Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Giáo trình Quản lý tổng hợp vùng bờ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.26 MB, 154 trang )

Trường Đại học Thủy lợi - Delft University of Technology





NGUYỄN BÁ QUỲ



Qu¶n lý vïng VEN bê

Cố vấn khoa học: Assoc. Prof. Ir. K.J. Verhagen







Hµ Néi -2002
LỜI NÓI ĐẦU
Quản lý vùng ven bờ là một trong các môn học được lựa chọn trong dự án
“Nâng cao năng lực đào tạo về kỹ thuật bờ biển cho Trường Đại học Thủy lợi Hà
nội” do chính phủ Hà lan tài trợ
Môn học bao gồm những nội dung chủ yếu về bờ biển: Quản lý vùng bờ,
quản lý đường bờ, cồn cát, nghiên cứu cửa sông, bờ biển, các hệ sinh thái ven bờ,
các xung đột vùng bờ, quản lý tổng hợp vùng bờ
Đối tượng của quản lý vùng bờ là quan tâm xem xét vùng bờ biển như là một
hệ thống tương tác các hoạt động kinh tế, quá trình vật lý, các phản ứng hóa học và
hoạt động sinh vật. Ví dụ hoạt động kinh tế như: đánh cá, hàng hải, hoạt động giải


trí, quốc phòng, lắng động chất thải, khai thác khoảng sản, đặt đường ống, đường
cáp dưới đáy biển, khai hoang, xây dựng phát trển hải cảng, thăm dò khai thác dầu
khí, bảo tồn thiên nhiên
Phát triển kinh tế trong vùng bờ phụ thuộc vào năng suất có thể chấp nhận
được trong thời gian lâu dài và khả năng của tài nguyên vùng bờ.Quản lý với mục
tiêu sử dụng hiệu quả tài nguyên bờ biển cho những lợi ích phát triển kinh tế vùng.
Quản lý cần dựa trên nhận thức tổng hợp về một hệ thống bờ biển và mối tương tác
giữa hệ thống bờ biển với hệ thống ngoại vi liền kề: lưu vực sông, biển, đại dương.
Lập kế hoạch là một việc làm liên tục của các cơ quan quản lý và được xem
xét là một nhiệm vụ cốt yếu trong sự phát triển cân bằng bền vững giữa một mặt là
phát triển vùng, mặt khác là bảo vệ tài nguyên vùng bờ lâu dài.
Mục tiêu cần đạt được trong môn Quản lý vùng bờ là:
- Đưa ra một phương pháp tổng hợp có hệ thống để mô tả quá trình vật lý, sinh
vật và kinh tế xã hội trong vùng bờ và mối tương tác giữa chúng trong hệ
thống.
- Tăng cường kiến thức và sự hiểu biết về những quá trình này.
- Đưa ra cách làm để sử dụng và cung cấp các thông tin có chất lượng cho các
nhà ra quyết định về chính sách và các nhà quản lý vùng bờ.
Môn học này được chia ra làm 3 phần:
* Phần giới thiệu đưa ra một cách nhìn cơ bản, toàn cảnh về hệ thống vùng bờ. Bên
cạnh các phân tích chính sách cốt lõi được coi như là một công cụ trong việc giải
quyết vấn đề bờ biển. Những yếu tố chính trong bất kỳ các phân tích về quản lý tổng
hợp vùng bờ là:
+ Phân tích hệ thống tự nhiên bao gồm nước, bùn cát, chất hữu cơ hoặc hình
thái bờ biển.
+ Phân tích, đánh giá các hoạt động kinh tế và tác động của chúng với hệ
thống tự nhiên.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện việc phát triển kinh tế xã hội bền
vững theo hướng tiếp cận quản lý tổng hợp.
* Phần thứ hai bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:

- Hệ thống phi sinh vật
- Hệ thống hữu sinh
- Phân hệ kinh tế xã hội
- Sự phát triển của hệ thống quản lý
- Sự thay đổi toàn cầu tác động đến các hệ sinh thái ven biển
- Chính sách quốc tế về quản lý vùng bờ
* Phần thứ ba trình bày một mô phỏng mẫu về phương thức quản lý vùng bờ thông
qua trò chơi mô phỏng. Thông qua việc xây dựng các kịch bản giúp người học hiểu
biết nội dung cần làm trong việc quản lý, nhận thức sâu sắc hơn các giá trị của vùng
bờ và đề xuất các giải pháp nhằm khai thác, sử dụng và phát triển tài nguyên vùng
ven biển.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các cán bộ, nhân viên của CICAT, Khoa xây
dựng, Trường Đại học công nghệ Delft. Cảm ơn các nhà khoa học, đồng nghiệp
trong và ngoài trường Đại học Thủy lợi, đặc biệt là PGS. H.J.Verhagen, người đã tận
tình giúp đỡ tôi hoàn thành quyển giáo trình và PGS. TS. Vũ Minh Cát - người hiệu
đính, hoàn thiện trước khi in ấn. Đây là lần soạn thảo đầu tiên, không tránh khỏi
những thiếu sót, tác giả mong nhận được ý kiến đóng của các chuyên gia, các đồng
nghiệp và sinh viên để từng bước hoàn thiện, có thêm một tài liệu khoa học phục vụ
giảng dạy và tham khảo

Hà nội – 2002
PGS. TS. Nguyễn Bá Qùy



CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ QUẢN LÝ VÙNG BỜ
1.1 Lịch sử và khái niệm quản lý vùng ven bờ
Con người luôn ưa thích vùng ven bờ vì những nguồn tài nguyên hấp dẫn của
nó. Với những vùng đất đồng bằng màu mỡ và có nguồn tài nguyên biển phong phú,

cộng với khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế một cách dễ dàng, vùng ven bờ đã
và vẫn đang thu hút sự quan tâm của con người. Vùng ven bờ là trung tâm phát triển
kinh tế của một quốc gia, nơi tập trung rất nhiều hoạt động kinh tế, xã hội, đồng thời
cũng chịu nhiều ảnh hưởng bởi hoạt động này. Trong tương lai, tầm quan trọng của
vùng ven bờ sẽ ngày một cao hơn do số lượng người dân đến đó sinh sống ngày một
nhiều hơn.
Vùng ven bờ thực chất là một hệ thống tài nguyên đa dạng. Nó cung cấp các
tài nguyên sinh vật và phi sinh vật cho hoạt động của con người và có chức năng
điều hoà môi trường tự nhiên cũng như nhân tạo. Mặt khác, vùng ven bờ là một hệ
thống nhiều người sử dụng. Con người sử dụng các nguồn tài nguyên cho sự sống
như nước và thức ăn, cho các hoạt động kinh tế như sử dụng không gian, các tài
nguyên tái tạo và không tái tạo được và nghỉ ngơi, giải trí (các bãi cát và nước ven
bờ).
Quá trình công nghiệp hoá, phát triển thương mại và áp lực của sự gia tăng
dân số liên tục ở nhiều nơi đã làm tăng sự xói mòn, lũ lụt, mất dần các vùng đất
ngập nước, ô nhiễm, khai thác bừa bãi đất đai và các nguồn nước ở vùng ven bờ.
Nâng cao nhận thức về giới hạn của các nguồn tài nguyên, sự suy thoái môi
trường và hậu quả đối với con người đã thúc đẩy các nghiên cứu nhằm đưa ra giải
pháp lâu dài cho vấn đề quản lý các nguồn tài nguyên. Những nghiên cứu đó dựa
trên cơ sở khái niệm về khả năng chịu đựng của môi trường, là chỉ dẫn cho các hoạt
động kinh tế xã hội vì mục tiêu bảo tồn lâu dài các yếu tố và khu vực thiết yếu và
khu vực thiết yếu của hệ thống môi trường.
Năm 1972, lần đầu tiên trong báo cáo của Câu Lạc Bộ Thành Rôm đã đề cập
những vấn đề nói trên một cách hệ thống và chặt chẽ, kết quả đã cho ra đời một cuốn
sách nổi tiếng nhan đề “Những giới hạn phát triển “ (Meadows và những người khác
-1972). Phản ứng chính trị đối với thách thức này đã được Uỷ ban Quốc tế về Môi
trường và Phát triển trình bày năm 1987 trong báo cáo Bruntland về “Tương lai
chung của chúng ta”(WCED-1987). Báo cáo đưa ra khái niệm phát triển bền vững
như một giải pháp đảm bảo những điều kiện sống có thể chấp nhận được cho các thế
hệ hôm nay cũng như mai sau. Báo cáo Bruntland đã đưa ra các mục tiêu cho chiến

lược bảo tồn toàn cầu như sau:
- Duy trì các quá trình sinh thái thiết yếu và các hệ thống duy trì sự sống.
- Bảo tồn đa dạng gen.
- Sử dụng bền vững các loài và các hệ sinh thái.
Năm 1992, 20 năm sau báo cáo của câu lạc bộ Thành Rôm, một hội nghị đặc
biệt về môi trường và Phát triển(UNCED) của Liên hợp quốc đã được tổ chức ở Rio
de janero. Chương trình nghị sự 21 là một kế hoạch hành động được đưa ra cho các
quốc gia nhằm phát triển bền vững. Nội dung “Chương trình nghị sự 21” bao gồm
toàn bộ những chủ đề có liên quan đến môi trường và Phát triển. Sự tiếp cận theo
huớng tổng hợp như vậy được trình bày trong cuốn sách của Meadow - được gọi là
“Tiếp cận tầm giới hạn” (Meadow và các cộng sự -1992).


