ pháp luật, cơ chế, chính sách
đến những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước đều thể hiện ý chí, lợi
ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
Tính giai cấp công nhân gắn liền với tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc. Đó
là nhà nước được ra đời từ cuộc cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc, là nhà
nước của tất cả các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc và nghiêm cấm những hoạt động chia rẽ
dân tộc. Đồng thời đó là một nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân,
một nhà nước do nhân dân lập nên, được nhân dân bầu ra, giám sát và bãi miễn.
Mọi hoạt động đều vì lợi ích của nhân dân.
- Tính xã hội được biểu hiện ở các hoạt động như quản lý kinh tế, văn hóa,
giáo dục, khoa học-công nghệ, an ninh, trật tự an toàn xã hội, giải quyết các vấn
đề xã hội nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân về mọi mặt,
xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Chức năng của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
Bản chất của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được thể hiện ở chức
năng của nhà nước.

a. Chức năng đối nội
- Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế: là chức năng cơ bản, quan trọng
nhất. Bởi vì nhà nước Việt Nam không chỉ là bộ máy tổ chức của quyền lực
chính trị mà còn là chủ sở hữu của các tư liệu sản xuất chủ yếu. Hiến pháp 1992
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


10
đã quy định chức năng của nhà nước ta xây dựng được một nền kinh tế độc lập,
tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế
độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể là nền tảng (Điều 15, Hiến pháp 1992).
Để thực hiện chức năng này đòi hỏi nhà nước phải nhận thức đúng đắn các
vấn đề có tính quy luật của nền sản xuất xã hội và nền kinh tế thị trường, đánh
giá đúng thực trạng kinh tế xã hội của đất nước và quốc tế để xây dựng chiến
lược, có bước đi phù hợp và những quyết sách đúng đắn nhằm thực hiện được
mục tiêu là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất,
mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế
giới (Điều 16 – Hiến pháp 1992)
- Chức năng xã hội: tổ chức và quản lý văn hóa giáo dục, khoa học công
nghệ, việc làm, tiền lương, tiền công, xóa đói, giảm nghèo và thực hiện các
chính sách xã hội khác.
- Chức năng bảo đảm sự ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và
các quyền tự do dân chủ của nhân dân: nhà nước sử dụng sức mạnh bạo lực để
phòng ngừa, ngăn chặn mọi âm mưu xâm hại đến an ninh quốc gia, đảm bảo sự

ổn định an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội trong nước; xây dựng cơ chế
bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân…
b. Chức năng đối ngoại
- Chức năng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây là chức năng thường
xuyên của nhà nước ta và là sự nghiệp của toàn dân: “Bảo vệ Tổ quốc XHCN,
giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân” (Điều 44, Hiến pháp
1992). Nội dung của chức năng này là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN. Để thực hiện tốt chức
năng này đòi hỏi chúng ta phải giải quyết tốt chức năng đối nội, đặc biệt là chức
năng tổ chức và quản lý kinh tế và phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị.
- Chức năng mở rộng quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên thế
giới, với các tổ chức quốc tế và khu vực. Đây cũng là chức năng rất quan trọng
của nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hiện nay và nó cũng là xu hướng phát
triển chung của nhân loại. Hiện nay chúng ta đã thiết lập được với nhiều quốc
gia, tổ chức quốc tế lớn và có uy tín trên thế giới. Đây là động lực quan trọng để
nước ta “đi tắt, đón đầu” về các lĩnh vực phát triển của đất nước và thực hiện
tốt các chức năng đối nội.
Các chức năng đối ngoại chỉ được thực hiện tốt khi chúng ta thực hiện tốt
chức năng đối nội. Do vậy, chức năng đối ngoại là quan trọng nhưng chức năng
đối nội là quyết định.
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


11
3. Hình thức nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
a. Hình thức chính thể
Cũng như các nhà nước XHCN, nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ
chức theo hình thức chính thể Cộng hòa dân chủ XHCN với những đặc điểm sau:
- Tất cả các cơ quan nhà nước đại diện tập trung cho quyền lực nhân dân
đều do cử tri trực tiếp bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Hiến pháp

1992 – Điều 6).
- Việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín; đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc
Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc hội đồng nhân
dân bãi nhiệm khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân nữa
(Điều 7, Hiến pháp 1992).
- Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước luôn luôn tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc
chung thống nhất, trong đó có nguyên tắc nhân dân tổ chức nên bộ máy nhà
nước và tham gia quản lý nhà nước; bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc
trong quan hệ với nhà nước.
- Giữa nhà nước với công dân có mối quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ của hai bên. Nhà nước, cụ thể là cán bộ nhân viên nhà nước và công dân đều
phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau khi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của nhau.
b. Hình thức cấu trúc
Nhà nước Việt Nam là nhà nước đơn nhất với những đặc điểm sau:
- Có chủ quyền chung, toàn vẹn trên toàn lãnh thổ Việt Nam; các đơn vị
hành chính – lãnh thổ không phải là những nhà nước độc lập có chủ quyền
riêng, mà chỉ là những bộ phận cấu thành của nhà nước Việt Nam thống nhất.
- Có một hệ thống các cơ quan nhà nước thống nhất từ trung ương xuống
địa phương.
- Có một hệ thống pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước, trong đó
Hiến pháp là luật cơ bản và có hiệu lực pháp lý cao nhất, mọi văn bản pháp luật
khác phải phù hợp với Hiến pháp. Văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp
dụng quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp dưới phải phù hợp với văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; văn bản quy phạm pháp
luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở địa phương

phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở Trung
ương.
c. Chế độ chính trị
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


