Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ hà nội giai đoạn 2006 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.81 MB, 172 trang )

Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


Nguyễn Thị Hƣởng

ĐÁNH GIÁ DIỄN BIẾN CHẤT LƢỢNG NƢỚC
CÁC HỒ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 - 2010

Chuyên ngành : Khoa học Môi trường
Mã số : 60 85 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lƣu Đức Hải



Hà Nội - 2011
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

2
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT


KCN
Khu công nghiệp
CCN


Cụm công nghiệp
UBND
Ủy ban Nhân dân
KĐT
Khu đô thị
TSS
Tổng lượng chất rắn lơ lửng
BOD

5
Nhu cầu ôxy sinh học
COD
Nhu cầu ôxy hóa học





















Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

3
MỞ ĐẦU
Thành phố Hà Nội nằm ở vùng địa hình thấp của đồng bằng sông Hồng.
Phần lớn các hồ Hà Nội có nguồn gốc từ các vùng trũng hoặc từ các nhánh sông,
trên nền đất trẻ. Sự hình thành các hồ đều gắn liền với sự phát triển đô thị. Các dòng
chảy qua kênh, hồ tạo nên khung sinh thái, là nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt,
sản xuất và các hoạt động khác của đô thị.
Các hồ đô thị tạo thành một hệ thống nối kết với các sông tiêu thoát nước của
thủ đô Hà Nội. Hiện nay, dưới áp lực của quá trình đô thị hóa, hệ thống thu gom
nước thải không hợp lý, ý thức của người dân còn kém khiến tải lượng chất gây ô
nhiễm xả xuống hồ tăng nhanh là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm nước hồ đô thị.
Hệ thống các hồ, ao, đầm của Hà Nội ngoài chức năng điều hòa nước mưa,
giảm thiểu ngập úng, còn là các điểm nhấn danh lam thắng cảnh, vui chơi, giải trí,
Nhiều ao, hồ của Hà Nội gắn liền với các đình chùa, được coi là các địa điểm tâm
linh của Hà Nội.
Một số hồ có vai trò quan trọng có giá trị về văn hóa lịch sử, cảnh quan thiên
nhiên và môi trường, về đa dạng sinh học cũng như về giá trị nguồn nước. Nhưng
những hồ này hiện đang ô nhiễm nặng nề do chất thải từ các cơ sở sản xuất, bệnh
viện, các hộ gia đình…
Luận văn “Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn
2006 – 2010” được thực hiện với mục đích: Đánh giá diễn biến chất lượng nước
một số hồ chính tại Hà Nội, giai đoạn 2006 – 2010. Từ đó, tác giả đưa ra các giải
pháp nhằm bảo vệ chất lượng nước hồ góp phần cải thiện môi trường thành phố Hà
Nội.






Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

1.1. Một số đặc điểm chính về điều kiện tự nhiên của Hà Nội.
1.1.1. Vị trí địa lý
Hà Nội có vị trí từ 20°53' đến 21°23' độ vĩ Bắc và 105°44' đến 106°02' độ
kinh Đông, trong vùng tam giác châu thổ sông Hồng, đất đai mầu mỡ, trù phú được
che chắn ở phía Bắc - Đông Bắc bởi dải núi Tam Đảo và ở phía Tây - Tây Nam bởi
dãy núi Ba Vì - Tản Viên.
Hà Nội tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Hà Nam,
Hòa Bình phía Nam; Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông; Hòa Bình cùng
Phú Thọ phía Tây. Sau khi mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Thủ
đô Hà Nội có diện tích 3.324,92 km², nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, nhưng tập
trung chủ yếu bên hữu ngạn (Hình 1).
1.1.2. Địa hình
Địa hình Hà Nội thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ
cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Dạng địa hình chủ yếu của
Hà Nội là địa hình đồng bằng (chiếm đến ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội)
được đắp bồi do các dòng sông với các bãi bồi hiện đại và các bãi bồi cao nằm ở
hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác, còn các vùng
trũng với các hồ đầm. Các bậc thềm sông chỉ có ở huyện Sóc Sơn và phía Bắc
huyện Đông Anh. Ngoài ra, Hà Nội còn có dạng địa hình núi và đồi xâm thực tập
trung ở khu vực đồi núi Sóc Sơn

Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai,
Mỹ Đức, với các đỉnh như Ba Vì cao 1.281 m, Gia Dê 707 m, Chân Chim 462 m,
Thanh Lanh 427 m, Thiên Trù 378 m Nếu không kể hai dãy Ba Vì, Hương Sơn và
quần thể núi Sài thì khu vực ngoại thành có dãy Sóc Sơn thuộc hệ thống mạch núi
Tam Đảo chạy xuống gồm nhiều ngọn nằm trên hai huyện Mê Linh và Sóc Sơn.
Khu vực nội thành có một số gò đồi thấp nhưng cao không quá 20 mét như
gò Đống Đa, núi Sưa, núi Khán, núi Nùng,
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

5


Hình 01. Hệ thống Sông hồ Hà Nội
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

6
1.1.3. Hệ thống thủy văn
Sông Hồng là con sông chính của Thủ đô Hà Nội, bắt đầu chảy vào Hà Nội ở
xã Phong Vân, huyện Ba Vì và ra khỏi Thủ đô ở khu vực xã Quang Lãng, huyện
Phú Xuyên tiếp giáp Hưng Yên. Đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 163 km,
chiếm khoảng một phần ba chiều dài của con sông này trên đất Việt Nam (khoảng
556 km sông Hồng chảy qua Việt Nam trên tổng chiều dài 1.160 km của sông
Hồng). Lũ sông Hồng chủ yếu do lũ các phụ lưu chính là sông Đà và sông Lô gây
nên. Mỗi năm mùa lũ kéo dài năm tháng từ tháng 6 đến tháng 10 dương lịch (trùng
với mùa mưa). Đê sông Hồng được đắp từ năm 1.108, đoạn từ Nghi Tàm đến Thanh
Trì gọi là đê Cơ Xá với độ cao mặt đê tại Hà Nội là 14m.
Ngoài ra, Hà Nội còn có đoạn sông Đà là ranh giới giữa Hà Nội với Phú Thọ,
hợp lưu với dòng sông Hồng ở phía Bắc Thủ đô tại huyện Ba Vì.
Thêm vào đó, trên địa phận Hà Nội còn nhiều sông lớn khác như sông Đáy,
sông Đuống, sông Cà Lồ, sông Tích:

- Sông Đáy còn có tên Hát Giang, là một phân lưu bên bờ phải của sông
Hồng tại Hát Môn (tức Ngã ba Hát). Năm 1937, sau khi xây dựng xong đập Đáy,
nước sông Hồng không thường xuyên vào sông Đáy qua cửa đập Đáy trừ những
năm phân lũ, vì vậy phần đầu nguồn sông (từ km 0 đến Ba Thá dài 71 km) sông
Đáy coi như đoạn sông chết. Lượng nước để nuôi sông Đáy chủ yếu từ các sông
nhánh như sông Tích, sông Nhuệ, sông Bôi, sông Đào Nam Định.
- Sông Đuống là phân lưu của sông Hồng, dài 65km, nối liền hai con sông
lớn của miền Bắc là sông Hồng và sông Thái Bình. Sông Đuống tách ra khỏi sông
Hồng từ xã Ngọc Thụy (Gia Lâm), chảy về phía đông rồi Đông Nam qua các huyện
Thuận Thành, Gia Lương (Bắc Ninh) đổ vào sông Thái Bình ở Đại Than, gần Phả
Lại. Đoạn chảy qua Hà Nội dài 17,5km. Sông còn có các tên cổ là sông Thiên Đức,
sông Đông Ngàn, sông Bắc Giang. Đoạn sông gần Phả Lại gọi là sông Đại Than.
- Sông Cà Lồ trước kia là một nhánh của sông Hồng, tách ra từ xã Trung Hà,
huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc, cách sông Hồng tới 3km. Sông Cà Lồ còn có tên là
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