Hình 1.1: Phát triển của các thành phố trên bờ biển
Ngày nay người ta đã công nhận rằng sự phát triển vùng ven bờ cần dựa trên
cơ sở sự hiểu biết đúng đắn về các quá trình ở đó, sử dụng kĩ thuật và các kỹ năng
kinh tế xã hội nhằm đạt được một sự cân bằng có thể chấp nhận được giữa những lợi
ích trước mắt và lâu dài. Chính vì vậy, một sự phát triển được kiểm soát cần phải
tiến hành ngay tại vùng ven bờ. Các mâu thuẫn giữa các đối tượng sử dụng khác
nhau đang trở nên gay gắt hơn. Chúng ngày càng phát triển cả về quy mô cũng như
phạm vi khi dân số và việc sử dụng các nguồn tài nguyên trên trái đất tăng lên. Sự
cần thiết phải có một phương pháp chung để mô tả mối quan hệ qua lại phức tạp
giữa hệ thống tài nguyên và việc sử dụng nó. Bởi thế, cần phải lập kế hoạch và kiểm
soát quá trình này một cách bền vững và hệ thống. Quá trình này gọi là “Quản lý
vùng ven bờ” (CZM).
Quản lý vùng ven bờ nhằm mục đích giải quyết những vấn đề hiện tại và
trong tương lai ở vùng ven bờ, bằng cách tìm ra một sự cân bằng bền vững giữa lợi
ích kinh tế và sự an toàn của môi trường. Điều này có thể đạt được nhờ phân tích cụ
thể, chi tiết các quá trình tự nhiên và hoạt động phát triển kinh tế xã hội.
Cần phải đẩy mạnh việc phát triển khả năng quản lý tổng hợp vùng ven bờ

đối với các quốc gia vùng ven biển, bởi vì:
- Xu hướng tăng tỷ lệ đói nghèo ở các vùng ven biển hiện nay đang dẫn đến sự suy
thoái vùng ven bờ và chất lượng cuộc sống ở đó.
- Các áp lực do phát triển và dân sinh hiện nay đang làm gia tăng ô nhiễm biển có
nguồn từ đất liền và sự can thiệp của con người ở các lưu vực sông cũng như ảnh
hưởng của quá trình ven bờ. Những áp lực này bao gồm :
- Giảm nơi cư trú và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó có các bãi
biển, rừng ngập mặn, đất ngập nước, cỏ biển và san hô, cũng như các tài
nguyên thủy, hải sản và các nguồn tài nguyên biển và ven bờ khác;
- Tăng sự tổn thương đối với vùng ven bờ do bị ô nhiễm, mất bãi biển, sinh
cảnh, tăng hiểm hoạ tự nhiên và các tác động lâu dài của sự thay đổi khí hậu
toàn cầu.
Những thay đổi nói trên chắc chắn sẽ hạn chế khả năng phát triển trong tương lai:
- Nhiều nguồn tài nguyên và hệ sinh thái ven bờ đã xuống cấp và đang bị đe dọa
cần phải được tái tạo và phục hồi;
- Các nỗ lực để phát triển năng lực quản tổng hợp vùng ven bờ và thực hiện các
chương trình quốc gia có kéo dài 10 năm hoặc hơn nữa;
- Thực hiện các chiến lược nhằm thích ứng và giảm thiểu những ảnh hưởng của
thay đổi khí hậu toàn cầu có thể kéo dài một vài thập kỷ và hơn nữa, cho dù có
áp dụng ngay các biện pháp làm giảm bớt lượng phát thải khí nhà kính.
D©n sè vïng kh¸c
D©n sè vïn
g
ven biÓn

Hình 1.2: Dân số vùng ven biển
Bởi vậy, quản lý tổng hợp vùng ven bờ phải bắt đầu hoặc đẩy mạnh ngay từ
bây giờ. Nhìn chung, các mục tiêu cơ bản của quản lý vùng ven bờ bao gồm:
- Dự báo nhu cầu về sử dụng các nguồn tài nguyên trong tương lai.
- Lập kế hoạch khai thác các nguồn tài nguyên này.

- Kiểm soát việc sử dụng các nguồn tài nguyên này.
Quản lý vùng ven bờ là cả một quá trình. Nó bao gồm tất cả các hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội. Thành công của quản lý vùng ven bờ phụ thuộc rất nhiều
vào nhận thức của cộng đồng về các vấn đề liên quan đến sử dụng hợp lý các nguồn
tài nguyên và thiện chí chính trị để giải quyết chúng. Trong quá trình này, nhiều giai
đoạn khác nhau cần được tiến hành như sau:
Giai đoạn 1: xác định vấn đề - các dấu hiệu mang tính xã hội (chẳng hạn như khi
các nhóm bị ảnh hưởng lên tiếng) chỉ ra khả năng có một vấn đề. Trong một giai
đoạn nào đó, có thể có mâu thuẫn về quan điểm về các nhóm khác nhau trong xã
hội về phạm vi, nguyên nhân và ảnh hưởng của vấn đề đó. Sự nhất trí về tính cần
thiết có sự can thiệp của chính quyền (trong hoạch định chính sách) là mục tiêu cuối
cùng kết thúc giai đoạn này.
Giai đoạn 2: Lập chính sách - mặc dù đã có sự thống nhất về vấn đề cần giải quyết,
vẫn còn những quan điểm khác nhau về cách giải quyết vấn đề đặt ra. Phát triển
công nghệ được lưu ý để giải quyết vấn đề này. Giai đoạn 2 kết thúc khi chính
quyền đưa ra một chính sách đầy đủ cùng với các biện pháp tương ứng. Phân tích
chính sách là một phần trong giai đoạn này. Nhiệm vụ của tổ chức quản lý vùng ven
bờ được đề cập đến trong giai đoạn này.
Giai đoạn 3: Thực thi chính sách – cuối cùng, kế hoạch được phê duyệt sẽ đưa vào
thực hiện. Sự đầu tư được triển khai; các dự án được thiết kế, thực hiện và sự phản
ứng liên quan đến một số vấn đề của chính trị, xã hội cũng lắng xuống.
Giai đoạn 4: Quản lý và kiểm soát – kiểm soát là vấn đề trọng tâm của giai đoạn
này. Những công việc thường xuyên như giám sát có thể dẫn đến yêu cầu đổi mới
công nghệ và tăng đầu tư. Điều chỉnh pháp lý trở nên quan trọng. Cần thận trọng
bởi vì những phát triển mới cũng như kiến thức và sự hiểu biết về tình hình liên
quan có thể đòi hỏi các biện pháp bổ sung. Đây là quá trình có tính tuần hoàn rất
đặc trưng.
Rõ ràng, việc quản lý vùng vùng ven bờ rất khó khăn và phức tạp, nó đòi hỏi
phải có kiến thức rất rộng. Sự gia tăng các hoạt động ở vùng ven bờ làm nảy sinh
các vấn đề ngày càng nhiều hơn. Những vấn đề này có thể rất đa dạng về phạm vi

