Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

đánh giá công nghệ của một số hệ thống xử lý nước thải bệnh viện ở hà nội và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.96 MB, 94 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




Võ Thị Minh Anh








ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ CỦA MỘT SỐ HỆ THỐNG
XỬ LÝ NƯỚC THẢI BỆNH VIỆN Ở HÀ NỘI VÀ
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC











Hà Nội - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




Võ Thị Minh Anh




ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ CỦA MỘT SỐ HỆ THỐNG
XỬ LÝ NƯỚC THẢI BỆNH VIỆN Ở HÀ NỘI VÀ
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ


Chuyên ngành: Khoa học môi trường

Mã số: 608502



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN THỊ HỒNG







Hà Nội - 2012
Luận văn thạc sỹ cao học
i

LỜI CẢM ƠN

Sau thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Trần Thị Hồng là giáo viên hướng dẫn chính
và PGS.TS Nguyễn Thị Hà, cán bộ Khoa Môi trường đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô trong Khoa Môi
trường – Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung
và Bộ môn Công nghệ Môi trường nói riêng đã giảng dạy và trang bị cho tôi những
kiến thức quý giá trong suốt khóa học.
Trong quá trình nghiên cứu của mình, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ
chia sẻ kinh nghiệm của các anh chị đồng nghiệp Viện Y học lao động và Vệ sinh
môi trường. Tôi cũng nhận được nhiều sự hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi, hợp tác
của cán bộ, nhân viên các bệnh viện, đặc biệt là bệnh viện Phụ sản Hà Nội và bệnh
viện Việt Đức.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè về sự chia sẻ, động

viên, khuyến khích trong suốt quá trình nghiên cứu của mình.
Cuối cùng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Hội đồng khoa học đã giúp đỡ tôi
bảo vệ thành công luận văn này.



Võ Thị Minh Anh


Luận văn thạc sỹ cao học
ii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN i
MỤC LỤC ii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ CÁI VIẾT TẮT iv
DANH MỤC CÁC BẢNG v
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ vi
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN 3
1.1. Nước thải bệnh viện 3
1.1.1. Nguồn gây ô nhiễm nước thải bệnh viện 3
1.1.2. Tải lượng nước thải 4
1.1.3. Đặc điểm ô nhiễm nước thải bệnh viện 7
1.2. Xử lý nước thải bệnh viện 12
1.2.1. Hệ thống thu gom, thoát nước thải 12
1.2.2. Hệ thống xử lý nước thải 13
1.2.3. Phương pháp xử lý nước thải 16
1.2.3.1. Một số phương pháp xử lý nước thải bệnh viện trên thế giới 16

1.2.3.2. Một số phương pháp xử lý nước thải bệnh viện áp dụng ở Việt Nam 18
1.3. Đánh giá công nghệ áp dụng trong xử lý nước thải 26
1.3.1. Tổng quan chung về đánh giá công nghệ môi trường 26
1.3.2. Hiện trạng đánh giá công nghệ môi trường trên thế giới và Việt Nam 28
1.3.3. Nội dung đánh giá công nghệ môi trường 30
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32
2.1. Đối tượng nghiên cứu 32
2.2. Phương pháp nghiên cứu 33
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 36
3.1. Kết quả điều tra khảo sát hiện trạng hệ thống xử lý thải bệnh viện 36
Luận văn thạc sỹ cao học
iii

3.2. Công nghệ xử lý nước thải của bệnh viện Phụ sản Hà Nội và bệnh viện
Việt Đức 39
3.2.1. Hiện trạng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện 39
3.2.2. Hệ thống xử lý nước thải bệnh viện 41
3.2.3. Đánh giá công nghệ của hệ thống xử lý nước thải bệnh viện 45
3.2.3.1. Các tiêu chí về kỹ thuật 45
3.2.3.2. Các tiêu chí về kinh tế 52
3.2.3.3. Các tiêu chí về môi trường 60
3.2.3.4. Các tiêu chí về xã hội 61
3.2.3.5. Lượng hóa các tiêu chí đánh giá 62
3.3. Một số đề xuất nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống xử lý nước thải
65
3.4. Kết quả áp dụng giải pháp đề xuất tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội 69
KẾT LUẬN 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
PHỤ LỤC 80


Luận văn thạc sỹ cao học
iv

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BOD
Nhu cầu ôxy sinh học
COD
Nhu cầu ôxy hoá học
ĐTV
Động thực vật
HTXL
Hệ thống xử lý
KPH
Không phát hiện
PHT
Phát hiện thấy
QCVN
Quy chuẩn Việt Nam
SMEWW
Các phương pháp tiêu chuẩn xác định nước và nước thải
SS
Chất rắn lơ lửng
TCCP
Tiêu chuẩn cho phép
Luận văn thạc sỹ cao học
v

DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 1.1. Tiêu chuẩn cấp nước cho bệnh viện theo TCXDVN 4470 - 87 5
Bảng 1.2. Nhu cầu tiêu thụ nước tính trên một giường bệnh 6
Bảng 1.3. Lưu lượng nước thải các bệnh viện 6
Bảng 1.4. Các thông số ô nhiễm trong nước thải bệnh viện 9
Bảng 1.5. Lợi ích từ việc đánh giá công nghệ môi trường 27
Bảng 1.6. Tiêu chí đánh giá công nghệ môi trường phù hợp với Việt Nam 31
Bảng 2.1. Thông tin tổ chức hành chính 33
Bảng 3.1. Thông tin chung về bệnh viện và hệ thống xử lý nước thải 36
Bảng 3.2. Đặc điểm các hệ thống xử lý nước thải bệnh viện khảo sát 38
Bảng 3.3. Kết quả phân tích nước thải bệnh viện Phụ sản Hà Nội. 45
Bảng 3.4. Kết quả phân tích nước thải bệnh viện Việt Đức 47
Bảng 3.5. So sánh hiệu quả xử lý của hai hệ thống xử lý nước thải 49
Bảng 3.6. Chi phí điện năng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Phụ sản Hà Nội 52
Bảng 3.7. Chi phí hóa chất hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Phụ sản Hà Nội 53
Bảng 3.8. Chi phí nhân công hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Phụ sản Hà Nội . 54
Bảng 3.9. Chi phí điện năng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Việt Đức 55
Bảng 3.10. Chi phí hóa chất hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Việt Đức 56
Bảng 3.11. Chi phí nhân công cho hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Việt Đức 57
Bảng 3.12. Tổng hợp đánh giá chỉ tiêu kinh tế của hệ thống xử lý nước thải 58
Bảng 3.13. Đánh giá các ô nhiễm thứ cấp của hệ thống xử lý nước thải 60
Bảng 3.14. Lượng hóa các tiêu chí đánh giá tính phù hợp của hệ thống xử lý nước
thải 62
Bảng 3.15. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý nước thải 68
Bảng 3.16. Kết quả phân tích nước thải sau bổ sung chế phẩm vi sinh lần 1 70
Bảng 3.17. Kết quả phân tích nước thải sau bổ sung chế phẩm vi sinh lần 2 71
Bảng 3.18. So sánh hiệu quả xử lý trước và sau khi bổ sung chế phẩm vi sinh 72
Luận văn thạc sỹ cao học
vi

