Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

áp dụng phương pháp sắc ký cột và sắc ký lớp mỏng vào giảng dạy hóa học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 77 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN







TRẦN MẠNH CƢỜNG






ÁP DỤNG PHƢƠNG PHÁP
SẮC KÝ CỘT VÀ SẮC KÝ LỚP MỎNG
VÀO GIẢNG DẠY HOÁ HỌC PHỔ THÔNG





Chuyên ngành: Hoá phân tích
Mã số: 60 44 29






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC





Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐÀO HỮU VINH



HÀ NÔI – 2011



1



MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Sơ lƣợc về lịch sử phát triển sắc ký 3
1.2. Định nghĩa, nguyên tắc của sắc ký và phân loại các phƣơng pháp
sắc ký 4
1.2.1. Định nghĩa 4
1.2.2. Nguyên tắc của sắc ký 4
1.2.3. Phân loại các phương pháp sắc ký 4

1.3. Cơ sở lý thuyết về sắc ký 7
1.3.1. Các khái niệm cơ bản 7
1.3.2. Thuyết đĩa 11
1.3.3. Thuyết tốc độ 14
1.4. Sắc ký lớp mỏng (thin layer chromatography) 16
1.4.1. Các chất hấp thụ dùng trong sắc ký lớp mỏng 17
1.4.2. Dung môi khai triển và thuốc thử hiện màu 18
1.5. Sắc ký giấy (paper chromatography) 18
1.5.1. Kỹ thuật tiến hành sắc ký giấy 19
1.5.2. Giấy sắc ký 19
1.5.3. Dung môi trong sắc ký giấy 20
1.5.4. Ứng dụng của sắc ký giấy 21
1.6. Sắc ký hấp phụ lỏng (trên cột) 21
1.6.1. Nguyên tắc 21
1.6.2. Ứng dụng của sắc ký hấp phụ lỏng 24
1.7. Khái quát về chất diệp lục (chlorophyl) và carotenoit 24
1.7.1. Chất diệp lục (diệp lục tố, chlorophyl) 24
1.7.2. Carotenoit 26
1.7.3. Các phương pháp sắc ký đã được dùng để tách các diệp lục
và carotenoit. 28
1.8. Khái quát về ion Co
2+
, Cu
2+
, Fe
3+
, Ni
2+
và muối của chúng 29
1.8.1. Sơ lược về muối sắt(III) và ion Fe

3+
29
1.8.2. Sơ lược về muối đồng(II) và ion Cu
2+
31
1.8.3. Sơ lược về muối coban(II) và ion Co
2+
32
1.8.4. Sơ lược về muối niken(II) và ion Ni
2+
33
1.8.5. Các phương pháp sắc ký đã được dùng để tách các ion Fe
3+
,
Cu
2+
, Co
2+
và ion Ni
2+
34


2


Trang
CHƢƠNG 2: THỰC NGHIỆM 35
2.1 Các hoá chất và thiết bị cần thiết 35
2.2. Chế tạo bản mỏng từ tinh bột sắn dây 36

2.3. Chiết dịch từ lá xanh 36
2.4. Tiến hành sắc ký cột 37
2.5. Tiến hành sắc ký lớp mỏng (thin layer chromatography) 38
2.6. Tiến hành sắc ký giấy (paper chromatography) 39
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 40
3.1. Sắc ký cột 40
3.1.1. Tách chất màu trong lá xanh 40
a) Pha tĩnh là silicagel, pha động là hệ dung môi ete dầu
hoả - axton. 40
b) Pha tĩnh là silicagel, pha động là hệ dung môi
toluen - axeton. 41
c) Pha tĩnh là bột canxi cacbonat, pha động là hệ dung môi
ete dầu hoả - axeton 42
d) Pha tĩnh là bột canxi cacbonat, pha động là hệ dung môi
toluen - axeton. 43
e) Pha tĩnh là glucozơ, pha động là hệ dung môi
ete dầu hoả - axeton. 45
f) Pha tĩnh là glucozơ, pha động là hệ dung môi
toluen - cồn etylic nguyên chất. 46
3.1.2. Tách các ion Fe
3+
, Cu
2+
, Co
2+
46
a) Pha tĩnh là silicagel, pha động là hệ dung môi
NH
4
NO