không gian và thời gian như:
- Xói lở bờ biển do xây dựng cảng, kè trên sông và khai thác cát.
- Suy thoái hệ sinh thái do phát triển đô thị, nuôi trồng thuỷ sản và ô nhiễm nước.
- Giảm sút hoạt động du lịch do các bãi biển bị ô nhiễm bởi rong, rêu phát triển
khi có nhiều chất dinh dưỡng từ đất liền đưa ra biển.
- Ô nhiễm do sự cố tràn dầu.
Ở nhiều nước, những vấn đề như đã đề cập ở trên được giải quyết mà không
thể dự tính trước. Trong khi đó, các vấn đề không thể tách biệt nhau và là một phần
của sự phát triển tổng thể kinh tế - xã hội. Cách giải quyết một vấn đề cụ thể được
lồng ghép trong bài toán tổng thể.
Các thách thức đối với công tác quản lý vùng ven bờ rất đa dạng, chẳng hạn
như sự thay đổi các điều kiện ngoại cảnh (mực nước biển dâng lên, xói lở trên diện
rộng, sụt lún đất), sự thay đổi mô hình kinh tế xã hội (gia tăng sự chuyển dịch các
hoạt động kinh tế xã hội về các vùng ven bờ) và các hoạt động từ nguồn nước thải,
khai thác cát đá v.v.
Để nghiên cứu mức độ dễ bị tổn thương của vùng ven bờ do những thay đổi
nói trên, không chỉ có các tác động riêng lẻ mà cả sự tương tác giữa chúng cũng cần
phải xem xét. Nói chung, tính dễ bị tổn thương của vùng ven bờ có thể được xem xét
trong bối cảnh của sự phát triển bền vững, một khái niệm dùng để chỉ khả năng của
một quốc gia trong việc giải quyết một cách lâu bền tất cả những áp lực, vấn đề và
thiệt hại về môi trường ở vùng ven bờ của mình.
Giá trị sinh thái và kinh tế phải được xem xét cân đối để đưa ra các chiến
lược cho sự phát triển bền vững như vậy. Đây là một vấn đề phức tạp bởi vì suy
thoái môi trường là một quá trình diễn ra chậm nhưng khó có thể đảo ngược được.
Các hành động ngăn ngừa phải được tiến hành trước khi những dấu hiệu của sự suy
thoái trở nên rõ ràng.
Quy hoạch các nguồn tài nguyên vùng ven bờ chứa đựng các khía cạnh về kỹ
thuật, xã hội, kinh tế và môi trường. Nó đòi hỏi sự đóng góp của rất nhiều ngành,
lĩnh vực. Một số ví dụ về lĩnh vực chuyên môn trong nhóm nghiên cứu lập kế hoạch
được đưa ra dưới đây:

Kỹ thuật: Kỹ thuật biển, địa hình ven bờ, hình thái bờ biển, thuỷ động lực học, khí
tượng biển, địa chất;
Kinh tế- xã hội : Kinh tế vĩ mô, kinh tế kỹ thuật, nhân khẩu học, quy hoạch vùng, xã
hội học và các chuyên môn khác của đối tượng sử dụng như nghề cá, khai khoáng,
giao thông và du lịch.
Môi trường: sinh học, sinh thái học, hoá học.
Bên cạnh sự đóng góp của các ngành chuyên môn, phải cần đến năng lực của
các nhà phân tích hệ thống và chính sách, những người có thể tổng hợp các đóng
góp của các chuyên gia theo hệ thống phân tích chặt chẽ và có thể đưa ra các chiến
lược trình các nhà ra quyết định.
1.2 Quan điểm hệ thống về vùng ven bờ
1.2.1 Khái quát về hệ thống đa dạng vùng ven bờ
Vùng ven bờ là một vùng điển hình, nơi các vấn đề tương tác với nhau có thể
được xem xét bằng phương pháp phân tích hệ thống. Như minh hoạ một cách trìu
tượng ở hình 1.3, vùng ven bờ trước hết được kiểm soát bởi hai nguồn hoạt động:
Các điều kiện tự nhiên (tồn tại ngoài sự kiểm soát của con người) và cơ sở hạ tầng tổ
chức hay các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, hình thái có tổ chức và được phê
chuẩn, mà trong đó có sự hoạt động tích cực của con người. Tiếp theo cũng trên hình
1.3, ba hệ thống cơ bản trong vùng ven bờ được phân biệt:

Hình 1.3: Nguyên tắc hệ thống của các yếu tố chính trong vùng ven bờ
- Hệ tự nhiên: bao gồm tất cả những gì không do con người tạo ra (khí quyển,
thạch quyển, thuỷ quyển) kể cả sự tương tác giữa chúng thông qua các quá trình
sinh học, phi sinh học và hoá học. Đây là hệ các nguồn tài nguyên tồn tại khá bền
vững, nếu không có sự tác động của con người.
- Các chức năng sử dụng thể hiện toàn bộ các lợi ích của con người trong việc “sử
dụng” theo một nghĩa rộng nhất các nguồn tài nguyên đó.
- Cơ sở hạ tầng: bao gồm cơ sở hạ tầng về tổ chức và kỹ thuật. Những cơ sở hạ
tầng này cần phải có sẵn và như vậy có thể vật chất hoá những chức năng sử
dụng dự định. Trong nhiều trường hợp, các cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng vô ý

cũng như hữu ý đến hệ tự nhiên, và đôi khi ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến các chức năng sử dụng khác, gây ra áp lực và mâu thuẫn.
Ba hệ thống: hệ tự nhiên, các chức năng sử dụng và cơ sở hạ tầng tương tác
với nhau về: Nguyên tắc rất nhạy cảm đối với các phân tích khoa học và định lượng.
Tất cả các hoạt động của con người, theo như định nghĩa, diễn ra trong mối tương
tác với hệ tự nhiên, một phần chỉ đơn thuần do sự có mặt của con người, phần khác
qua các ảnh hưởng trực tiếp của việc khai thác, cơ sở vật chất hạ tầng và sự ô nhiễm
của các chất thải.
Tam giác cong nhỏ ở giữa với vị trí chiến lược là giao của ba hệ thống trên,
thể hiện vai trò quan trọng của công tác quản lý vùng ven bờ. Đây là nơi có tất cả
các thông tin liên quan và các chiến lược cho phát triển bền vững được xây dựng
trên cơ sở các kiến thức tổng hợp, hệ thống thông tin và phân tích chính sách.
1.2.2 Phân hệ tự nhiên
Trong sơ đồ hệ thống vùng ven bờ, hệ tự nhiên là hệ không có sự tác động
của con người. Các yếu tố cơ bản trong hệ tự nhiên là:
- Không khí (khí quyển ).
- Nước (thuỷ quyển) kể cả các chất hoà tan có thể được mô tả qua các tính chất
hoá học, vật lý và sinh học của chúng.
- Trầm tích (thạch quyển) đặc trưng bởi các tính chất vật lý, khoáng vật học và hoá
học của nó, cũng như các tham số thuỷ động lực học và kỹ thuật địa chất liên
quan như tốc độ lắng chìm và ứng suất tiếp tới hạn.
- Sự sống trên đất liền và dưới biển được đặc trưng bởi số lượng các loài khác
nhau với số cá thể khác nhau.
Nhìn chung, các tính chất của các yếu tố cơ bản trên có thể sử dụng làm tài
liệu đầu vào cho các mô tả mang tính định lượng về các quá trình tự nhiên đang diễn
ra ở vùng ven bờ. Chúng là cơ sở quan trọng phục vụ cho việc giám sát các điều
kiện sinh thái ở vùng ven bờ.
Hệ thống vùng ven bờ thực chất là phần giao nhau giữa khí quyển, thuỷ
quyển và thạch quyển. Việc mô tả chi tiết hơn về hệ thống có thể sử dụng mô hình
số trị. Việc mô tả này bao gồm đánh giá các yếu tố quan trọng của hệ thống, các mối