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ


Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống xử lý nước thải bệnh viện 13
Hình 1.2. Ao sinh học tại bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí 19
Hình 1.3. Hệ thống xử lý nước thải tại các bệnh viện C Thái Nguyên và bệnh viện
Tâm thần kinh Hưng Yên 21
Hình 1.4. Các bước xử lý nước thải của DEWATS 22
Hình 1.5. Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải theo nguyên lý hợp khối 23
Hình 1.6. Giá thể bám dính làm bằng vật liệu PVC 25
Hình 1.7. Hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Thanh Nhàn và bệnh viện Hữu Nghị . 25
Hình 3.1. Sơ đồ hệ thống xử lý nước thải của bệnh viện Phụ sản Hà Nội 41
Hình 3.2. Sơ đồ hệ thống xử lý nước thải của bệnh viện Việt Đức 43
Hình 3.3. Nồng độ các chỉ số ô nhiễm trong nước thải bệnh viện Phụ sản Hà Nội . 46
Hình 3.4. Nồng độ chỉ số ô nhiễm trong nước thải bệnh viện Việt Đức 48
Hình 3.5. So sánh hiệu suất xử lý của hai hệ thống xử lý 50
Luận văn thạc sỹ cao học
1

MỞ ĐẦU
Tính đến nay, cả nước có 13.640 cơ sở y tế các loại trong đó có 1.263 cơ sở
khám chữa bệnh thuộc các tuyến Trung ương, tỉnh, huyện, bệnh viện ngành và bệnh
viện tư nhân. Hệ thống các cơ sở y tế, bệnh viện ở Việt Nam đang từng bước góp
phần nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân trên khắp đất
nước. Bên cạnh những mặt tích cực mà các cơ sở y tế đem lại thì quá trình hoạt
động của các cơ sở này cũng xuất hiện những nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, số
lượng bệnh viện tăng đồng nghĩa với việc thải vào môi trường một lượng lớn các
chất thải y tế nguy hại và sinh hoạt. Ước tính, lượng chất thải lỏng phát sinh tại các
cơ sở y tế có giường bệnh hiện nay khoảng trên 150.000 m
3
/ngày đêm chưa kể
lượng nước thải của các cơ sở y tế thuộc hệ dự phòng, các cơ sở đào tạo y dược và

sản xuất thuốc. Dự kiến đến năm 2015 lượng nước thải y tế phải xử lý lên tới trên
300.000 m
3
/ngày đêm [1].
Chất thải lỏng y tế trong đó có nước thải bệnh viện phát sinh từ rất nhiều
nguồn khác nhau trong quá trình hoạt động của bệnh viện như: máu, dịch cơ thể,
giặt quần áo bệnh nhân, khăn lau, chăn màn cho các giường bệnh, súc rửa các vật
dụng y khoa, xét nghiệm, giải phẫu, sản nhi, vệ sinh, lau chùi làm sạch các phòng
bệnh… Đặc điểm của các loại nước thải này là chứa nhiều tạp chất, chất hữu cơ,
chất dinh dưỡng và đặc biệt là các vi trùng gây bệnh. Loại nước thải này nhất thiết
phải được xử lý và khử trùng trước khi thải vào môi trường.
Theo số liệu thống kê cho thấy có 809 bệnh viện cần được xây dựng và trang
bị mới hoặc sửa chữa nâng cấp hệ thống xử lý nước thải, trong đó khoảng gần 603
bệnh viện chưa có hệ thống xử lý nước thải (chủ yếu là ở tuyến huyện và tỉnh). Hiện
có khoảng 44% các bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải y tế (76,5% các bệnh
viện tuyến Trung ương; 53% các bệnh viện tuyến tỉnh và 37% các bệnh viện tuyến
huyện) [1]. Tuy vậy, hệ thống xử lý nước thải của nhiều bệnh viện được thiết kế đã
lâu, công nghệ xử lý chưa đảm bảo được tiêu chuẩn môi trường, nay đã xuống cấp,
cần được sửa chữa, nâng cấp cho phù hợp với qui mô phát triển, nhu cầu chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân và đảm bảo quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
Luận văn thạc sỹ cao học
2

trường. Bên cạnh đó, lượng bệnh nhân và số giường bệnh ngày một gia tăng do tốc
độ tăng dân số hay do một số bệnh viện, cơ sở y tế nâng công suất phục vụ đáp ứng
nhu cầu khám chữa bệnh dẫn đến lượng nước thải rác thải tăng theo, lượng nước
thải tại một số bệnh viện đã vượt công suất thiết kế của hệ thống xử lý. Điều này
gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nước thải sau xử lý. Do đó, việc tiến hành
nghiên cứu, đánh giá hiệu suất xử lý, công nghệ phù hợp xử lý nước thải bệnh viện
là công việc hết sức cần thiết.

Chính vì vậy, để đóng góp vào hướng nghiên cứu này và đưa ra các giải pháp
thích hợp quản lý chất thải bệnh viện nói chung, nước thải bệnh viện nói riêng nhằm
góp phần bảo vệ sức khoẻ nhân viên y tế, cộng đồng dân cư và hạn chế đến mức
thấp nhất các tác động gây ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng môi trường, chúng tôi
đã lựa chọn đề tài: “Đánh giá công nghệ của một số hệ thống xử lý nước thải bệnh
viện ở Hà Nội và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả” với mục tiêu đánh giá hiệu
quả xử lý nước thải y tế của hệ thống xử lý nước thải tại một số bệnh viện ở Hà Nội
làm cơ sở đề xuất giải pháp tăng hiệu quả hoạt động của hệ thống.
Luận văn nghiên cứu tập trung vào các nội dung sau:
Tổng quan tài liệu về nước thải bệnh viện, các phương pháp xử lý, đánh giá
công nghệ môi trường.
Điều tra khảo sát hiện trạng hệ thống xử lý nước thải tại 10 bệnh viện ở Hà
Nội.
Nghiên cứu đánh giá công nghệ xử lý nước thải bệnh viện tại bệnh viện Phụ
sản Hà Nội và bệnh viện Việt Đức.
Đề xuất giải pháp tăng hiệu quả hoạt động cho hệ thống xử lý nước thải và
áp dụng thử nghiệm đề xuất tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Đánh giá thử nghiệm đề
xuất.
Luận văn thạc sỹ cao học
3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Nước thải bệnh viện
1.1.1. Nguồn gây ô nhiễm nước thải bệnh viện
Nước thải bệnh viện là một dạng của nước thải sinh hoạt và chỉ chiếm một
phần nhỏ trong tổng số lượng nước thải sinh hoạt của khu dân cư. Tuy nhiên nước
thải bệnh viện cực kỳ nguy hiểm về phương diện vệ sinh dịch tễ, bởi vì ở các bệnh
viện tập trung những người mắc bệnh là nguồn của nhiều loại mầm bệnh đã biết
hoặc đôi khi còn chưa biết đối với khoa học hiện đại [12].
Nước thải bệnh viện xuất phát từ các thiết bị vệ sinh và sử dụng nước trong