3
4M - NH
3
4M 46
b) Pha tĩnh là silicagel, pha động là hệ dung môi
CH
3
COONH
4
1,5M -CH
3
COOH 1,5M 48
c) Pha tĩnh là silicagel, pha động là hệ dung môi
Axeton – HCl đặc 49
d) Pha tĩnh là bột canxi cacbonat, pha động là hệ dung môi
NH
4
NO
3
4M - NH
3
4M 49
e) Pha tĩnh là silicagel, pha động dung dịch axit axetic 49
f) Pha tĩnh là tinh bột sắn dây 49
2.7.3. Kết luận 49
3.2. Sắc ký lớp mỏng 50


3



Trang
3.2.1. Tách chất màu trong lá xanh 50
a) Bản mỏng của hãng Merck, hệ dung môi
ete dầu hoả - axeton 50
b) Bản mỏng sắc ký tự chế tạo từ tinh bột sắn dây, hệ dung
môi ete dầu hoả - axeton 52
3.2.2. Tách các ion kim loại Fe
3+
, Cu
2+
, Co
2+
, Ni
2+
54
a) Bản mỏng của hãng Merck, hệ dung môi
NH
3
4M – NH
4
NO
3
4M 54
b) Bản mỏng chế tạo từ tinh bột sắn dây, hệ dung môi
axeton - HCl đặc 56
3.2.3. Kết luận 58
3.3. Sắc ký giấy 59
3.3.1. Tách chất màu trong lá xanh 59
a) Giấy sắc ký loại 3S, hệ dung môi ete dầu hoả - axeton 59

b) Giấy sắc ký là giấy lọc, hệ dung môi ete dầu hoả - axeton 61
c) Giấy sắc ký là loại 3S, hệ dung môi toluen - cồn etylic
tuyệt đối 63
d) Giấy sắc ký là giấy lọc, hệ dung môi toluen - cồn etylic
tuyệt đối 65
3.3.2. Tách các ion Fe
3+
, Cu
2+
và Co
2+
66
a) Giấy sắc ký loại 3S, hệ dung môi axeton - HCl đặc 66
b) Giấy sắc ký là giấy lọc, hệ dung môi axeton - HCl đặc 68

3.3.3. Kết luận 68
KẾT LUẬN CHUNG 70
KIẾN NGHỊ 71
Tài liệu tham khảo 72
I. Tiếng việt 72
II. Tiếng Anh 73



4


MỞ ĐẦU

1/Lý do chọn đề tài

Sắc ký được ra đời từ năm 1903 bởi nhà thực vật học người Nga Mikhail
Tsvet (Mikhail Semyonovich Tsvet), đến nay sắc ký đã phát triển mạnh mẽ trở
thành môn học quan trọng của hoá phân tích hiện đại và được ứng dụng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực.
Nhờ có khả năng tách riêng rẽ các chất cho kết quả phân tích định tính
hoặc định lượng đều rõ ràng. Sắc ký tham gia vào phân tích các mẫu phức tạp
trong các lĩnh vực từ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp đến các hoạt động phục
vụ đời sống như chữa bệnh, điều tra hình sự. Ngoài ra sắc ký còn là công cụ
phục vụ đắc lực cho nghiên cứu khoa học.
Thí dụ trong sản xuất nông nghiệp, sắc ký góp phần tách và định lượng
các chất dinh dưỡng trong sản phẩm, phân tích các độc tố, như các hóa chất bảo
vệ thực vật, các kim loại nặng trong thực phẩm, nước uống…
Trong chữa bệnh, sắc ký góp phần xét nghiệm mẫu bệnh phẩm, thí dụ
phân tích thuốc kháng sinh, phân tích các dược phẩm, dược liệu…
Sắc ký cũng phục vụ đắc lực trong quan trắc môi trường, đánh giá tác
động của môi trường tới đời sống con người. Thí dụ tách và định lượng hàm
lượng các chất độc hại trong không khí.
Vậy dạy cho học sinh THPT kiến thức về sắc ký là rất cần thiết, tuy nhiên
chương trình môn Hoá Học ở bậc học phổ thông của nước ta hiện nay chưa có
phần nào nói về sắc ký. Có lẽ khó khăn là các thí nghiệm thực hành về sắc ký
thường khó làm, cần nhiều máy móc hỗ trợ hiện đại đắt tiền, thời gian làm thí
nghiệm lâu có trường hợp diễn ra trong thời gian dài, nhiều hoá chất khó kiếm
đắt tiền không phù hợp với trường THPT.
Với mong muốn có thể đưa nội dung sắc ký vào chương trình Hoá Học
phổ thông ở nước ta Phó giáo sư - Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Đào Hữu Vinh, đã
trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện luận văn “Áp dụng phƣơng pháp sắc ký cột
và sắc ký lớp mỏng vào giảng dạy hoá học phổ thông”.
2/ Mục đích nghiên cứu
Khảo sát để lựa chọn ra những thí nghiệm sắc ký có thể áp dụng dạy cho
học sinh phổ thông. Nghĩa là thiết bị, hoá chất, đơn giản, ít hoặc không độc hại,