tương tác vật lý giữa chúng và sau đó xây dựng hệ phương trình cơ bản biểu diễn
các quá trình tương tác giữa những yếu tố này.
Một điều quan trọng khác nữa là xác định ranh giới hệ thống của vùng nghiên
cứu. Chưa có một định nghĩa chung nào về vùng ven bờ được công nhận. Năm
1982, hội nghị Liên Hợp Quốc về Luật biển đã đưa định nghĩa đối với các vùng
khác nhau theo chủ quyền và tính pháp lý. Trong bối cảnh đó, các hoạt động khoa
học tại vùng ven bờ bị giới hạn trong hải phận quốc gia. Để áp dụng được vào thực
tế, cần có sự hoàn thiện hơn về khía cạnh luật pháp, trên cơ sở xem xét tổng thể các
điều kiện sinh thái và vật lý. Phạm vi nghiên cứu phải xác định cho một đối tượng
cụ thể, bởi vì các nghiên cứu có thể được tiến hành với quy mô khác nhau cả về thời
gian lẫn không gian. Biên giới của hệ thống nghiên cứu và việc mô tả các quá trình
liên quan đến nó sẽ được lựa chọn tương ứng. Không gian theo chiều dọc bờ biển
của hệ thống được xác định khi các các hoạt động trong đó được xem xét trong
khoảng thời gian xác định. Điều này có thể dẫn tới phạm vi của hệ thống lên đến
hàng 100 km và cần được xem xét trong một khoảng dài. Các kỹ sư chuyên về vùng
ven bờ hoặc các nhà địa mạo học vùng ven bờ thường tham gia nghiên cứu các hệ
thống với quy mô nhỏ hơn có kích thước vài chục ki lô mét.
Nếu nghiên cứu tác động của hệ thống đến chất lượng nước và hệ sinh thái thì
khái niệm hệ thống vùng ven bờ cần được xem xét và phân tích với quy mô lớn hơn.
Trong trường hợp đó, nghiên cứu thường phải mở rộng ra cả ngoài hải phận quốc
gia, mà đôi khi nó đòi hỏi phải có một phương thức tiếp cận mang tính quốc tế.
Ranh giới về phía biển, ví dụ như ranh giới của hệ thống động lực, địa mạo
thường được chọn ở nơi đủ sâu, nơi sự đóng góp cho quỹ bùn cát sát bờ là nhỏ. Quá
trình này thường xảy ra tại độ sâu nằm trong khoảng từ 25 đến 30m. Nếu có hẻm núi
ở vùng nước sâu ngoài khơi, ảnh hưởng của chúng cần được tính đến như một điểm
hút bùn cát. Rõ ràng, các điều kiện biên thuỷ lực ở phía biển cần phải xác định một
cách hợp lý nhằm phân tích được ảnh hưởng của sóng và dòng chảy từ một hệ thống
vùng ven bờ lớn hơn.
Ranh giới phía đất liền thường được chọn là ranh giới giữa biển và đất liền tại
mức thuỷ triều cao. Ở những vùng mà đồng bằng ven biển và những đụn cát có đóng

góp đáng kể vào nguồn trầm tích, ảnh hưởng của chúng phải được thể hiện trong
điều kiện biên. Tương tự như vậy, vận chuyển bùn cát từ các con sông ra biển cũng
phải được tính đến như một nguồn bùn cát. Những vùng có chất lượng nước kém,
cũng cần được đưa vào hệ thống xem xét một cách đầy đủ.
Các quá trình vật lý ở vùng ven bờ rất phức tạp. Các tương tác thường xuyên
giữa hai hay nhiều quá trình cần được tính đến. Nói chung, có thể phân chia ra các
loại quá trình dưới đây:
- Các quá trình động lực học chẳng hạn như tương tác khí quyển - biển hoặc sự
vận chuyển bùn cát do gió.
- Các quá trình thuỷ động lực học như sóng, triều, mực nước và dòng chảy.
- Các quá trình hình thái động lực học như tương tác giữa vận chuyển bùn cát và
các thay đổi địa hình đáy biển và hình thái đường bờ.
- Các quá trình địa động lực học do sự mất ổn định về địa chất như sụt lún, nâng
lên của mặt đất, động đất, hoá lỏng và trượt lở.
- Các quá trình sinh thái động lực học mô tả những thay đổi xảy ra trong hệ sinh
thái do các quá trình /yếu tố nêu trên.


Hình 1.4: Các quá trình vật lý vùng ven bờ

1.2.3. Phân hệ kinh tế – xã hội
Theo quan niệm truyền thống, vùng ven bờ là vùng có hoạt động kinh tế xã
hội mạnh nhất và cũng là vùng sản xuất lượng thực phẩm chính. Nhìn chung, ranh
giới của hệ thống kinh tế xã hội không đồng nhất với ranh giới của hệ tự nhiên. Các
hoạt động trong một vùng rộng hơn vùng ven bờ, có thể bị ảnh hưởng bởi sự thay
đổi trong phạm vi vùng ven bờ. Việc gia tăng xâm nhập mặn do xói lở bờ biển có
thể ảnh hưởng tới những vùng nông nghiệp thấp trũng rộng lớn trong nội địa. Việc
mất đi các bãi biển có ảnh hưởng đến các hoạt động liên quan ở những khu vực lân
cận.
Chưa có một hướng dẫn chung cho việc xác định ranh giới của hệ thống kinh

tế xã hội. Các ranh giới này phải dựa trên cơ sở phân tích các hoạt động kinh tế xã
hội hiện tại và trong tương lai ở vùng ven bờ và vùng nội địa liên quan đến nó, như
trình bày trong các kế hoạch phát triển vùng và quốc gia.
Trên cơ sở chức năng sử dụng khác nhau của vùng ven bờ, có thể phân ra các
nhóm sau:
- Các chức năng cơ bản: sản xuất lương thực, cung cấp nước và năng lượng
- Các chức năng xã hội: Xây dựng nhà ở và giải trí.
- Các chức năng kinh tế: Giao thông vận tải, phát triển công nghiệp và khai thác
cát.
- Các chức năng công cộng: Bảo vệ và xử lý nước, rác thải.





Hình 1.5: Ảnh hưởng các hoạt động KTXH đến hệ sinh thái biển
Hiện tại và tương lai của vùng ven biển được nghiên cứu theo không gian sử
dụng của các hoạt động khác nhau, hàng hoá và dịch vụ do chúng cung cấp và
những giá trị kinh tế xã hội vốn có của chúng. Hiện nay, nhiều nước xây dựng hệ
thống cơ sở dữ liệu để có thể sử dụng một cách hiệu quả trong việc thể hiện các hoạt
động trong hệ thống.
Kết quả của nghiên cứu phân tích chính sách phải xác định được các tác động
từ chính sách đã lựa chọn lên các chức năng sử dụng. Ví dụ điển hình là vùng
nghiên cứu nằm ở phía Tây Nam Hà Lan, trên một vùng đồng bằng ven biển, điểm
hội tụ của 3 cửa sông chính trước đây. Những mâu thuẫn gay gắt nảy sinh giữa chức
năng giải trí, phát triển thuỷ sản và bảo tồn sinh thái (đặc biệt là sự sống của các loài
chim và hải cẩu). Chính sách ưu tiên ở đây là bảo tồn sự phát triển hệ sinh thái,
trong khi hoạt động của ngành thuỷ sản và hoạt động giải trí có thể được lồng ghép
vào sự phát triển đó. Vấn đề này được thực hiện dựa vào các giới hạn sử dụng và
việc phân vùng các chức năng sử dụng chính.

1.2.4 Cơ sở hạ tầng và thể chế
Khái niệm cơ sở hạ tầng có nhiều nghĩa. Nó đề cập đến các yếu tố vật chất
như đường xá, cầu, đê chắn sóng, đê chắn cát ngoài biển v.v và cả những yếu tố liên
quan đến thể chế.
Phần lớn các hoạt động ở vùng ven bờ đều nhờ vào cơ sở hạ tầng và vấn đề
này được xem xét trước tiên. Do ảnh hưởng của các công trình vùng ven bờ đến hệ
thống tự nhiên và chi phí xây dựng chúng, các công trình này là yếu tố quan trọng
trong các nghiên cứu quản lý vùng ven bờ. Tuỳ thuộc vào ảnh hưởng của chúng tới
hệ thống ven bờ, có thể phân chúng theo 3 nhóm sau:
- Công trình chống đỡ: bao gồm vật chất tự nhiên như cát, sỏi. Chúng là tấm bình
phong để chống xói lở các vùng ven bờ. Các cồn cát, bãi bồi nhân tạo ảnh hưởng
ít nhất đến các quá trình tự nhiên.
- Công trình bảo vệ: được làm từ vật chất có khả năng chịu lực như đất sét, đá
hoặc các sản phẩm nhân tạo như bê tông. Các công trình như đê, kè, tường biển
được xây dựng để bảo vệ bờ biển khi gặp sóng mạnh và thuỷ triều cao. Khi các
công trình làm chức năng bảo vệ thì chúng cũng tác động vào các quá trình vùng
ven bờ
- Công trình tác động: được thiết kế để tác động một cách tích cực đến các quá
trình tự nhiên nhằm cải thiện các điều kiện cho một vài hoặc tất cả các hoạt động
ven bờ. Bởi thế các công trình này được xây dựng từ những vật chất nhân tạo có
thể chịu được áp lực tự nhiên. Ví dụ như các đê chắn sóng, đê bảo vệ bờ biển. Rõ
ràng kiểu công trình này có tác động mạnh đến hệ sinh thái ven biển.
Cơ sở hạ tầng ở bên ngoài vùng ven bờ cũng có ảnh hưởng gián tiếp đến
động lực học vùng ven bờ. Chẳng hạn việc xây dựng đập ngăn sông giữ lại một phần
lượng nước và bùn cát vận chuyển tới vùng ven bờ. Kết quả là theo thời gian, một
phần bãi trước sẽ bị xói do thiếu hụt bùn cát và sau một thời gian nào đó, quá trình
xói lở sẽ diễn ra.
Vấn đề cần xem xét tiếp theo là những nội dung liên quan đến thể chế. Quản
lý vùng ven bờ một cách hiệu quả cần đến một hệ thống kiểm soát, trong đó đưa ra
các mục tiêu quản lý vùng ven bờ, giám sát quá trình thực hiện và các kế hoạch hành

động ngắn hạn và dài hạn thích hợp. Liên quan đến nội dung này có thể xác định
được 4 hệ thống sau:
- Hệ thống chính sách: xác định các mục tiêu lâu dài quản lý vùng ven bờ và tiêu
chuẩn áp dụng cho phân tích các kịch bản;
- Hệ thống luật pháp: bao gồm các công ước quốc tế, tính hiệu lực đối với việc
thực thi chính sách nói trên.
- Hệ thống tài chính: cung cấp nguồn tài chính cần thiết.
- Hệ thống thực thi: xác định phạm vi trách nhiệm đối với tất cả các hoạt động liên
quan đến quản lý vùng ven bờ.