các khu nhà vệ sinh, nhà tắm giặt giũ chăn màn, quần áo, lau rửa sàn nhà, chuẩn bị
thức ăn, rửa bát đĩa, chai lọ, chuẩn bị và điều chế thuốc men, chuồng trại nuôi súc
vật nghiên cứu…Phần lớn các loại nước thải này có hàm lượng chất hữu cơ và cặn
lơ lửng cao, chứa nhiều vi khuẩn gây bệnh. Trong một số bộ phận khám bệnh và
điều trị bằng phương pháp vật lý như X-quang, chiếu xạ… có thể hình thành một
lượng nhỏ nước thải chứa các chất ô nhiễm phóng xạ đặc trưng. Nhìn chung nước
thải bệnh viện phát sinh từ những nguồn chính sau [17].
1. Nước thải là nước mưa chảy tràn trên toàn bộ diện tích của bệnh viện.
2. Nước thải sinh hoạt từ khu nhà bếp, nhà ăn, khu hành chính bệnh viện, phòng
bệnh nhân, chứa nhiều chất hữu cơ dễ phân huỷ, các hoá chất tẩy rửa,
3. Nước thải từ các hoạt động khám và điều trị như:
- Nước thải có nguồn gốc từ các ca phẫu thuật, từ quá trình xét nghiệm, hoạt
động khám chữa bệnh (giải phẫu bệnh, huyết học, truyền máu, lau rửa sau
các ca mổ, khoa lây) chứa các dịch sinh học, vi trùng gây bệnh, chất thải
nguy hại.
- Nước thải từ phòng chiếu chụp X quang, kho dược liệu và hóa chất chứa
các hoá chất (trong đó có các hoá chất độc hại), kim loại nặng, dung môi
hữu cơ, hoá chất xét nghiệm, các hợp chất vô cơ, chất phóng xạ, dược
phẩm quá hạn sử dụng.
4. Nước giặt giũ quần áo, ga, chăn màn… cho bệnh nhân.
Luận văn thạc sỹ cao học
4

5. Nước từ các công trình phụ trợ khác.
Nước thải bệnh viện là một nguồn thải gây nguy hại nghiêm trọng cho môi
trường, ảnh hưởng đến con người vì khả năng lan rộng trong môi trường, mức độ
nhiễm khuẩn cao, khả năng tồn tại lâu và nhân lên của vi khuẩn gây bệnh trong điều
kiện giàu chất hữu cơ ở nước thải và nước bề mặt. Nước thải bệnh viện có thể mang
các mầm bệnh: tả, thương hàn, lỵ, lỵ amip, leptospyros, bệnh vàng da nhiễm trùng,
viêm gan siêu vi trùng, giun sán, nấm mốc, bại liệt

Theo nghiên cứu của Đào Ngọc Phong và cộng sự cho thấy: nước thải bệnh
viện làm ô nhiễm các nguồn nước bề mặt như nước sông, nước ao, đầm, hồ giếng
khơi (84,5-86,3%), gây ô nhiễm đất (88,4%). Nước thải bệnh viện gây ô nhiễm môi
trường và gieo rắc mầm bệnh: số bệnh nhân ở khu dân cư dọc theo hai tuyến sông
thoát nước thường cao hơn, đặc biệt là bệnh đường tiêu hoá.
1.1.2. Tải lượng nước thải
Quy phạm thiết kế cho các hệ thống cấp thoát nước bên trong các khu nhà và
công trình của nhiều nước như CHLB Đức, Nga, Mỹ cho thấy tiêu chuẩn cấp
nước cho các nhà an dưỡng là 200-500L/người/ngày; cho bệnh viện và các cơ sở
điều trị, chữa bệnh là 500-1000L/giường bệnh/ngày. Qua khảo sát ở nhiều bệnh
viện thông thường ở Nga, Séc, Xlovakia, Bungari tiêu chuẩn nước cấp là 500
L/ngày cho một giường bệnh. Theo Metcalf & Eddy thì tiêu chuẩn thải của bệnh
viện là 473 - 908 l/ngày cho 1 giường bệnh (trị số tiêu biểu là 625L/ngày) cho một
giường bệnh [36]. Thực tế hoạt động của các bệnh viện cho thấy lượng nước cấp
thường cao hơn tiêu chuẩn thiết kế. Theo Sirogin G. G đối với bệnh viện lớn (trên
1.000 giường bệnh) với tiêu chuẩn cấp nước 500L/giường.ngày, lượng nước tạo
thành từ các bộ phận như sau:
Điều trị, chữa bệnh, lau rửa sàn nhà: 250L.
Tắm rửa của bệnh nhân: 100L.
Chuẩn bị thức ăn: 25L.
Giặt giũ chăn màn: 50L.
Nước sinh hoạt của bác sĩ và nhân viên: 25L.
Luận văn thạc sỹ cao học
5

Các nhu cầu khác (10% tiêu chuẩn): 50L.
Ở Việt Nam, nước cấp cho các bệnh viện được tuân theo tiêu chuẩn xây dựng
Việt Nam TCXDVN 4470-87 được nêu trong bảng dưới đây.
Bảng 1.1. Tiêu chuẩn cấp nước cho bệnh viện theo TCXDVN 4470 - 87
Loại yêu cầu sử dụng nước

Đơn vị
Nước tiêu thụ
Nước nóng ở
65
0
C
Bệnh viện không có khoa điều trị
bằng nước:






- Hệ thống cấp nước không hoàn
chỉnh, tại chỗ
L/giường.ngày
> 100
>20
- Hệ thống cấp nước hoàn chỉnh
L/giường.ngày
300-400
> 60
Khoa điều trị bằng nước
L/lần điều trị