12
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sử dụng phương pháp dân chủ để
thực hiện quyền lực nhà nước: “nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy
quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân” (Điều 3 Hiến pháp 1992). Trong giai
đoạn hiện nay nhà nước đang sử dụng nhiều biện pháp quan trọng nhằm thu hút
đông đảo nhân dân tham gia ngày càng tích cực và có hiệu quả vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội; không ngừng mở rộng các quyền, tự do dân chủ và những
lợi ích hợp pháp của công dân phù hợp với sự phát triển của xã hội và những
biến đổi tích cực trên thế giới; thường xuyên hoàn thiện chế độ dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện.
4. Bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
a. Khái niệm và đặc điểm
* Khái niệm: Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung
ương đến địa phương, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc thống
nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
chung của nhà nước.
* Đặc điểm: Xuất phát từ khái niệm bộ máy nhà nước và bản chất của nhà
nước, bộ máy nhà nước Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau:
- Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên những nguyên
tắc chung thống nhất.
- Các cơ quan trong bộ máy nhà nước đều mang tính quyền lực nhà nước
(có thẩm quyền), đều nhân danh nhà nước để tiến hành các hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ của mình.
- Đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước là người có phẩm chất,

đạo đức và năng lực để thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao.
b. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được hiểu là những
tư tưởng chỉ đạo xuất phát từ bản chất của nhà nước, làm cơ sở cho việc tổ chức
mọi hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Các nguyên tắc đó được
quy định trong Hiến pháp. Bộ máy nhà nước ta được tổ chức và hoạt động trên
cơ sở các nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
nhà nước
Trong Hiến pháp 1992 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ
nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước
và xã hội” (Điều 4). Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở chỗ
Đảng định ra đường lối, chính sách, chủ trương quan trọng trong việc tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương
của Đảng và tổ chức quản lý, điều hành việc thực hiện. Đảng kiểm tra việc chấp
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


13
hành đường lối, chủ trương, chính sách, coi trọng việc bố trí cán bộ, chỉ đạo sự
phối hợp giữa các tổ chức, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Đảng
lãnh đạo nhà nước thông qua các tổ chức của Đảng và đảng viên. Đảng không
dùng mệnh lệnh hành chính. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng Đảng và mọi đảng
viên phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước.
- Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực
Quyền lực nhà nước gồm có quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền
lực nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của

nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đồng thời phải có sự phân
công và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước. Bởi vì, không một
cơ quan nhà nước nào có thể thực thi nổi cả ba quyền lực đó.
Để đảm bảo và quán triệt nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, nhà nước phải không ngừng hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà
nước, xác định rõ chức năng, quyền hạn, các mối quan hệ trong hệ thống đó
nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước thống nhất và phát huy đầy đủ cả ba quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của nhân dân lao động vào quản lý nhà nước
Hình thức tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước rất phong phú và đa
dạng, có thể trực tiếp hay gián tiếp như: tham gia làm việc trong các cơ quan nhà
nước, bầu những người đại diện của mình vào các cơ quan nhà nước, thảo luận,
góp ý kiến vào các dự thảo luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và
các nhân viên nhà nước. Nhân dân tham gia quản lý nhà nước thông qua các
đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức công đoàn,…
- Nguyên tắc tập trung dân chủ
Điều 6, Hiến pháp 1992 quy định: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ
quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ”.
Thực hiện nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
có nghĩa là kết hợp sự chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất của trung ương và
các cơ quan nhà nước cấp trên với hoạt động tự chủ, năng động, sáng tạo của địa
phương và cơ quan nhà nước cấp dưới. Nguyên tắc này còn được thể hiện trong
cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của mọi cấp trong bộ máy nhà nước cũng
như trong việc kết hợp hoạt động, quy định trách nhiệm của tập thể với trách
nhiệm của cá nhân.
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc này đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước phải tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, mọi nhân viên
nhà nước phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi thi hành quyền