Hình 1.6: Ảnh hưởng các hoạt động kinh tế xã hội tới vùng ven biển
Do các điều kiện lịch sử, văn hoá, hành chính, xã hội và tài chính khác nhau,
mỗi nước xây dựng các hệ thống kiểm soát khác nhau. Bởi vì hệ thống kiểm soát có
ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của quản lý vùng ven bờ, cho nên các đặc
điểm của nó và trách nhiệm của các bên liên quan phải được nhận thức bởi chính các
nhà quản lý vùng ven bờ đó.
1.3. Quản lý vùng ven bờ: phân tích chính sách và hệ thống
1.3.1. Phân tích hệ thống trong giải quyết các vấn đề vùng ven bờ
Quản lý vùng ven bờ thực chất là một quá trình ra quyết định liên tục, nhằm
mục đích thu hẹp khoảng cách giữa thực tế và điều mong muốn trong việc sử dụng
các nguồn tài nguyên biển và ven bờ. Nói chung, điều này có thể đạt được nhờ một
hệ thống các quyết định/ biện pháp. Việc hình thành vấn đề, xác định mục tiêu quản
lý và xây dựng các chính sách phù hợp để đạt được các mục tiêu quản lý đó, cần
được tiến hành theo một quy trình hệ thống, trong đó có việc đề xuất, phân tích và
đánh giá các chiến lược thông qua phương pháp phân tích hệ thống.
Phân tích chính sách có thể được mô tả như một quá trình hệ thống, giúp
những người lãnh đạo đưa ra quyết định xác đáng, đánh giá và lựa chọn một hành
động tối ưu trong số các chiến lược khả thi khác nhau để đạt được những mục tiêu
quản lý đề ra. Đó là một cách tiếp cận có hệ thống và logíc với các giả thuyết, mục

tiêu và tiêu chí được xác định và chỉ ra một cách rõ ràng. Nó có thể hỗ trợ đắc lực
người ra quyết định đưa ra quyết định đúng đắn hơn thông qua việc mở rộng cơ sở
thông tin, nâng cao sự hiểu biết về hệ thống vùng ven bờ và dự đoán kết quả của một
số phương án hành động khác nhau. Cốt lõi của phân tích chính sách (phương pháp
xây dựng vấn đề) chính là phân tích hệ thống. Phân tích chính sách là một hoạt động
giải quyết vấn đề liên quan đến các kiến thức và phương pháp khoa học kỹ thuật tiên
tiến, các khái niệm về các mục tiêu và công bằng xã hội, các yếu tố đánh giá và xem
xét đối tượng trong bối cảnh rộng hơn và cả những điều không chắc chắn vốn có.
Trong quá trình ra quyết định, có thể kể ra 3 giai đoạn chính sau:
- Xác định và phân tích vấn đề.
- Xây dựng các giải pháp lựa chọn.
- Đánh giá và lựa chọn giải pháp tối ưu.
Trong thực tế, quá trình này thường có tính chất tuần hoàn. Nhiều nhà quản lý
đề xuất nhiều hoặc ít hơn các bước trong quá trình phân tích chính sách, đó là:
1. Xác định vấn đề;
2. Xác định các mục tiêu;
3. Xác định các tiêu chuẩn;
4. Xác định các giới hạn, cản trở; toàn bộ giai đoạn hình thành;
5. Xác định, xây dựng và sàng lọc phương án - một phần của giai đoạn nghiên
cứu
6. Đánh giá các phương án
7. So sánh và xếp loại các phương án chính sách khác nhau và
8. Đưa ra các kết quả toàn bộ giai đoạn đánh giá và trình bày.
Quá trình phân tích chính sách nói chung không phải là công việc có thể làm
được ngay, mà thường phải trải qua nhiều chu trình khác nhau. Do đó, mục tiêu
không phải đưa ra những mô hình phân tích cứng nhắc mà phải chỉ ra, trong một
phạm vi nào đó, những giai đoạn cơ bản của việc phân tích. Thông qua việc làm rõ
những giai đoạn này trong quá trình phân tích, có thể nhận được một hướng dẫn ban
đầu về cấu trúc của việc phân tích. Tuy nhiên, vấn đề cụ thể đặt ra và cản trở đối với
việc nghiên cứu, cuối cùng sẽ quyết định cách tiếp cận cho việc phân tích.

Mô hình phân tích định lượng thường bao gồm 4 giai đoạn cơ bản (DELFT
HYDTAULIC: Hoozemans, 1991).
1. Giai đoạn khởi xướng.
2. Giai đoạn thu thập và phân tích dữ liệu.
3. Giai đoạn mô hình hoá.
4. Giai đoạn lập kế hoạch.
Sự tham vấn ý kiến của những người ra quyết định là hết sức quan trọng
trong giai đoạn 1 và giai đoạn 4. Trong giai đoạn 1- giai đoạn khởi xướng, các mục
tiêu và thủ tục phân tích phải được xác định. Giai đoạn này sẽ đưa ra một kế hoạch
công việc cho giai đoạn tiếp theo. Giai đoạn 2, giai đoạn thu thập và phân tích dữ
liệu và giai đoạn 3, giai đoạn mô hình hoá, yêu cầu nhà phân tích đưa ra được các
thông tin chính.Giai đoạn 2 có một đặc điểm là việc sử dụng các kiến thức chuyên
ngành. Điều này rất cần thiết cho việc thiết kế hệ thống hỗ trợ ra quyết định. Một hệ
thống như vậy sẽ được áp dụng trong giai đoạn 3, với điều kiện phải có các công cụ
tính toán đủ dùng. Trong giai đoạn cuối, các phương án về chính sách được đưa ra
nhằm đánh giá và sắp xếp ưu tiên. Kết quả của giai đoạn này có thể là việc hình
thành một hoặc nhiều chính sách hoặc chiến lược mong muốn. Mặc dù có sự chuyển
giao từ từ giữa các giai đoạn trên, nhưng việc tách riêng chúng là cần thiết để có thể
kiểm soát được quá trình phân tích.
Đối với việc thiết kế các giai đoạn liên tiếp của kế hoạch quản lý vùng ven
bờ, cần đến một số công cụ và kỹ thuật sau:
- Các bước xây dựng các kịch bản.
- Kỹ thuật thu thập và xử lý dữ liệu.
- Các bước xây dựng và sàng lọc các chiến lược.
- Lập mô hình hệ thống.
- Các kỹ thuật sàng lọc và đánh giá và
- Các kỹ thuật trình bày.
Lập mô hình hệ thống chỉ có thể thực hiện được khi các tham số hệ thống đã
biết và các kịch bản được xác định một cách hợp lý. Hiệu quả của sự mô hình hoá sẽ
được nâng cao nếu các nguồn dữ liệu dựa vào được trình bày ở dạng thích hợp. Quá

trình áp dụng thực tế sẽ mang lại hiệu quả cao nếu việc trình bày thuận tiện, dễ hiểu.
Kỹ thuật tiên tiến về GIS và cơ sở dữ liệu, có thể hỗ trợ công việc mô hình hoá cũng
như các hoạt động xử lý sơ bộ và xử lý chi tiết. Việc tổng hợp các thành phần này
vào hệ thống hỗ trợ việc ra quyết định là rất có ích.
1.3.2 Các loại dự án quản lý vùng ven bờ
Có nhiều loại dự án quản lý vùng ven bờ. Các dự án này có thể phân biệt với
nhau theo độ liên kết giữa hệ tự nhiên, các chức năng và cơ sở hạ tầng (CSHT).
Chẳng hạn như:
Các hệ thống thông tin vùng ven bờ: các dự án chủ yếu được thực hiện để xây
dựng cơ sở dữ liệu và phân tích nhờ GIS.
Quản lý thiên tai: Các dự án chủ yếu tập trung vào kiểm soát xói lở bờ biển
và các giải pháp bảo vệ.
Quản lý chất lượng nước: Các dự án chủ yếu tập liên quan đến chất lượng
nước, hiệu ứng phân tán vật chất trong nước v.v…
Đánh giá và quy hoạch môi trường: các dự án chủ yếu liên quan đến việc xác
định các vùng nhạy cảm về môi trường, trong đó có quản lý đất ngập nước.
Phát triển du lịch và kinh tế: Các dự án chủ yếu nhằm xây dựng các lợi ích và
chiến lược du lịch.