7
sông Phù Lỗ là ranh giới giữa huyện Sóc Sơn với các huyện Mê Linh, Đông Anh và
Hiệp Hòa (Bắc Giang).
- Sông Tích bắt nguồn từ sườn phía Đông Bắc núi Ba Vì đổ xuống giữa hai
xã Cẩm Lĩnh và Thụy An. Đây là lối thoát nước chính của vùng núi Ba Vì. Dòng
sông không có bãi, không bên lở bên bồi như những sông bình thường ở đồng bằng
mà bờ dốc thẳng đứng như sông miền núi. Sông Tích là kết quả của một quá trình
trùng xâm rất hiếm có trong các sông ngòi nước ta. Về đến Xuân Mai, sông gặp
sông Bùi từ Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình) đổ vào và đoạn này cũng gọi là sông Bùi.
Bên cạnh các con sông lớn, các sông nhỏ chảy trong khu vực nội thành như
sông Nhuệ, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Lừ, sông Sét Hiện nay, các con
sông này được xem như những đường tiêu thoát nước thải của Hà Nội:
- Sông Nhuệ: hệ thống thuỷ nông sông Nhuệ được người Pháp quy hoạch
năm 1932, đến năm 1935 xây dựng xong công trình đầu mối là cống Liên Mạc để

lấy nước sông Hồng vào sông Nhuệ, tưới bằng tự chảy cho các vùng hoặc tạo nguồn
cho các vùng khác bằng bơm. Quá trình khai thác, sử dụng hệ thống sông Nhuệ là
quá trình bổ sung hoàn thiện dần. Từ khi xây dựng đến nay, hệ thống đã nhiều lần
được quy hoạch bổ sung, xây dựng thêm các trục tưới, tiêu, cống điều tiết, đê chống
lũ, để mở rộng diện tích tưới, tiêu, bảo vệ sản xuất. Sông chảy theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam qua đất các quận Thanh Xuân, quận Cầu Giấy (Hà Nội), huyện Từ
Liêm, Thanh Trì, Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Oai, Thường Tín, Phú Xuyên và
Ứng Hoà (Hà Nội) và 2 huyện Kim Bảng, Duy Tiên (Hà Nam) rồi nhập vào sông
Đáy ở Tp. Phủ Lý.
- Sông Tô Lịch hiện tại được bắt nguồn từ cống Phan Đình Phùng, qua đập
Thanh Liệt và đổ vào sông Nhuệ. Sông chỉ còn dài 14,6 km, là dòng thoát nước thải
của Thủ đô, ngày càng ô nhiễm nặng.
- Sông Kim Ngưu vốn là một nhánh của sông Tô Lịch từ phường Yên Lãng
chảy theo đường La Thành qua cống Nam Đồng, Phương Liệt (quận Đống Đa) tới
xã Thịnh Liệt đổ vào sông Tô Lịch tại cầu Sơn (cạnh đập Thanh Liệt), một nhánh
khác của sông chảy về Thường Tín (với một lưu lượng nhỏ). Còn có nhiều nhánh
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