dễ tìm kiếm ở phòng thí nghiệm của một trường THPT ở Việt Nam. Chọn thành
phần pha động, pha tĩnh và chất phân tích sao cho thí nghiệm dễ làm, thời gian
cho một nghiệm chỉ khoảng từ 5 đến 15 phút nhưng vẫn đảm bảo chuyển tải


5


được cho học sinh những kiến thức cơ bản nhất về bản chất, nguyên lý và ứng
dụng của sắc ký.
3/ Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Kiến thức về sắc ký là khá rộng, nhưng do mục tiêu đã nêu trên hơn nữa
thời gian nghiên cứu và khả năng của bản thân có hạn, nên tôi chỉ tập trung
nghiên cứu khảo sát việc thay đổi các hoá chất dụng cụ để thực hiện thí nghiệm
sắc ký cột, sắc ký lớp mỏng và sắc ký giấy ở mức tách định tính các chất màu
trong lá xanh (chlorophyl, carotenoit), một số ion kim loại thông dụng có màu
đặc trưng (Fe
3+
, Cu
2+
, Co
2+
, Ni
2+
).
4/ Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu các tài liệu về cơ sở lý thuyết chung của sắc ký, tài liệu hướng
dẫn thực hành sắc ký.
Làm thực nghiệm với sắc ký cột, sắc ký lớp mỏng và sắc ký giấy; nghiên
cứu sự thay đổi thành phần pha động, pha tĩnh và chất phân tích để tìm ra những

thí nghiệm phù hợp với mục đích đã nêu.






























6


CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1. Sơ lƣợc về lịch sử phát triển sắc ký [15, 18, 19]
Năm 1903 nhà thực vật học người Nga Michael Tsvet đã dùng cột nhôm
oxit (có tài liệu nói cột canxi cacbonat) làm pha tĩnh và pha động là ete dầu hoả
tách thành công chlorophyl từ lá cây. Ông đã giải thích hiện tượng bằng ái lực
hấp phụ khác nhau của các sắc tố và đặt tên phương pháp này là phương pháp
sắc ký (chromatography), sắc ký nghĩa là ghi màu vì đã tách được những chất có
màu.
Tuy nhiên phát minh của Tsvet gần như bị lãng quên trong một thời gian
dài. Mãi tới năm 1931 sau khi Vinterstin và Lederer dùng phương pháp của
Tsvet tách caroten thô thành



caroten và nhận thấy giá trị của phương
pháp về phương diện điều chế, phương pháp sắc ký mới bắt đầu được chú ý
đúng mức và phát triển nhanh chóng. Đặc biệt trong những năm 30 của thế kỷ
XX, nhu cầu về phân tích và tách hỗn hợp các chất trở nên rất cấp thiết nên sắc
ký phát triển nhanh chóng. Năm 1938 Izmailov và Shraiber đặt nền móng đầu
tiên cho sắc ký lớp mỏng và sau đó những công trình của Stahl đã làm cho sắc
ký lớp mỏng phát triển nhanh chóng và ứng dụng rất rộng rãi. Năm 1941
Tiselius phát triền các kỹ thuật tách sắc ký và chỉ ra các phương pháp phân tích
tiền lưu, phân tích thế đẩy và phân tích rửa giải. Cũng trong năm 1941 sắc ký
phân bố ra đời khi Martin và Synge đề xuất phương pháp tách không phải theo
ái lực của các cấu tử đối với chất hấp thụ, mà do sự phân bố khác nhau của các
cấu tử giữa hai chất lỏng không trộn lẫn. Các tác giả trên đã phát triển một dạng