Quy hoạch và quản lý tổng hợp vùng ven bờ: Các dự án chủ yếu tập trung vào
việc phân vùng sử dụng đất và các văn bản pháp quy cho vùng ven bờ

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I
1. Hãy cho biết lịch sử ra đời ngành khoa học quản lý vùng ven bờ?
2. Thế nào là quản lý vùng ven bờ? Mục tiêu của quá trình quản lý vùng ven bờ là
gì?
3. Thành công của quá trình quản lý vùng ven bờ phụ thuộc vào những yếu tố nào?
Hãy phân tích các yếu tố đó.
4. Hãy phân tích các giai đoạn của quá trình quản lý vùng ven bờ? Tại sao nói quản
lý vùng ven bờ là một quá trình?

5. Các thách thức trong quá trình quản lý vùng ven bờ là gì? Hãy cho ví dụ và phân
tích các thách thức đó.
6. Hãy cho biết một số dạng công trình vùng ven bờ?
7. Thế nào là thể chế? Thế chế vùng ven bờ gồm những hệ thống nào?
8. Vì sao cần áp dụng cận hệ thống trong quản lý vùng ven bờ? Hãy phân tích các
bước ra quyết định trong quản lý vùng bờ theo tiếp cận hệ thống.
9. Tại sao nói quá trình quản lý vùng bờ là quá trình phân tích chính sách và phân
tích hệ thống?
10. Hãy cho biết một số loại dự án quản lý vùng bờ?

CHƯƠNG 2
PHÂN HỆ PHI SINH VẬT: MÔI TRƯỜNG VẬT LÝ,
CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN PHI SINH VẬT
2.1 Mở đầu
Chương này đề cập đến hệ tự nhiên ven bờ, nhấn mạnh vào sự mô tả các quá
trình vật lý có ảnh hưởng đến hình thái vùng ven bờ. Ngoài ra, các vấn đề về động
học hình thái cũng được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, các biểu diễn toán học của
các quá trình thuỷ động lực học, vận chuyển bùn cát và địa động lực sẽ không được
đề cập tới.
Phần giới thiệu các hệ phi sinh vật gồm 3 phần:
- Giới thiệu thống nhất các thuật ngữ về các quá trình ven biển cho các nhà vật lý
hải dương, địa mạo và các kỹ sư chuyên ngành liên quan đến vùng ven bờ.
- Tóm tắt các quá trình ven bờ.
- Khả năng mô phỏng các quá trình hình thái động lực học và giới thiệu các công
trình kỹ thuật làm giảm hoặc chống lại xói lở bờ biển.
Phần 2.2 giới thiệu các loại bờ biển trên cơ sở phân loại hiện nay. Các thuật
ngữ và định nghĩa về các hiện tượng vùng ven bờ được tham khảo từ cuốn Hướng
dẫn Bảo vệ Bờ biển (CERC,1984)
Phần 2.3 tóm tắt các quá trình vật lý quan trọng nhất chi phối của các tác
động hình thái động lực của bờ cát. Phần lớn nội dung của phần này được tham khảo

từ cuốn Hướng dẫn nuôi bãi nhân tạo của DELFT HYDRAULICS và Trung tâm
nghiên cứu công trình dân dụng (Hà Lan) đưa ra.
Phần 2.4 đề cập đến hình thái học vùng ven bờ, tập trung vào các bờ biển
thẳng không bị chia cắt bởi các sông, lạch.
Chương 4 giới thiệu sơ bộ về các biện pháp có thể áp dụng nhằm bảo vệ và
khôi phục các đoạn bờ biển. Một số công cụ mô hình hóa trình bày trong phần này
có thể dùng để nghiên cứu ảnh hưởng của các tác động tự nhiên, nhân sinh đối với
hình thái vùng ven biển.
2.2 Phân loại và định nghĩa về bờ biển.
Hình dáng đường bờ biển hiện nay chủ yếu được quyết định bởi mực nước
biển dâng do băng tan. Mực nước biển sau khi băng tan không được quan trắc một
cách đồng bộ dọc theo tất cả các bờ biển trên thế giới.
Nhìn chung, mực nước biển hiện nay cao hơn mực nước biển cách đây
20.000 năm khoảng 130 m. Tốc độ tăng mực nước biển khá lớn khoảng 8 mm/năm
cho đến khoảng 7.000 năm trước đây và sau đó giảm khoảng 1,4 mm/năm đến thời
điểm cách đây 4.000 năm và mực nước hầu như giữ nguyên cho đến nay.
Có nhiều cách phân loại vùng bờ, song có thể chia thành hai nhóm chính như
sau:
- Bờ bùn
- Bờ cát (thạch anh, cát san hô);
- Bờ sỏi/ cuội
- Bờ đá
Theo các đặc điểm chính về hình thái học, có thể phân loại như sau:
- Bờ biển có đảo chắn
- Bờ biển có cửa sông
- Bờ biển dạng châu thổ
- Bờ biển có bãi/cồn cát
- Bờ biển có vách đá
- Bờ biển rạn san hô
- Bờ biển có rừng ngập mặn, v. v.

Tuy nhiên, các kiểu phân loại này thiếu một sự xắp xếp hệ thống như kiểu phân loại
theo nguồn gốc tự nhiên.
2.2.1 Phân loại theo nguồn gốc tự nhiên
Trong cách phân loại theo nguồn gốc tự nhiên, 3 yếu tố quan trọng nhất được đề
cập là hình dáng vùng đất, sự dịch chuyển tương đối theo phương thẳng đứng giữa
đất và biển và sự thay đổi của đường bờ do các quá trình địa mạo biển.
Công trình phân loại theo nguồn gốc tự nhiên được biết đến nhiều nhất là công
trình nghiên cứu của Johnson năm 1925. Theo kiểu phân loại này, bờ biển có thể
chia ra bốn loại:
- Bờ biển nổi
- Bờ biển chìm
- Bờ biển trơ
- Bờ biển hỗn hợp.
Bờ biển nổi có sự giảm tương đối của mực nước biển, trong khi bờ biển chìm
thì ngược lại. Bờ biển trơ được xác định với các đặc điểm không phụ thuộc vào sự
nổi hay chìm của nó. Kiểu bờ biển này bao gồm bờ của châu thổ, đồng bằng bồi
tích, núi lửa và rạn san hô. Bờ biển hỗn hợp có các đặc điểm tổ hợp của các bờ chìm
và nổi.
Nhược điểm của kiểu phân loại này là phần lớn các bờ biển đều thuộc loại bờ
chìm. Valentin (1952) đã đề xuất một cách phân loại khác dựa trên sự phân biệt giữa
các bờ biển tiến và thoái. Bờ biển tiến có thể do sự nổi lên của nó hoặc là do sự bồi
lắng của bùn cát. Các bờ biển thoái có thể do bị ngập hoặc bị xói lở.
Shepard (1952, 1963) đã đề xuất một cách phân loại trên cơ sở kết hợp các
yếu tố cơ bản nhất:
- Các bờ biển sơ cấp được hình thành do các quá trình không do biển
- Các bờ biển thứ cấp được hình thành do các quá trình của biển
Các ví dụ về bờ biển sơ cấp như bờ biển có dạng tảng băng (như vịnh Fjords
ở Na uy), các bờ biển dạng đụn cát do gió tạo nên và các bờ biển do núi lửa hình
thành (đá). Các ví dụ về bờ biển thứ cấp như các bờ đá bị sóng cắt, bờ biển có đảo
chắn và bờ biển có rừng ngập mặn.