400
Nhà khám
L/lần khám
10-15

2-3
Tưới rửa buồng
L/m
2

1,5-2,0

Thực tế hiện nay, lượng nước sử dụng ở các bệnh viện nước ta rất lớn, cao hơn
tiêu chuẩn cấp nước rất nhiều. Các nghiên cứu đều cho thấy lưu lượng nước thải các
bệnh viện vượt quá công suất thiết kế nhiều lần.
Phần lớn lượng nước thải sau sử dụng đều xả vào hệ thống thoát nước. Lượng
nước thực tế thải ra tính cho một giường bệnh tính trong một ngày đêm vượt tiêu
chuẩn của các nước Đức, Nga, Mỹ và lớn hơn rất nhiều so với các quy định hiện
hành của Tiêu chuẩn Việt Nam. Do đặc điểm chữa bệnh và nghiên cứu khác nhau,
tiêu chuẩn cấp nước của các bệnh viện là rất khác nhau. Nhìn chung đối với các
bệnh viện đa khoa cấp tỉnh tiêu chuẩn cấp nước ở mức 600-800L/giường bệnh.ngày.
Đối với các bệnh viện chuyên khoa hoặc các bệnh viện trung ương, lượng nước sử
dụng tương đối cao (đến 1000L/giường/ngày) do nước sử dụng cho các mục đích
nghiên cứu đào tạo. Tại các bệnh viên chuyên khoa, tỷ lệ số bác sỹ và nhân viên
phục vụ trên một giường bệnh tương đối cao (từ 1,2-1,4). Số bệnh nhân điều trị nội
trú cũng lớn hơn số giường bệnh theo thiết kế rất nhiều…Một trong những nguyên
nhân làm cho lượng nước thải tăng là tổn thất do thiếu ý thức của người nhà bệnh
Luận văn thạc sỹ cao học
6

nhân khi sử dụng khu vệ sinh hoặc vòi nước công cộng…Một số nghiên cứu đã đưa
ra mức độ sử dụng nước tại một số bệnh viện đa khoa ở nước ta như sau:
Bảng 1.2. Nhu cầu tiêu thụ nước tính trên một giường bệnh
Đối tượng
Số lượng

(Người/ngày)
Nhu cầu tiêu thụ nước
(L/ngày đêm/người)
Số bệnh nhân (giường bệnh)
N
300 - 350
Số cán bộ công nhân viên
(0,80-1,1) N
100-150
Người nhà bệnh nhân
(0,9 -1,3) N
50-70
Sinh viên thực tập, khách vãng lai
(0,7-1) N
20-30
Tổng số nước dùng thực tế
(3,4 - 4,4) N
470-600
Nguồn: [11]
Ở Việt Nam, lưu lượng nước thải của bệnh viện đa khoa được xác định như
trong bảng sau.
Bảng 1.3. Lưu lượng nước thải các bệnh viện
TT
Quy mô bệnh viện
(Số giường bệnh)
Tiêu chuẩn dùng nước
(L/giường/ngày)
Lượng nước thải
(m
3

/ngày)
1
<100
700
70
2
100 – 300
700
100 – 200
3
300 – 500
600
200 – 300
4
500 – 700
600
300 – 400
5
> 700
600
> 400
6
BV kết hợp nghiên cứu và
đào tạo > 700
1000
> 500
Nguồn: [11]
Theo Trung tâm Kỹ thuật Môi trường Đô thị và Khu công nghiệp – Trường
Đại học Xây dựng chỉ tính ở Hà Nội tổng lượng nước thải các bệnh viện là khoảng
6000m

3
/ngày đêm [6].
Luận văn thạc sỹ cao học
7

Lưu lượng thải của các bệnh viện trước hết phụ thuộc vào số giường bệnh,
điều kiện cấp nước, mức độ hiện đại của bệnh viện, số lượng thân nhân của người
bệnh kèm theo và mùa (nóng, lạnh, thời điểm bùng phát dịch bệnh). Nước thải bệnh
viện được xả thải không ổn định theo thời gian trong ngày và trong tuần. Thông
thường lượng nước sử dụng lớn nhất vào đầu buổi sáng, khi bắt đầu ngày làm việc
và thực hiện quá trình khám bệnh. Lưu lượng thải trong ngày tập trung vào ban
ngày cho tới 8 – 9 giờ tối. Vào đêm và sáng sớm lưu lượng thải thấp. Các số liệu
điều tra khảo sát cho thấy, hệ số không điều hoà K
ch
phụ thuộc quy mô bệnh viện
(tính theo số giường và nhân viên phục vụ) và dao động trong khoảng 1,6-2,5 [7].
Lượng nước thải của bệnh viện trong một ngày là chỉ tiêu để tính toán hệ
thống thoát nước và lựa chọn sơ đồ công nghệ xử lý nước thải bệnh viện.
1.1.3. Đặc điểm ô nhiễm nước thải bệnh viện
Nhìn chung nước thải bệnh viện có thành phần và tính chất gần giống nước
thải sinh hoạt đô thị, tuy nhiên có chứa một số thành phần ô nhiễm đặc trưng. Theo
nhiều nghiên cứu, trong nước thải bệnh viện còn chứa các chế phẩm thuốc, các chất
khử trùng, chất tẩy rửa các đồng vị phóng xạ được sử dụng trong quá trình chẩn
đoán và điều trị bệnh…Sự có mặt của các chất này ảnh hưởng bất lợi cho quá trình
xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học và cản trở các qúa trình sinh hoá khác
diễn ra trong nước dẫn đến việc giảm hiệu quả làm sạch nước thải trên các công
trình xử lý. Ví dụ người ta quan sát thấy việc giảm hiệu quả xử lý nước thải bệnh
viện bằng biophin nhỏ giọt khi trong nước thải chứa chất kháng sinh streptomixin ở
nồng độ 0,7 – 1 g/l mà thực tế trong những trường hợp riêng biệt nồng độ
streptomixin có thể đến 12 g/l. Như vậy hiệu quả xử lý nước thải giảm đáng kể theo

các chỉ tiêu hoá học, đặc biệt là các chỉ tiêu vi khuẩn. Khi nồng độ streptomixin là
12 g/l hiệu quả xử lý thực tế bằng không.
Việc sử dụng rộng rãi các chất tẩy rửa ở xưởng giặt là của bệnh viện cũng tạo
nguy cơ thực tế làm xấu đi mức độ hoạt động của công trình xử lý. Kết quả nghiên
cứu cho thấy hàm lượng chất hoạt động bề mặt trong nước thải làm giảm đi khả
năng tạo huyền phù trong bể lắng và đa số vi khuẩn tụ tập lại trong bọt. Những chất
Luận văn thạc sỹ cao học
8