8
khác chảy trong quận Hai Bà Trưng và huyện Thanh Trì (như sông Sét dài 5,9 km
rộng 10 - 30 m, sâu 3 - 4 m bắt nguồn từ cống Bà Triệu, hồ Bảy Mẫu rồi đổ vào
sông Kim Ngưu ở Giáp Nhị) song tác dụng chủ yếu ngày nay là đường thoát nước
thải của nội thành.
Ngoài hệ thống các con sông, Hà Nội cũng là một Thủ đô đặc biệt nhiều đầm
hồ. Tính riêng trong khu vực nội thành đã có 110 hồ (hiện nay, Hà Nội sau khi mở
rộng có đến 154 hồ). Hồ Gươm nằm ở trung tâm lịch sử của Thủ đô, giữ một vị trí
đặc biệt đối với Hà Nội; Hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng 500 ha, đóng vai trò
quan trọng trong khung cảnh đô thị. Trong khu vực nội ô có thể kể tới những hồ nổi
tiếng khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ Ngoài ra, còn nhiều đầm hồ lớn
nằm trên địa phận Hà Nội như Kim Liên, Liên Đàm, Ngải Sơn - Đồng Mô, Suối

Hai, Mèo Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai, Quan Sơn,
Cho tới nay, quá trình đô thị hóa đã lấp đi nhiều. Nay còn có một số hồ nhỏ ở
nội thành như: hồ Ba Mẫu, hồ Đồng Nhân, hồ Đống Đa, hồ Giám, hồ Giảng Võ, hồ
Ngọc Khánh, hồ Thanh Nhàn, hồ Thành Công, hồ Thủ Lệ, hồ Xã Đàn,
Do đặc điểm điều kiện địa hình khi độ cao trung bình của Hà Nội là 7 - 8m
so với mặt biển (thấp hơn 7m so với đỉnh lũ trên sông Hồng đoạn qua Hà Nội trong
cơn lũ lịch sử năm 1971), do khả năng thoát úng tự nhiên của đất tại các đô thị thấp
hơn hẳn so với nông thôn do các đô thị với bề mặt đất phần lớn bị cứng hóa (có thể
từ 75 – 100%), do công tác quy hoạch đô thị và hệ thống thoát nước còn nhiều hạn
chế, do vậy, thời gian qua, số vụ úng ngập tại các tuyến giao thông và khu dân cư
không chỉ nội mà còn cả ngoại thành diễn ra với số lượng và diễn biến bất thường
cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm cục bộ môi trường Thủ đô.
Bên cạnh đó, do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần
lớn các sông hồ ở nội thành Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng.
Sông Tô Lịch, trục tiêu thoát nước thải chính của Thủ đô, hàng ngày phải tiếp nhận
khoảng 150.000 m³. Tương tự, sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ một ngày.
Sông Lừ và sông Sét trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngưu khoảng
60.000 m³. Như vậy, các sông mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu thoát
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

9
nước còn phải nhận thêm một phần rác thải sinh hoạt của người dân và chất thải
công nghiệp từ các làng nghề và cơ sở sản xuất,
1.1.4. Khí hậu
Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu nhiệt
đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Thuộc vùng
nhiệt đới, Hà Nội quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ mặt trời rất dồi dào và có nhiệt
độ cao. Lượng bức xạ tổng cộng trung bình hàng nǎm ở Hà Nội là 122,8 kcal/cm
2


và nhiệt độ không khí trung bình hàng nǎm là 23,6ºC. Do tác động của biển, Hà Nội
có độ ẩm và lượng mưa khá lớn, trung bình 114 ngày mưa một năm. Mùa mưa diễn
ra từ tháng 5 đến tháng 9, trong đó, lượng mưa trung bình lớn nhất la vào tháng 7
(lên đến gần 350 mm) Bảng 1.
Một đặc điểm rõ nét của khí hậu Hà Nội là sự thay đổi và khác biệt của hai
mùa nóng, lạnh. Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa nhiều,
nhiệt độ trung bình 28,1 °C. Từ tháng 11 tới tháng 3 năm sau là khí hậu của mùa
đông với nhiệt độ trung bình 18,6 °C. Cùng với hai thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4
và tháng 10 đã tạo ra đặc điểm khí hậu đặc trưng của Thủ đô Hà Nội với 4 mùa:
Xuân, Hạ, Thu và Đông (Bảng 1).
Bảng 1 - Khí hậu khu vực Hà Nội
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Trung bình tối
cao °C (°F)
19 (66)
19 (67)
22 (72)
27 (80)