mới của sắc ký phân bố: sắc ký giấy. Do có công đóng góp các tác giả đã nhận
giải Nobel năm 1952. Vào năm 1941 – 1942, Martin đã làm một bước ngoặt lớn
trong sắc ký do dùng sắc ký giấy tách thành công các ancaloit chiết được từ các
cây thuốc. Năm 1952, Martin công bố công trình đầu tiên về sắc ký khí dựa trên
sự phân bố của chất giữa pha tĩnh là chất lỏng và pha động là chất khí. Vào
những năm 1970, sắc ký khí phát triển, cùng với nó, sắc ký lỏng cũng nâng cao
hiệu quả của phương pháp, các vật liệu làm pha tĩnh không ngừng được cải tiến,
từ đó hiệu lực của các phương pháp sắc ký đạt được những thành tựu đáng kể
như tách được các hỗn hợp các chất cực kỳ giống nhau (thí dụ các nguyên tố đất
hiếm), các ancaloit, các hiđrocacbon trong các mẫu dầu…Ngày nay trong sắc ký
lỏng chất nhồi được cải tiến, kích thước hạt giảm xuống tới 1,5 – 1,7

m, có khả
năng chịu áp suất và nhiệt độ tốt, hình thành các phương pháp cực kỳ hiệu quả
(Ultra Performance Liquid Chromatography – UPLC) có thể tách nhanh các hợp
chất khó trong thời gian vài chục giây. Ngoài ra phương pháp siêu tới hạn


7


(Supercritical fluid chromatography – SFC) cũng được phát triển để phù hợp với
các chất có khối lượng phân tử lớn. Vào cuối thể kỷ trước, một phương pháp
tách mới được đời là các phương pháp điện di, đặc biệt là điện di mao quản.
Phương pháp có hiệu lực tách rất cao, nhanh, có thể tách được nhiều các đối
tượng vô cơ và hữu cơ. Năm 1994, những máy điện di mao quản đầu tiên được
bán trên thị trường, được sử dụng rất có hiệu quả để phân tích các dược phẩm,
các mẫu sinh học, đặc biệt là các mẫu cực kỳ khó như protein, enzim…
Sự phát triển phong phú của sắc ký đã làm cho danh từ “sắc ký” không
còn đúng theo ý nghĩa ban đầu của nó. Tuy nhiên tất cả các phương pháp sắc ký

đều có những nét chung nhất: quá trình tách dựa trên sự chuyển dịch của hỗn
hợp chất phân tích qua lớp chất bất động (pha tĩnh) là chất rắn hoặc chất lỏng
mang trên chất rắn hoặc giấy và sự chuyển dịch đó được thực hiện bằng một
chất khí hoặc chất lỏng (pha động).
1.2. Định nghĩa, nguyên tắc và phân loại các phƣơng pháp sắc ký [10, 15]
1.2.1. Định nghĩa
Tính đa dạng muôn màu của phương pháp sắc ký đã làm nảy sinh nhiều định
nghĩa, nhiều tên gọi trong lĩnh vực sắc ký. Nhưng định nghĩa được nhiều nhà
hoá học thừa nhận là hoàn chỉnh nhất, tổng quan nhất như sau:
Sắc ký là quá trình tách liên tục từng vi phân hỗn hợp các chất do sự phân bố
không đồng đều của chúng giữa pha tĩnh và pha động đi xuyên qua pha tĩnh.
- Một hệ sắc ký bao gồm: chất phân tích, pha tĩnh và pha động.
1.2.2. Nguyên tắc của sắc ký
Nguyên tắc chung của mọi phương pháp sắc ký là dựa trên sự phân bố các
chất giữa hai pha: một pha thường cố định gọi là pha tĩnh(stationary phase) và
một pha chuyển động gọi là pha động (mobile phase). Khi cho mẫu chứa hỗn
hợp chất cần phân tích đã được hoà tan trong dung môi thích hợp (pha động) di
chuyển qua pha tĩnh do sự phân bố các chất cần phân tích giữa hai pha là khác
nhau nên tốc độ di chuyển của chúng khác nhau và sẽ được tách khỏi nhau sau
một thời gian nhất định.
1.2.3. Phân loại các phƣơng pháp sắc ký
1.2.3.1. Phân loại theo trạng thái liên hợp của pha động và pha
tĩnh
- Theo cách phân loại này tất cả các phương pháp sắc ký được phân thành hai
nhóm lớn theo pha động: sắc ký lỏng và sắc ký khí. Đây là cách phân loại lôgic
nhất và được sử dụng rộng rãi.
- Pha tĩnh có thể là chất rắn hoặc chất lỏng (được mang trên chất rắn).
1.2.3.2. Phân loại theo cơ chế của quá trình tách