Thuật ngữ bờ biển sơ cấp dễ bị nhầm lẫn: tất cả những bờ biển đều là thứ
cấp bởi vì biển tác động lên bờ sơ cấp ngay sau khi các điều kiện hình thành bờ đã
ổn định. Tuy nhiên, nếu năng lượng sóng nhỏ và bờ biển có khả năng chịu đựng cao
đối với tác động của biển (chẳng hạn như bờ đá gốc) thì xói lở sẽ diễn ra chậm. Phần
lớn các đoạn bờ biển là dạng hỗn hợp của bờ biển thứ cấp và sơ cấp. Trong các phần
tiếp theo, phân loại theo nguồn gốc tự nhiên của Shepard (1963) và Snead(1982)
được sử dụng.
2.2.2 Bờ biển sơ cấp và thứ cấp
2.2.2.1 Bờ biển sơ cấp
Nhiều bờ biển về cơ bản vẫn còn giữ được hiện trạng như lúc nó hình thành.
Hình dạng của bờ biển loại này không bị thay đổi do tác động của biển, mà phụ thuộc
vào những gì đã xảy ra trước đây. Bờ biển sơ cấp có thể chia nhỏ thành 9 nhóm:
a) Các bờ biển mà phần ngập nước bị xói mòn
Các hẻm núi ngầm dưới biển là một dạng xói mòn chính kiểu này. Ví dụ về
kiểu bờ biển này là hẻm núi Bahama.
b) Các bờ biển mà phần đất nổi bị xói mòn
Bờ biển loại này là kết quả của sự chìm xuống của thung lũng sông hoặc do
mực nước biển dâng lên hoặc do đất bị lún xuống. Các thung lũng sông, được hình
thành do sự xói mòn lớp mặt, bi hạ dần xuống. Bờ biển thung lũng sông bị nhấn
chìm gọi là bờ biển Ria. Ví dụ điển hình của kiểu bờ này là Vịnh Chesapeake. Bờ
biển thung lũng băng tan bị nhấn chìm gọi là bờ biển Fjord.
c) Bờ biển bồi tích vùng đất thấp do băng tan
Kiểu bờ biển sơ cấp này có hai kiểu phụ (i) Bờ biển nổi nơi vùng đất sau khi
băng tan được tiếp tục nâng lên do hoạt động kiến tạo và (ii) Bờ biển chìm do ảnh
hưởng của các tảng bang tan. Cả hai kiểu này khá phổ biến ở Thụy Điển.
d) Bờ biển vùng đất thấp có băng bao phủ
Là những vùng ở Nam Cực và Bắc Cực bị ảnh hưởng bởi những khối băng
lớn, núi băng và những vùng đất bị đóng băng vĩnh cửu.
e) Bờ biển bồi tích
Kiểu bờ biển này có hai loại:

- Bờ biển châu thổ được hình thành do bồi tích sông. Nguồn trầm tích do
sông tải ra vượt quá lượng xói lở do sóng và dòng chảy. Các dạng điển hình được
hình thành do tác động tương đối của dòng chảy sông và dòng ven bờ bao gồm:
¾ Dạng chân chim với nhiều nhánh như sông Misssissippi, bờ biển châu thổ
Bắc Bộ và Mê Kông (Việt Nam)
¾ Dạng hình cung như sông Nile (Ai Cập)
¾ Dạng nhọn với một dòng chính như sông Tiber
¾ Dạng phân thùy với hai lá rõ ràng như sông Rhone và sông Ebro.
- Bờ biển đồng bằng bồi tích: Loại bờ biển dốc thoai thoải và thẳng với
nguồn cung cấp trầm tích từ các dòng suối cận kề. Hầu hết các bờ biển loại này nằm
dọc các sa mạc.
f) Bờ biển được bồi tích do gió
Kiểu bờ biển này bao gồm các bãi và cồn cát trong đó quá trình bồi tích do
gió luôn lớn hơn xói lở do sóng.Các loại cồn cát chính là:
- Cồn cát nghiêng ra biển: là những cồn cát nhỏ liền kề và song song với bãi biển.
- Cồn cát hình Parabol là những luống cát cong có mặt lõm hướng về phía bờ.
- Cồn cát nhọn là những dải cát cong mà mặt hướng ra biển có độ nghiêng lớn.
Loại này phổ biến khi gió chỉ thổi theo một hướng.
- Cồn cát ngang hướng gió là những cồn cát dài mà mặt khuất có độ nghiêng lớn,
nằm song song hoặc hơi chếch so với bờ (vuông góc với hướng gió chính).
- Cồn cát dọc hướng gió là những cồn cát dài song song với hướng gió và vuông
góc (hơi chếch) với bờ biển.
- Cồn cát hoá thạch với cát đá vôi chỉ có ở vùng nhiệt đới.
Bãi cát phẳng có thể được hình thành phía trước các cồn cát, nơi có năng
lượng sóng thấp (do bị che chắn) và gió mạnh.
g) Bờ biển được hình thành do đất trượt
Bờ biển kiểu này được hình thành do điều kiện ngoại lực như sóng gió, dòng
chảy hoặc do các hoạt động kiến tạo làm sạt trượt các khối đất gần kề với biển.
h) Bờ biển hình thành do núi lửa
Bờ biển loại này được đặc trưng bởi dòng dung nham kết thúc bất ngờ khi

gặp biển hoặc dòng dung nham đổ vào biển trước khi nguội và đông cứng lại. Đặc
điểm điển hình loại này là có độ dốc lớn và dạng hình nón chẳng hạn như bờ biển
Hawai.
i) Bờ biển bị đứt đoạn
Bờ biển này được hình thành bởi các dốc đứt đoạn, tách vùng đất được nâng
lên ra khỏi một vùng biển bị sụt xuống điển hình như bờ biển Canifonia (Mỹ). Ngoài
ra còn có thể do quá trình nâng kiến tạo không đều như bờ biển Makran (Iran).
2.2.2.2 Bờ biển thứ cấp
Bờ biển loại này là kết quả tương tác giữa các điều kiện ngoại lực với bờ biển
sơ cấp và tác động của con người. Có thể phân ra 5 dạng bờ biển thứ cấp sau:
a) Bờ biển bị xói
Dạng bờ này cấu tạo từ đá mềm hoặc cát, chẳng hạn như đá cát hoặc đá vôi
bị sóng ăn mòn. Quá trình ăn mòn diễn ra trên diện rộng. Kiểu bờ này còn được biết
đến như kiểu bờ có vách đá nhô ra biển.
Nếu các vách đá nhô ra biển được cấu tạo từ vật chất giống nhau thì sóng có
thể gây ra xói mòn theo những đường thẳng, nhưng nếu độ rắn của chúng khác nhau,
thì sóng và dòng chảy sẽ tạo thành đoạn bờ lồi lõm và các phần cứng hơn sẽ nhô ra
biển thành các mỏm nhọn(như ở bờ biển Costa Brava ở Tây Ban Nha). Một số bờ
biển có cấu trúc phay kiến tạo bị sóng mạnh cắt dần thành những đường gần như
thẳng tắp (như ở bờ biển Molakai, Hawaii).
Thông thường, các bờ biển được hình thành không theo quy luật với một số
đặc điểm như vách đá, mũi đá, đôi khi có các hõm ở giữa, các thềm phẳng, động,
cung, hoặc núi (các khối đá cao tách khỏi lục địa).
b) Bờ biển bồi tụ
Là bờ biển mở rộng ra phía biển do các quá trình bồi tụ dưới tác động của
sóng và dòng chảy. Các đặc trưng của dạng bờ biển này như sau:
Bãi biển là nơi lưu giữ các trầm tích, phần lớn là cát được lọc kỹ (thạch anh,
mảnh vụn san hô, cát từ núi lửa) hoặc sỏi, đá cuội do sóng và dòng chảy đưa đến.
Giữa các bãi biển là các khe, chỏm núi (dạng lưỡi liềm có khoảng trống bằng phẳng
hình lòng chảo hướng ra biển ở phần bờ cao hơn), các lạch nhỏ (các kênh thoát nước