tẩy rửa riêng biệt ảnh hưởng đến quá trình làm sạch sinh học nước thải: chất tẩy rửa
anion tăng lượng bùn hoạt tính, cation lại làm giảm đi [12].
Lượng chất bẩn từ một giường bệnh trong ngày lớn hơn so với lượng chất bẩn
từ một người của khu dân cư thải vào hệ thống thoát nước là do việc hoà vào dòng
thải không chỉ chất thải từ người bệnh mà còn của bộ phận phục vụ, chất thải của
quá trình điều trị, phần thuốc còn lại, máu, các phần cơ quan cơ thể người, hoạt
động của nhà giặt, nhà xác
Những nghiên cứu cho thấy nồng độ chất bẩn phụ thuộc cả vào nguồn nước sử
dụng từ hệ thống đường ống cấp nước do nhà máy cung cấp hay từ hệ thống giếng
khoan cục bộ. Trong trường hợp thứ hai hiển nhiên là nồng độ chất bẩn trong nước
thải lớn hơn.
Tuy rằng lượng chất bẩn trên một giường bệnh lớn hơn lượng chất bẩn trên
một đầu người khu dân cư, nhưng nồng độ chất bẩn trong một lít nước thải bệnh
viện lại nhỏ hơn nồng độ chất bẩn trong một lít nước thải sinh hoạt. Đó là do tiêu
chuẩn nước cấp thực tế sử dụng trên một giường bệnh (500 l/ngày) lớn hơn nhiều so
với tiêu chuẩn nước cấp cho sinh hoạt trên một đầu người (ví dụ 100 hay tối đa 300
l/ngày) [12].
Như vậy nước thải bệnh viện khác nước thải sinh hoạt bởi lượng chất bẩn gây
ô nhiễm tính trên một giường bệnh lớn hơn 2 – 3 lần lượng chất bẩn gây ô nhiễm
tính trên một đầu người. Ở cùng một tiêu chuẩn sử dụng nước thì nước thải bệnh
viện đặc hơn nước thải sinh hoạt, đồng nghĩa là nồng độ chất bẩn cao hơn nhiều.

Nghiên cứu thành phần nước thải một số bệnh viện ở XanhPecbua (Nga) cho
thấy nồng độ dao động trong các giới hạn sau COD 102 – 141 mg/L, SS 180-
343mg/L, amoni (N) 23-63,1mg/L, chỉ số coli 55x10
7
. Hay những số liệu ở các
nước Sec và Xlôvakia cho thấy sự dao động của thành phần nước thải bệnh viện
COD 106-350 mg/, BOD
5
147-582 mg/L, các chất lơ lửng 575-978 mg/L [12].
Theo Gray (2004) các chỉ tiêu hoá lý thường được dùng để đánh giá ô nhiễm
của nước thải là nhu cầu oxy sinh hoá (BOD), nhu cầu oxy hoá học (COD), chất rắn
lơ lửng (SS), và amoni vì từ những chỉ tiêu cơ bản này có thể đánh giá được mức độ
Luận văn thạc sỹ cao học
9

ô nhiễm nhiều hay ít. Trong một số trường hợp đặc biệt người ta đo thêm chỉ tiêu
tổng phôt pho và tổng ni tơ [30].
Theo Lương Đức Phẩm (2009) các thông số cơ bản để đánh giá chất lượng
nước thải là: độ pH, màu sắc, độ đục, hàm lượng các chất lơ lửng (huyền phù), oxy
hoà tan v.v và đặc biệt là hai chỉ số COD và BOD [13].
Nghiên cứu của TS Ngô Kim Chi, nước thải bệnh viện có các chỉ số đặc
trưng BOD 180-280mg/L, COD 250-500mg/L, hàm lượng chất rắn lơ lửng SS 150-
300mg/L, H
2
S 6-8mg/L, T-N 50-90mg/L, T-P 3-12 mg/L, Coliforms 10
6
-10
9
MPN/100mL [5].
Trong báo cáo đánh giá hiện trạng chất lượng nước thải bệnh viện về hóa lý

và hiệu quả xử lý nước thải trong các bệnh viện của Trần Quang Toàn và cộng sự
(2005), nước thải bệnh viện các thông số ô nhiễm như sau: BOD 137mg/L; COD
190,1mg/L; DO 1,56mg/L; tổng Nitơ 18,14mg/L [18].
Qua khảo sát thực tế nhiều bệnh viện trong nhiều năm, TS Nguyễn Xuân
Nguyên đưa ra thành phần ô nhiễm nước thải thường ở trong mức sau [11]:
Bảng 1.4. Các thông số ô nhiễm trong nước thải bệnh viện
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Nồng độ
thấp nhất
Nồng độ
cao nhất
Nồng độ
trung bình
1
pH
-
6,2
8,1
7,4
2
Amoni
mg/L
8
25
14
3
BOD
5


mg/L
110
250
150
4
COD
mg/L
140
300
200
5
Chất rắn lơ lửng
mg/L
100
220
160
6
Coliform
MPN/100ml
10
6

10
9
10
7
Nước thải bệnh viện chứa nhiều thành phần khác nhau. Các chất ô nhiễm có
thể là các chất hữu cơ, các chất vô cơ, các chất độc hóa học, các vi trùng, vi khuẩn
gây bệnh và các tác nhân vật lý khác. Các chất dinh dưỡng của N, P gây ra hiện

tượng phú dưỡng nguồn tiếp nhận dòng thải, ảnh hưởng tới vi sinh vật sống trong
môi trường thủy sinh; các chất rắn lơ lửng gây ra độ đục của nước, tạo ra sự lắng
Luận văn thạc sỹ cao học
10

đọng cặn làm tắc nghẽn cống và đường ống, máng dẫn. Các chất hữu cơ có trong
nước thải đa phần là những chất dễ phân hủy sinh học. Hàm lượng các chất hữu cơ
dễ bị phân hủy được xác định một cách gián tiếp thông qua nhu cầu oxy sinh hóa
(BOD) của nước thải. Thông thường người ta lấy giá trị BOD
5
để đánh giá độ
nhiễm bẩn chất hữu cơ có trong nước thải. Sự có mặt của các chất hữu cơ là nguyên
nhân chính gây ra sự giảm lượng oxy hòa tan trong nước, ảnh hưởng tới đời sống
động, thực vật thủy sinh.
Nước thải ô nhiễm được thải trực tiếp ra môi trường làm cho môi trường
không khí xung quanh cũng bị ảnh hưởng. Nước thải có hàm lượng hữu cơ cao và
nhiều hợp chất hoá học hữu cơ, vô cơ khác có trong các loại thuốc điều trị được thải
trực tiếp vào môi trường, những chất thải như máu, dịch, nước tiểu có hàm lượng
hữu cơ cao, phân hủy nhanh, nếu không được xử lý đúng mức thì khi tiếp xúc với
không khí và bị các yếu tố môi trường (nắng, gió, độ ẩm…) tác động sẽ gây ra mùi
hôi thối rất khó chịu, làm ô nhiễm không khí trong các khu dân cư.
Ngoài ra, nước thải bệnh viện vốn được liệt vào danh mục chất thải đặc biệt
nguy hại bởi ngoài các loại vi trùng từ máu, dịch đờm, phân của người bệnh, vi
khuẩn, vi rút, động vật nguyên sinh gây bệnh, trứng giun đặc biệt nhiều nếu bệnh
viện có khoa truyền nhiễm. Còn nguy hiểm hơn về phương diện dịch tễ là nước thải
của những bệnh viện truyền nhiễm, lao và các cơ sở lây nhiễm khác. Tương tự, đối
với các bệnh viện điều trị hoặc có khoa điều trị ung thư, trong nước thải có chứa các
chất phóng xạ, các loại hóa chất điều trị ung thư và các sản phẩm chuyển hóa phát
sinh trong quá trình chẩn đoán điều trị. Sau khi hòa vào hệ thống nước thải sinh
hoạt, những mầm bệnh này lan tỏa khắp nơi, xâm nhập vào các loại thủy sản, vật