hạn và nhiệm vụ của mình.
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


14
c. Hệ thống các cơ quan trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
hiện nay
Dựa vào các tiêu chí khác nhau có nhiều cách phân loại cơ quan nhà nước
khác nhau. Mỗi căn cứ đều có ý nghĩa khoa học làm cơ sở để xem xét và giải
quyết những vấn đề về bộ máy nhà nước.
* Phân loại:
- Căn cứ theo vị trí, tính chất, chức năng hoạt động, các cơ quan nhà nước
được chia thành:
+ Hệ thống cơ quan quyền lực: ở Trung ương có Quốc hội và các Uỷ ban
của Quốc hội; ở địa phương có hội đồng nhân dân các cấp (cấp tỉnh, huyện, xã).
+ Hệ thống cơ quan quản lý (hành chính) nhà nước: ở Trung ương có
Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ. Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, là cơ quan hành chính cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam; ở địa
phương có uỷ ban nhân dân các cấp (cấp tỉnh, huyện, xã).
+ Hệ thống cơ quan kiểm sát: ở Trung ương có viện kiểm sát nhân dân tối
cao; ở địa phương có viện kiểm sát nhân dân các cấp (cấp tỉnh, huyện).
+ Hệ thống cơ quan xét xử: ở Trung ương có tòa án nhân dân tối cao và các
tòa chuyên trách thuộc tòa án nhân dân tối cao; ở địa phương có tòa án nhân dân
các cấp (cấp tỉnh, huyện).
Ngoài ra còn có chế định Chủ tịch nước: Chủ tịch nước là người đứng đầu
nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại.
- Căn cứ theo chức năng hoạt động, các cơ quan nhà nước được chia thành
3 nhóm là cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
- Căn cứ theo trình tự thành lập thì có cơ quan nhà nước do dân trực tiếp
bầu ra (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) và cơ quan nhà nước không do

dân trực tiếp bầu ra.
* Hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay:
- Quốc hội: Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Quốc hội có nhiệm
vụ và quyền hạn là quyền lập hiến và lập pháp; quyền quyết định những công
việc quan trọng nhất của nhà nước; quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của nhà nước. Hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Quốc
hội là thông qua các kỳ họp Quốc hội (2 kỳ trong 1 năm). Nhiệm kỳ của mỗi
khóa Quốc hội là 5 năm. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội bao gồm: ủy ban thường
vụ Quốc hội, chủ tịch Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội,
đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội.
- Chủ tịch nước: Là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong
số đại biểu Quốc hội với nhiệm kỳ là 5 năm.
Bàì giảng Pháp luật đại cương - K53CĐ – GV Nguyễn Thị Hồng Vĩnh


15
- Chính phủ: Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao
nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Chính phủ do Quốc hội thành lập, có
nhiệm vụ tổ chức thực hiện Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội và Pháp
lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ quốc hội. Chính phủ có quyền nhân
danh nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đàm phán, ký kết các điều ước quốc
tế (trừ trường hợp Chủ tịch nước ký với người đứng đầu nhà nước khác) và quản
lý, điều hành toàn bộ mọi mặt đời sống xã hội của đất nước. Chính phủ gồm có
Thủ tướng chính phủ, các phó thủ tướng, các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác thuộc Chính phủ.
Hình thức hoạt động chủ yếu của Chính phủ là thông qua kỳ họp (mỗi tháng họp
một lần) và thông qua hoạt động của cá nhân Thủ tướng Chính phủ và các thành viên
khác trong Chính phủ. Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội.

- Hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã): là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân có
quyền quyết định những công việc quan trọng ở địa phương; thực hiện quyền
giám sát đối với hoạt động của cơ quan nhà nước cùng cấp ở địa phương. Hình
thức hoạt động chủ yếu là thông qua các kỳ họp (2 kỳ trong 1 năm). Nhiệm kỳ
của hội đồng nhân dân là 5 năm.
- Ủy ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã): là cơ quan chấp hành của hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và do hội đồng nhân dân
bầu ra. Nhiệm kỳ của ủy ban nhân dân theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân. Các
ban, ngành trực thuộc ủy ban nhân dân do ủy ban nhân dân thành lập ra có nhiệm vụ
quản lý một hoặc một số ngành, lĩnh vực trong phạm vi lãnh thổ địa phương. Ủy ban
nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên và các nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Tòa án nhân dân: Là cơ quan xét xử của nhà nước. Hệ thống tòa án nhân
dân bao gồm: tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, TX, TP thuộc tỉnh; các tòa án quân
sự; các tòa án khác do luật định. Ở mỗi cấp tòa án có chánh án, phó chánh án, thẩm
phán, hội thẩm nhân dân, thư ký tòa án. Chánh án tòa án nhân dân tối cao do Quốc
hội bầu trong số đại biểu Quốc hội; nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
- Viện kiểm sát nhân dân: Là cơ quan nhà nước thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hệ thống viện kiểm sát nhân dân gồm có:
viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh; các viện kiểm sát quân sự; các viện kiểm sát khác do luật định. Ở mỗi cấp
viện kiểm sát có viện trưởng, phó viện trưởng, kiểm sát viên. Viện trưởng viện
kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội; nhiệm kỳ
theo nhiệm kỳ của Quốc hội.


×