31 (87)
32 (90)
32 (90)
32 (89)
31 (88)
28 (82)
24 (76)
22 (71)
Trung bình tối
thấp °C (°F)
14 (58)
16 (60)
18 (65)
22 (71)
25 (77)
27 (80)
27 (80)
27 (80)
26 (78)
23 (73)
19 (66)
16 (60)
Lƣợng mƣa mm
(inch)
20.1
(0.79)
30.5
(1.20)
40.6
(1.60)

80
(3.15)
195.6
(7.70)
240
(9.45)
320
(12.6)
340.4
(13.4)
254
(10.0)
100.3
(3.95)
40.6
(1.60)
20.3
(0.80)

Bên cạnh đó, khí hậu Hà Nội cũng ghi nhận những biến đổi bất thường. Vào
đầu năm 2008, miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng đã hứng chịu một đợt rét kỷ
lục lên đến 38 ngày liên tục (vượt xa kỷ lục về thời gian rét được ghi nhận vào các
năm 1968, 1989) với nhiệt độ trung bình ngày đạt thấp nhất vào ngày 31/01/2008
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

10
chỉ hơn 7 độ C, trong khi kỷ lục ghi nhận trước đó là hơn 8 độ C. Đầu tháng 11 năm
2008, một trận mưa kỷ lục đổ xuống các tỉnh miền Bắc và miền Trung đã gây thiệt
hại cho Thủ đô khoảng 3.000 tỷ đồng,
1.2. Sức ép của phát triển kinh tế-xã hội đối với môi trƣờng Hà Nội

1.2.1. Dân số
Kết quả tổng điều tra dân số ngày 1/4/2009 cho thấy, dân số Hà Nội là
6.448.837 người sinh sống trên diện tích 3.328,89km
2
bao gồm 10 quận, 1 thị xã và
18 huyện ngoại thành. Toàn Thủ đô có 2.632.087 cư dân thành thị chiếm 41,2% và
3.816.750 cư dân nông thôn chiếm 58,1% (cho toàn quốc, tỷ lệ này tương ứng là
29,9% và 70,1%). Giai đoạn 2006 – 2010, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân năm
của Thủ đô là 1,21%, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc (1,17%). Cho đến nay, Thủ
đô Hà Nội đứng thứ hai về dân số và đứng đầu cả nước về diện tích, là một trong 17
Thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới (Hình 2).
2,0
2,5
3,0
3,5
4,0
4,5
5,0
5,5
6,0
6,5
7,0
2005 2007 2008 2009 2010
triệu người
Dân số thành thị Dân số nông thôn

Hình 02 - Dân số thành thị, nông thôn của Thủ đô Hà Nội qua các năm
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội, 2010) [7]
Mật độ dân số Hà Nội hiện nay cũng như trước khi mở rộng địa giới hành
chính là không đồng đều giữa các quận nội và ngoại thành. Trên toàn Thủ đô, mật

độ dân cư trung bình 1.940 người/km
2
nhưng tại quận Đống Đa, mật độ lên tới
34.886 người/km
2
. Trong khi đó, ở những huyện ngoại thành như Sóc Sơn, Ba Vì,
Mỹ Đức, mật độ không tới 1.000 người/km
2
.
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