nuôi, cây trồng, nhất là rau thủy canh và trở lại với con người. Việc tiếp xúc gần với
nguồn ô nhiễm còn làm tăng nguy cơ ung thư và các bệnh hiểm nghèo khác cho
cộng đồng dân cư.
Theo phân loại của Tổ chức Môi trường thế giới, nước thải bệnh viện gây ô
nhiễm mạnh có chỉ số chất rắn lơ lửng là 350mg/L; tổng lượng các bon hữu cơ
Luận văn thạc sỹ cao học
11

290mg/L; tổng phốt pho (tính theo P) là 15mg/L và tổng nitơ 85mg/L; coliform từ
108-109 MPN/100mL [39].
Ở nước ta, tiêu chuẩn nước thải bệnh viện sau xử lý phải đáp ứng QCVN
28:2010/BTNMT, cột B, mới được phép đổ vào cống thải chung của khu dân cư.
Điểm đặc thù của thành phần nước thải bệnh viện làm cho nó khác với nước
thải sinh hoạt khu dân cư là có thể gây ra sự lan truyền rất mạnh của các vi khuẩn
gây bệnh. Về phương diện này đặc biệt nguy hiểm là những bệnh viện truyền nhiễm
và bệnh viện lao hay những khoa lây của các bệnh viện đa khoa.
Ở khu dân cư số lượng những người mang mầm bệnh thường khoảng 1 – 2%
dân số [42]. Ở bệnh viện con số này tăng lên 10 - 20 lần, thậm chí ở bệnh viện
truyền nhiễm có đến 90 - 100% bệnh nhân mang mầm bệnh. Vì thế sẽ rất nguy hiểm
nếu nước thải bệnh viện không được xử lý triệt để mầm bệnh trước khi thải vào hệ
thống thoát nước công cộng.
Nước thải nhiễm các vi khuẩn gây bệnh có thể dẫn đến dịch bệnh cho người
và động vật qua nguồn nước, qua các loại rau được tưới bằng nước thải. Các bệnh
truyền nhiễm này là bệnh tả, thương hàn, phó thương hàn, lỵ, bệnh do Leptospira,
lao, do amip, bệnh do virut đường tiêu hoá, giun sán
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) [43], nói chung, khả năng gây bệnh từ
các bệnh viện đa khoa là tương tự với nước thải bình thường vì nước thải bệnh viện
được pha loãng nhiều, do yêu cầu về vệ sinh bệnh viện tiêu thụ một lượng nước rất
lớn. Tuy nhiên sự có mặt của các vi khuẩn gây bệnh trong nước thải bệnh viện là rất
phổ biến. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm nước thải bệnh viện Bôtkin thường

xuyên phát hiện thấy vi khuẩn phó thương hàn Salmonelle paratyphi B, trực khuẩn
lỵ [16].
Lai và Tsai nghiên cứu nước thải của 48 bệnh viện ở Đài Loan cho kết quả:
14,6% Shigella spp và 33,3% Salmonella spp [33].
Nước thải bệnh viện luôn có nguy cơ tiềm tàng: tất cả các vi khuẩn gây bệnh
có thể tìm thâý trong nước thải: vi khuẩn tả (Vibrio cholerae), lỵ (Shigella), thương
Luận văn thạc sỹ cao học
12

hàn (Salmonella) E.coli, Pseudomonas, Streptococcus, Staphylococcus đặc biệt
các chủng này thường là kháng với nhiều loại kháng sinh [16].
Số lượng vi sinh gây bệnh trong nước thải thường thấp hơn nhiều so với loại
không gây bệnh. Để phát hiện các loài vi sinh gây bệnh trong nước thải rất phức tạp
và tốn nhiều thời gian. Do đó không thể xét nghiệm tất cả các mẫu nước để kiểm tra
có hay không có tất cả các vi sinh gây bệnh được. Vì vậy người ta phải chọn kỹ
thuật đơn giản nhưng vẫn phát hiện được sự ô nhiễm của nước. Điều này dẫn tới
việc sử dụng các chỉ điểm vi sinh để xác định sự ô nhiễm [35].
1.2. Xử lý nước thải bệnh viện
1.2.1. Hệ thống thu gom, thoát nước thải
Thu gom nước thải là mắt xích rất quan trọng trong việc quản lý và xử lý
nước thải bệnh viện. Nếu thu gom nước thải tốt sẽ tách được lượng nước thải không
cần xử lý hay chỉ xử lý thông thường với lượng nước thải phải xử lý đặc biệt. Như
vậy sẽ làm giảm chi phí cho xử lý nước thải, tăng độ bền của công trình do hệ thống
không phải làm việc quá tải. Nguyên tắc chung thu gom nước thải bệnh viện là:
Tách lượng nước mưa chảy tràn vào hệ thống thu riêng, phù hợp cả về bố trí
hệ thống máng, rãnh, cống và bể điều hoà.
Tách lượng nước sinh hoạt thông thường như nước nấu ăn và chế biến thực
phẩm, nước thải khu hành chính, văn phòng
Thu gom triệt để lượng nước thải từ hoạt động chuyên môn khám bệnh, chẩn
đoán và điều trị. Nguồn thải này phải xử lý trước khi thải vào lưu vực [4].