8


Phương pháp phân loại này dựa trên cơ chế của quá trình hấp thụ - giải hấp thụ,
nghĩa là theo tương tác của chất được sắc ký với pha động. Có bốn cơ chế sắc ký
chính sau đây.
A. Sắc ký hấp phụ.
Sự tách do ái lực khác nhau của các chất đối với chất hấp phụ rắn (pha tĩnh). Đối
với các chất hấp phụ phân cực, ái lực đó chủ yếu do tương tác của các cực. Do
đó các nhóm phân cực trong phân tử ảnh hưởng tới kết quả tách mạnh hơn các
mạch hiđrocacbon không phân cực.
B. Sắc ký phân bố.
Trong phương pháp này người ta lợi dụng sự phân bố khác nhau của các chất
giữa pha tĩnh lỏng (được giữ bởi chất mang rắn) và pha động. Trong sắc ký lỏng
pha tĩnh thường phân cực hơn pha động, tuy nhiên cũng có trường hợp ngược
lại. Về nguyên tắc có thể có rất nhiều tổ hợp hai pha lỏng. Tuy nhiên trong thực
tế số đó bị hạn chế rất lớn. Như chúng ta đã biết qui tắc về độ tan “các chất
giống nhau hoà tan vào nhau”, do đó độ phân cực của các chất được sắc ký cũng
như của các pha tĩnh và pha động có ảnh hưởng tới quá trình tách.
C. Sắc ký trao đổi ion.
Sự tách xảy ra do ái lực khác nhau của các ion trong dung dịch đối với các trung
tâm trao đổi ion (nhóm chứa ion) trên chất rắn là pha tĩnh. Chất rắn quan trọng
nhất trong trường hợp này là các nhựa trao đổi ion. Sắc ký trao đổi ion chủ yếu
dùng trong dung môi là nước hoặc hỗn hợp nước - dung môi hữu cơ trong môi
trường có độ điện môi tương đối lớn để các ion có thể tồn tại tự do và bền.
D. Sắc ký rây phân tử.
Trong phương pháp này người ta sử dụng các vật liệu rắn có độ xốp lớn. Có các
lỗ với kích thước nhất định để rây chọn lọc các cấu tử tuỳ theo kích thước và
hình dạng phân tử. Các zeolit tổng hợp có giá trị rất lớn trong sắc ký rây các chất
khí. Có thể dùng các hợp chất vô cơ, hữu cơ, polime tổng hợp để tách các chất

vô cơ và hữu cơ; đặc biệt nhóm polime ưa nước (loại dextran mạng) được dùng
để tách các chất có hoạt tính sinh học.
Ngoài ra còn có các loại sắc ký kết tủa, sắc ký tạo phức, sắc ký oxi hoá-
khử, nhưng chúng ít có giá trị thực tế.
Cuối cùng cần nhấn mạnh rằng, đối với một quá trình sắc ký có một cơ chế chủ
đạo, nhưng có thể xảy ra các cơ chế phụ khác. Ví dụ trong sắc ký hấp phụ có thể
có một phần trao đổi ion (hấp phụ hoá học, tạo phức) hoặc cơ chế phân bố.
1.2.3.3. Phân loại theo cách hình thành sắc đồ.
Cơ sở của phương pháp phân loại này dựa trên cách chuyển dịch tương đối của
pha động so với pha tĩnh. Có thể khai triển sắc đồ theo ba phương pháp: tiền lưu,


9


đẩy và rửa giải. Phương pháp rửa giải quan trọng và phổ biến nhất, sau đó là
phương pháp đẩy, còn phương pháp tiền lưu ít được sử dụng.
A. Phương pháp tiền lưu.
Theo phương pháp này, người ta cho hỗn hợp chất phân tích, ví dụ, dung môi
chứa các cấu tử A, B liên tục đi vào lớp đầu tiên của pha tĩnh (đầu cột) và di
chuyển tới lớp cuối cùng của pha tĩnh (cuối cột). Nếu chất B bị hấp thụ mạnh
hơn chất A thì tuyến dung môi phía trước sẽ nghèo cấu tử B hơn và kết quả là
dung môi đi ra khỏi cột chứa cấu tử A nguyên chất. Cấu tử B sẽ không bị hấp
thụ ở những lớp chất hấp thụ đã bão hoà cấu tử B và chuyển động dọc cột cùng
với cấu tử A. Cuối cùng dung môi chứa hỗn hợp A, B đi ra khỏi cột. Như vậy
phương pháp này cho phép thu được một lượng nào đó A nguyên chất.
B. Phương pháp đẩy.
Nguyên tắc của phương pháp này là đưa một mẫu tương đối nhỏ hỗn hợp chất
phân tích chứa các cấu tử A, B lên lớp đầu của pha tĩnh (lúc này xảy ra quá trình
tiền lưu nhưng rất ít). Sau đó cho dung môi chứa chất E (pha động) đi qua. Điều