nhỏ) và các đụn cát được tạo thành do sóng và dòng chảy. Một số dạng bãi biển phổ
biến là:
- Bãi biển có đầu và hông liền kề với vịnh: bùn cát bị xói từ các mũi đất lắng đọng
ở đầu phía trong và hai bên của các vịnh cạnh đó.
- Bãi biển khép kín kiểu túi: được hình thành dọc các bờ đá gần cửa sông (bãi tích
tụ do sông) hoặc gần các khu vực có đá mềm bị xói mòn và bùn cát được đưa
vào các vũng, vịnh nhỏ (bãi biển bồi tích).
- Bãi thẳng: được hình thành ở các khu vực có nhiều bùn cát và không có vật cản
trở quá trình vận chuyển bùn cát dọc bờ.
- Cồn cát: hình thành do sóng vỗ bờ và các dòng suối nhỏ song song với bờ. Mỗi
cồn cát đánh dấu vị trí đường bờ trước đó và cấu tạo từ vật chất tương đối thô
(cát, sỏi, vỏ ngao, sò,…) được các cơn bão tấp vào.
- Bãi phẳng: bãi rộng, phẳng được hình thành do bồi tích liên tục trong điều kiện
năng lượng thấp.
Căn cứ vào điều kiện hình thành, người ta chia ra các kiểu bờ biển bồi như sau:
- Cồn cát trong vùng sóng vỡ: hình thành do bồi tích dọc bờ trong phần ngập nước
khu vực sóng vỡ (cồn cát do sóng vỡ) nằm song song, chéo, ngang hoặc uốn
cong so với bờ, đôi khi lộ ra lúc thuỷ triều xuống.
- Cồn cát ngoài vùng sóng vỡ: một phần bị ngập khi thuỷ triều lên, có nguồn gốc
từ các bãi ngầm, từ từ nổi lên do các quá trình bồi tích biển. Các cồn cát loại này
được được gọi là các đảo chắn khi các đụn cát được tạo thành, nơi sóng và dòng
chảy vận chuyển bùn cát qua thường xuyên, liên tục. Cồn chắn ở đầu vịnh có thể
được hình thành ở những nơi có bùn cát tải từ sông ra và được phân bố lại bởi
dòng chảy.
- Mũi đất nhô ra biển: cồn cát mà một đầu nối với đất liền và đầu kia bị ngập bởi
nước biển. Các mũi đất cong nhô ra biển được hình thành do tác động của dòng
chảy chuyển hướng.
- Bãi trước hình nhọn: được hình thành do sự tiến nhanh ra biển của bờ chính ở
những vùng mà sóng và dòng chảy đưa bùn cát từ hai hướng chính hoặc ở những
vùng ven bờ bị che chắn bởi các cồn hoặc đảo ngoài khơi.

- Bãi nối: cồn cát nối một hòn đảo với đất liền hoặc với một hòn đảo khác. Điển
hình như bờ biển ở Ý và Carlifornia.
- Đảo thấp: là một cồn cát hay đảo nhỏ ngoài khơi, thường nằm trên nền rạn san
hô (như ở Flirida, Australia). Trầm tích là các mảnh san hô vỡ và các loài giáp
xác. Thực vật dễ phát triển khi lớp trầm tích nổi lên trên mặt nước.
- Lạch triều: là kênh nước hẹp ngắn nối liền vịnh hoặc đầm phá với biển và được
duy trì bởi dòng triều.
- Bãi cồn bùn: là những vùng có kiểu bồi tích điển hình nằm gần cửa sông lớn như
sông Amazon, sông Mississipi. Các sông này mang theo một khối lượng lớn trầm
tích mịn ra biển. Các bãi, cồn bùn bị thay đổi nhanh khi có bão. Sóng gây ra vận
chuyển bùn liên tục dọc bờ theo hướng sóng chính tạo nên các đoạn bờ bùn (Bờ
biển Guyana). Thực vật ngập mặn có thể phát triển ở gần đường biên triều cao.
Cồn Vành, Cồn Na, Cồn Ngạn cửa Ba Lạt (Nam Định) là ví dụ điển hình.
c) Bờ biển có rạn san hô
Bờ biển kiểu này được hình thành có nguồn gốc từ san hô (chứa canxi
cácbonat) sinh sống ở đáy biển và phát triển về phía bờ đến ranh giới triều. Khi một
cây san hô chết, cây mới phát triển lên trên nó hình thành rạn có cấu trúc là các
khung canxi cacbonat cứng. Xói mòn do sóng làm các mảnh san hô có thể dạt vào
bờ tạo thành bãi. Các rạn san hô chủ yếu được tìm thấy ở những vùng nước ấm. Có
các loại rạn san hô sau:
- Rạn san hô dạng tua: được hình thành ở các chỗ nước nông gần bờ.
- Rạn san hô dạng dải: cấu trúc hình cung ở độ sâu nước từ 20 m đến 50 m.
- Rạn san hô chắn: bao quanh 1 đầm phá dạng dài có lạch phân bố ở các vị trí khác
nhau.
- Rạn san hô vòng: rạn san hô có hình vòng cung bao quanh đầm phá.
d) Bờ biển có rừng ngập mặn
Các đầm với cây ngập mặn là những vùng rừng, bụi rậm ngập triều ở hầu hết các
đoạn bờ bồi tích vùng nhiệt đới ẩm. Phần lớn rừng ngập mặn có các loại cây và bụi
rậm chịu nước mặn. Rừng ngập mặn hình thành ở vùng nước cạn được bồi tích bởi
bùn có nguồn gốc từ sông Ở đó các yếu tố như khí hậu nhiệt đới ẩm, nước cạn, biên

độ triều trung bình, có nhiều bùn cát mịn và năng lượng sóng nhỏ rất thuận lợi cho
cây ngập mặn phát triển.
e) Bờ biển dạng đầm lầy cỏ: các đầm lầy nước mặn được hình thành trong điều kiện
bồi tích từ từ ở các lạch ven biển, cửa sông đầu vịnh nơi có biên độ triều thấp và
sóng nhỏ tạo điều kiện thuận lợi cho bùn cát mịn lắng đọng. Cỏ và các thực vật nổi
dễ phát triển ở những vùng bùn.
2.3. Các quá trình ven bờ
Các quá trình thuỷ động lực và hình thái ở vùng ven bờ bị chi phối bởi hai
hiện tượng chính là gió và thuỷ triều. Gió trực tiếp vận chuyển cát ở các bãi cát khô
và tạo sóng, dòng chảy và dao động mực nước, còn thuỷ triều thì tạo ra sự lên xuống
tuần hoàn của mực nước và các dòng triều. Trong hầu hết các trường hợp, vận
chuyển bùn cát và sự thay đổi địa hình và hình dáng đường bờ được sinh ra trực tiếp
do ảnh hưởng của sóng và dòng chảy, mặc dù trong một số trường hợp nhất định,
không thể không nói đến ảnh hưởng của gió.
Vận chuyển bùn cát mạnh nhất xảy ra ở vùng gần bờ, nơi sóng bị vỡ khi
truyền vào vùng nước nông. Khi sóng vỡ, năng lượng sóng bị phân tán và tạo nên
chuyển động rối. Sóng làm tăng mực nước trung bình tại vùng sóng vỡ, gọi là sóng
vỗ bờ. Một phần sóng dồn lên và rút xuống theo độ dốc bờ. Khi sóng dồn lên, nước
ngấm vào bãi cát và chảy xuống khi sóng rút mang theo bùn cát.
Phần đỉnh của sóng vỡ tạo ra sự vận chuyển nước vào bờ. Theo số liệu đo
đạc, chuyển động của nước vào bờ cân bằng bởi vận chuyển ra biển của lớp nước
thấp hơn thường gọi là dòng ngược. Về bản chất, dòng chảy từ bờ ra biển có thể xem
là dòng dòng do sóng dồn nước vào bờ gây nên. Khi sóng truyền vào bờ với một góc
xiên nào đó, hiện tượng sóng vỡ sẽ tạo ra dòng chảy dọc bờ (được gọi là dòng ven
bờ).
Vận tốc quỹ đạo của sóng, dòng chảy và đặc biệt là chuyển động rối của nước
trong vùng sóng vỡ làm cho bùn cát bị bứt lên khỏi đáy và lơ lửng trong dòng nước.
Dòng chảy sẽ mang bùn cát theo hướng vuông góc với bờ biển. Dòng ngược từ bờ ra
biển sẽ mang các hạt bùn cát lơ lửng ra xa hơn. Một quá trình vận chuyển vào bờ
khác xảy ra ở lớp sát đáy do tính không đối xứng của chuyển động quỹ đạo sóng.

Phía ngoài vùng sóng vỡ, tính không đối xứng của sóng cũng tạo nên sự vận chuyển
bùn cát vào bờ và trọng lực có thể là yếu tố cản trở quá trình đó. Hình 2.1 phác hoạ
các hiện tượng khác nhau diễn ra ở vùng ven bờ.
Vận chuyển dọc bờ ở những vùng gần bờ chủ yếu được thực hiện bởi dòng
chảy sóng và gió sinh ra. Với các độ cao sóng khác nhau, sóng bị vỡ ở những độ sâu
khác nhau, sinh ra dòng ven khá liên tục và tạo ra phân bố bùn cát khác nhau trên
hướng vuông góc với bờ trong quá trình vận chuyển dọc bờ. Dòng triều kết hợp với
chiều chuyển động quỹ đạo do sóng làm cho các hạt bùn cát bứt lên khỏi đáy và sau
đó vận chuyển dọc theo bờ.

×