Nước thải từ hoạt động chuyên môn khám bệnh, chẩn đoán và điều trị được
thu bởi hệ thống ống thu được lắp đặt trong công trình nhờ hệ thống thu của chậu
rửa, bể labo, lavabo thu về hệ thống ống thoát được lắp đặt ngầm và cuối cùng đưa
về trạm xử lý bằng hệ thống ống dẫn riêng.
Nước từ các khu vệ sinh được thu về bể phốt có mức ô nhiễm hữu cơ rất cao
COD, BOD
5

tới vài ngàn mg/L. Tại bể phốt đã xảy ra quá trình xử lý yếm khí, phần
lớn các mầm bệnh và chất hữu cơ đã được xử lý, nhưng do bảo dưỡng và thực tế sử
dụng ở Việt Nam vẫn còn ô nhiễm nặng.
Luận văn thạc sỹ cao học
13

1.2.2. Hệ thống xử lý nước thải
Nước thải bệnh viện chứa nhiều tạp chất bẩn có bản chất khác nhau gây ô
nhiễm môi trường nước. Vì vậy, nước thải bệnh viện trong bất cứ trường hợp nào
cũng không được phép đổ trực tiếp vào nguồn nước như ao hồ, sông ngòi. Muốn
nước thải đổ vào các thuỷ vực này cần phải tiến hành xử lý. Mục đích xử lý nước
thải bệnh viện là khử các tạp chất và vi khuẩn gây bệnh để nước sau khi xử lý đạt
được tiêu chuẩn chất lượng cho việc xả vào nguồn tiếp nhận.
Do vậy, nước thải bệnh viện cần phải thu gom tại các khoa phòng về bể tập
trung để xử lý, sau đó xả vào nơi qui định. Xử lý ở mức độ nào đó sẽ tuỳ thuộc vào
điều kiện môi trường, đặc điểm thuỷ vực của nguồn nhận, phương pháp xử lý nước
thải tiếp nối với dây chuyền công nghệ sản xuất. Sau khi xử lý đạt yêu cầu, nước
thải được phép đổ vào nguồn.
Sơ đồ hệ thống xử lý nước thải bệnh viện điển hình

Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống xử lý nước thải bệnh viện
Luận văn thạc sỹ cao học

14

Xử lý sơ bộ hay xử lý bậc I
Xử lý sơ bộ hay xử lý bậc I bao gồm chắn rác, lắng cát, hồ điều hoà lưu
lượng, lắng bùn sơ cấp (hay lắng 1). Công đoạn này loại bỏ phần lớn các tạp chất
thô, cứng, vật nổi, nặng v.v… để bảo vệ bơm, đường ống, thiết bị tiếp theo và đưa
nước thải vào xử lý cơ bản có hiệu quả hơn.
Các trang thiết bị của công đoạn này thường là: song, lưới chắn rác, có thể có
máy nghiền và cắt vụn rác, lắng cát, bể điều hoà, bể trung hoà, tuyển nổi và lắng 1.
Bể điều hoà đôi khi có trang bị sục khí để khử mùi, khử mầu và làm tăng cường oxi
hoá. Công đoạn này thường loại được hầu hết tạp chất rác, sợi, vật thô nổi, tạp chất
nặng, một phần tạp chất ở dạng lơ lửng [8].
Theo nghiên cứu của Bonde, xử lý nước thải ở giai đoạn này có thể giảm
được 10% E. coli và 60% Clostridium perfringens. Tuy nhiên một số vi khuẩn chỉ
điểm lại tăng lên ở giai đoạn này [26].
Xử lý cơ bản hay xử lý bậc II
Xử lí cơ bản chủ yếu là ứng dụng các quá trình sinh học (đôi khi là quá trình
hoá học hoặc cơ học hoặc kết hợp). Công đoạn này phân huỷ sinh học hiếu khí các
chất hữu cơ, chuyển các chất hữu cơ dễ phân huỷ thành các chất vô cơ và chuyển
các chất hữu cơ ổn định thành bông cặn dễ loại bỏ ra khỏi nước [31].
Xử lý bổ sung hay xử lý bậc III
Thông thường công đoạn này chỉ cần khử khuẩn để đảm bảo nước trước khi
được đổ vào các thuỷ vực không còn vi sinh vật gây bệnh. Ngoài ra, công đoạn này
có thể phải tiếp tục nâng cao chất lượng nước đã xử lý tái sử dụng hoặc để xả vào
nguồn tiếp nhận có yêu cầu cao.
Các phương pháp khử khuẩn thường dùng chủ yếu là các chất oxy hoá như
clo, hợp chất clo, ozon, hypoclorit, permanganat, bạc, H
2
O
2

…(phương pháp hóa
học) hay sử dụng nhiệt, tia cực tím (UV), vi lọc, lọc cát chậm, keo tụ (phương pháp
vật lý). Các phương pháp này chủ yếu dựa vào khả năng làm biến tính protein của tế
bào vi sinh vật hoặc protein enzim của chúng. Dùng tia UV cũng vậy, còn dùng
nhiệt là dựa vào khả năng giết chết tế bào vi sinh vật ở nhiệt độ cao.
Luận văn thạc sỹ cao học
15

Khử khuẩn bằng clo: Clo và các hợp chất chứa clo hoạt tính là những chất
oxi hoá thông dụng nhất, làm chất khử khuẩn hữu hiệu và kinh tế [27]. Sử dụng clo
ở đây có hai tác dụng, chủ yếu là diệt khuẩn và oxi hoá tiếp tục các chất hữu cơ còn
sót lại ở trong nước làm cho nước sáng màu hơn, cải thiện mùi vị nước do mùi vị
của chất hữu cơ còn lại. Ngoài ra, clo và hợp chất của clo còn oxi hoá tách H
2
S ra
khỏi nước thải.
Theo nghiên cứu của Irving và Jolley (1980), lượng clo dư ở mức 0,5mg/l
trong nước thải đã xử lí là đảm bảo an toàn và ổn định cho quá trình xử lí, nhưng
nếu không làm giảm nồng độ clo trong nước xuống thấp hơn mức này sẽ gây hại
cho các thuỷ sinh [32].
Hiện nay ở Việt nam hầu hết các hệ thống xử lý nước thải bệnh viện đều
dùng clo nước hay clorua vôi vì rẻ tiền, dễ sử dụng lại an toàn hơn clo hơi.
Khử khuẩn bằng ozon: Ozon có công thức hoá học là O
3
. Trong áp suất
thường, nhiệt độ thường, ozon ở thể khí. Ở điều kiện bình thường ozon dễ bị phân
huỷ thành khí O
2
. Oxi nguyên tử mới sinh có khả năng oxi hoá mạnh và diệt khuẩn.
Ozon được tạo thành do phóng tia lửa điện qua oxi hoặc không khí. Vì ozon không

bền, nên phải trang bị máy tạo ozon ngay ở trạm xử lí nước thải. Việc trang bị máy
tạo ozon giá khá cao và sử dụng tốn nhiều điện năng. Trường hợp trong không khí
có nồng độ ozon cao hơn 10mg/l sẽ gây độc hại cho người.
Một số bệnh viện có trang bị bộ phận tạo ozon như bệnh viện Nhi trung
ương, khá hiệu quả trong xử lý nước thải về vi sinh thông qua đánh giá chỉ số
coliform.
Chow-Feng Chiang và cộng sự (2003) đã nghiên cứu sử dụng thiết bị tạo
ozon để khử trùng nước thải của 2 bệnh viện ở Đài loan đã được đánh giá hiệu quả
với Coliform,