kiện quan trọng là chất E bị hấp thụ mạnh hơn A, B. Do đó E đẩy các cấu tử A,
B chuyển động xuống phía dưới. Vì B bị giữ mạnh hơn A cho nên B lại đẩy A
về phía trước. Kết quả ta được các vùng A nguyên chất, B nguyên chất và pha
động chứa E nguyên chất

Hình 1.1. Phương pháp đẩy

Như vậy, khác với phương pháp tiền lưu, nhờ phương pháp đẩy ta có thể
thu được các phân đoạn chứa từng cấu tử nguyên chất.
C. Phương pháp rửa giải.
Trước hết đưa các mẫu nhỏ gồm hỗn hợp các cấu tử A, B vào lớp đầu tiên của
pha tĩnh. Giả sử B bị hấp thụ mạnh hơn A. Sau đó cho pha động chứa cấu tử E
đi qua cột. Điều kiện quan trọng là cấu tử E bị hấp thụ yếu hơn cả. Lúc đó pha
động sẽ rửa A, B với tốc độ khác nhau tuỳ theo mức độ các cấu tử đó bị pha tĩnh
giữ. Vì A bị hấp thụ yếu hơn nên nó dịch chuyển nhanh hơn cùng với pha động.


10


Đó là kết quả của sự chuyển dịch cân bằng hấp thụ-giải hấp thụ giữa các cấu tử
A, B, E. Nếu tốc độ chuyển dịch của A, B đủ khác nhau, thì các vùng A, B
chồng chập nhau lúc đầu dần dần được tách ra và cuối cùng tạo thành hai vùng
riêng biệt và được ngăn cách bởi dung môi nguyên chất (chứa E). Vùng A
chuyển dịch trước vùng B

Hình 1.2. Phương pháp rửa giải

Nếu đường đẳng nhiệt hấp thụ là tuyến tính, thì đường cong biểu diễn sự
biến thiên nồng độ các cấu tử có dạng hình chuông (phân bố Gauss). Nhược

điểm của phương pháp này là dùng lượng lớn dung môi do đó nồng độ chất đi ra
khỏi đầu cột rất loãng.
1.2.3.4. Phân loại theo thiết bị hình thành sắc đồ.
Theo phương pháp phân loại này, tất cả các phương pháp sắc ký được chia thành
hai nhóm: Sắc ký cột và sắc ký phẳng. Trong sắc ký cột (kể cả sắc ký cột mao
quản) quá trình tách hỗn hợp được thực hiện trên các cột hình tròn nạp các chất
hấp thụ thích hợp. Còn trong sắc ký phẳng sự hình thành sắc đồ được tiến hành
trên các lớp phẳng chất hấp thụ (giấy hoặc lớp mỏng).
Cuối cùng cần nói rằng tuyệt đại đa số phương pháp sắc ký đều tiến hành theo
lối động, nghĩa là một pha đứng im và một pha chuyển động; tuy nhiên có một
số trường hợp tách theo lối tĩnh nghĩa là cả hai pha đều đứng im tương đối và
phải khuấy trộn mạnh để cân bằng hấp thụ - giải hấp thụ xảy ra nhanh. Lý thuyết
sắc ký không áp dụng cho lối tĩnh.
1.3. Cơ sở lí thuyết về sắc ký [10, 15]
1.3.1. Các khái niệm cơ bản
. Hệ số phân bố
Một cấu tử A cho tiếp xúc với pha động và pha tĩnh sẽ phân bố giữa
hai pha theo tỷ số nồng độ nhất định, như vậy, nó có hệ số phân bố riêng, nói
một cách khác cân bằng phân bố được thiết lập, có phương trình:

×