Pseudomonas aeruginosa, và tổng số vi khuẩn [28].
Trong hệ thống xử lý nước thải bệnh viện người ta dùng các quy trình công
nghệ tổng hợp gồm cả phương pháp cơ học, hoá lý, sinh học.
Xử lý bùn cặn
Luận văn thạc sỹ cao học
16

Trong quá trình xử lý nước thải, thu được một lượng lớn bùn cặn, đó là các
tạp chất vô cơ, hữu cơ. Bùn cặn ở công đoạn xử lý sơ bộ chủ yếu là các cặn vô cơ, ở
lắng II chủ yếu là tạp chất hữu cơ chứa nhiều sinh khối vi sinh vật. Bùn tạo thành
sau xử lý nước thải phải khử trùng để diệt vi khuẩn gây bệnh.
1.2.3. Phương pháp xử lý nước thải
1.2.3.1. Một số phương pháp xử lý nước thải bệnh viện trên thế giới
Để lựa chọn các phương pháp thích hợp cho từng đối tượng bệnh viện phải
dựa vào thành phần và bản chất của nước thải, lưu lượng nước thải cần xử lý, điều
kiện địa lý thuỷ văn của nguồn tiếp nhận, mức độ yêu cầu của bảo vệ môi trường và
đặc biệt là điều kiện kinh phí đầu tư cho công việc xử lý nước thải.
Xử lý nước thải các khoa, bộ môn của bệnh viện truyền nhiễm có lưu lượng
25m
3

/ngày, bộ môn Vệ sinh học công cộng Trường Đại học Y Kiep sáng chế ra tổ
hợp công trình xử lý cục bộ với bể tự hoại – khử trùng cặn gồm bể tự hoại – khử
trùng cặn, thiết bị clo hóa và bể tiếp xúc. Nước thải đi qua các ngăn được giải
phóng khỏi các chất lơ lửng. Các chất lơ lửng rơi xuống thành cặn, nước thải được
làm trong từ bể tự hoại – khử trùng cặn đi vào thiết bị clo hóa và được khử trùng,
sau đó đi vào hệ thoát nước. Sau xử lý chất lơ lửng giảm 80%, BOD-50%, chỉ số
coli – 68,6%, trứng giun 100%. Với các bệnh viện chuyên khoa truyền nhiễm có
lưu lượng nước thải 100-150m
3
/ngày có thể áp dụng công trình xử lý cục bộ với bể
tự hoại hai bậc gồm song chắn rác, thiết bị thu cát, bể tự hoại hai bậc, thiết bị clo
hóa cơ cấu trộn và bể tiếp xúc [9].
Công trình xử lý với aeroten sục khí liên tục bằng thiết bị thổi khí cơ học, bể
lắng thứ cấp, thiết bị clo và bể tiếp xúc đã được áp dụng trong xử lý nước thải bệnh
viện. Điển hình là trạm xử lý cục bộ kiểu Rapid Bloc của Phần Lan, nước thải sau
bể tự hoại được xử lý sinh học trong bể aeroten và khử trùng trước khi xả ra bên
ngoài. Công suất thiết bị 500-800m
3
/ngày.
Xử lý nước thải bệnh viện lao với lưu lượng nước thải đến 500m
3
/ngày được
áp dụng xử lý theo tổ hợp công trình xử lý với bể tự hoại/bể lắng hai bậc và lọc
sinh học nhỏ giọt. Theo đó, tổ hợp bao gồm lưới chắn rác, thiết bị thu cát, bể tự
Luận văn thạc sỹ cao học
17

hoại/bể lắng hai bậc, thiết bị định lượng, lọc sinh học nhỏ giọt, bể lắng thứ cấp,
thiết bị clo hóa và bể tiếp xúc.
Rezaee M.M. Aryan, Tehran, Iran (2005) và các cộng sự đã thực hiện nghiên

cứu áp dụng xử lý nước thải bệnh viện sử dụng một bể phản ứng sinh học màng cố
định tích hợp kỵ – hiếu khí. Nghiên cứu hệ thống này hoạt động trong 90 ngày. Kết
quả cho thấy hệ thống có hiệu quả loại bỏ 95,1% nhu cầu oxy hóa học (COD) từ
nước thải bệnh viện với COD giảm từ 700 mg/L xuống còn 34 mg/L. Bên cạnh đó
cũng loại bỏ đáng kể các vi khuẩn gây bệnh. Những lợi thế của hệ thống xử lý
nghiên cứu đối này gồm hoạt động vận hành và bảo trì đơn giản, loại bỏ hiệu quả
COD và vi khuẩn, và tiêu thụ năng lượng thấp [24].
Xianghua Wen, Trung Quốc (2004) thực hiện xử lý nước thải bệnh viện
bằng bể phản ứng sinh học bằng màng ngập nước. Hiệu suất khử COD, NH
4
-N, và
độ đục là 80, 93 và 83% tương ứng với chất lượng nước thải trung bình của COD
<25 mgL, NH
4
-N <1,5 mg/L và độ đục <3 NTU. Escherichia coli bị loại bỏ hơn
98%. Nước thải không có màu và không mùi. Áp suất qua màng tăng từ từ trong
quá trình hoạt động 6 tháng. Không cần hoạt động làm sạch màng và bùn không
phát sinh trong thời gian hoạt động 6 tháng [44].
Nghiên cứu của Qiaoling Liu và cộng sự (2010) áp dụng công nghệ lọc
màng MBR xử lý nước thải bệnh viện ở Trung Quốc cho kết quả: công nghệ lọc
màng MBR hiệu quả hơn trong việc loại bỏ vi sinh vật bệnh lý so với các hệ thống
xử lý nước thải hiện có. Bên cạnh đó, MBR còn tiết kiệm hiệu quả trong tiêu thụ
chất khử trùng (clo thêm vào có thể giảm đến 1,0 mg /L), rút ngắn thời gian phản
ứng (khoảng 1,5 phút, 2,5-5% của quá trình xử lý nước thải thông thường) [38].
Trong một nghiên cứu khác, Ajay Kumar Gautam, Ấn Độ (2007), nghiên
cứu sơ bộ các lựa chọn xử lý hóa lý cho nước thải bệnh viện, được thực hiện tại
bệnh viện đại học y Christian, Vellore, Tamil Nadu. Nước thải đã được kiểm tra
cho các thông số thông thường và làm thí nghiệm đông tụ. Các nước thải thô và
lắng đã được đông tụ bằng FeCl
3

, lọc và khử trùng. Xử lý hóa lý được xem là một
lựa chọn hấp dẫn đối với việc xử lý chi phí hiệu quả nước thải bệnh viện [25].

×