11
Mặc dù diện tích Thủ đô được mở rộng kể từ sau ngày 1/8/2008 nhưng mật
độ dân số sinh sống tại Thủ đô rất cao, khu vực nội thành mật độ trung bình cao hơn
gần 7,5 lần mật độ trung bình cả nước. Mật độ dân số của Thủ đô Hà Nội được nhận
định là cao hơn một số Thủ đô trong khu vực và trên Thế giới. Năm 2010, mật độ
dân số tại Tokyo (Nhật Bản) là 5.987 người/km
2
; mật độ bình quân của toàn Thủ đô
Bắc Kinh (Trung Quốc) là 1.309 người/km
2
; Băng Kốc (Thái Lan) là 5.810
người/km
2
ở khu vực nội thành và toàn thành phố là 1.542 người/km
2
. Thủ đô
Manila (Philippin) có mật độ dân số cao nhất, khu vực nội thành là 43.080
người/km
2

và toàn Thủ đô là 18.093 người/km
2
. Thủ đô Paris (Pháp) là 3.745
người/km
2
và toàn thành phố là 815 người/km
2
(Hình 3).











Hình 03 - Dân số và mật độ dân số các Quận, huyện của Thủ đô Hà Nội
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội, 2010) [7]
Giai đoạn 2011 - 2015, căn cứ một số chỉ tiêu tổng hợp phát triển KT-XH
Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2011 – 2015, dân số trung bình Thủ đô Hà Nội dự kiến đạt
7,2 – 7,4 triệu dân với tốc độ gia tăng dân số tự nhiên bình quân năm là 1,1%.
Hà Nội là một trong hai thành phố (Thành phố Hồ Chí Minh) có mức và tốc
độ đô thị hóa đạt cao nhất. Quá trình đô thị hóa của Hà Nội đã phát triển mạnh theo
chiều rộng và có sức lan tỏa mạnh. Dân số Hà Nội gia tăng lên với tốc độ cao: năm
100
150
200

250
300
350
Ba Đình
Cầu Giấy
Đống Đa
Hà Đông
Hai Bà Trưng
Hoàn Kiếm
Hoàng Mai
Long Biên
Tây Hồ
Thanh Xuân
Sơn Tây
Ba Vì
Chương Mỹ
Đan Phượng
Đông Anh
Gia Lâm
Hoài Đức
Mê Linh
Mỹ Đức
Phú Xuyên
Phúc Thọ
Quốc Oai
Sóc Sơn
Thạch Thất
Thanh Oai
Thanh Trì
Thường Tín

Từ Liêm
Ứng Hòa
Nghìn người
0
5.000
10.000
15.000
20.000
25.000
30.000
35.000
Người/km2
Dân số (người)
Mật độ (người/km2)
Mật độ trung bình
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

12
1990, Hà Nội mới chỉ có 2,67 triệu thì đến năm 2010 đã đạt tới con số 6,6 triệu
dân. Trong vòng 10 năm, dân số Hà Nội đã tăng lên khoảng 4 triệu người. Như vậy,
trong khi mức độ và tốc độ đô thị hóa trên phạm vi toàn quốc ở Việt Nam chậm hơn
so với các nước khác trên thế giới và trong khu vực, thì Hà Nội, đã có tốc độ đô thị
hóa nhanh hơn nếu so sánh với chính bản thân thành phố qua các thời điểm, nó đã
đạt được tương đương với tỷ lệ đô thị hóa ở các thành phố của các nước phát triển
trong khu vực Châu Á và đang phấn đấu gia nhập hàng ngũ các thành phố có dân số
lớn hơn 10 triệu người của thế giới. Tuy nhiên, việc đô thị hóa nhanh diễn ra trong
thời gian ngắn cũng làm nảy sinh không ít bất cập về tính bền vững trong quá trình
phát triển.
Các khu dân cư, khu đô thị Hà Nội phần lớn được quy hoạch theo kiểu đô thị
―một tầng‖ không bảo đảm yêu cầu về độ cao và tính hiện đại. Vì thế, hiện nay, tại

nhiều khu đô thị mới, sức chứa gần như đã ―cạn‖, và bắt đầu có hiện tượng tắc
nghẽn, các cơ sở hạ tầng về giao thông, đường xá đều quá tải.
Thêm vào đó, các khu đô thị, KCN nằm quá gần nhau và bám sát trên các
tuyến giao thông trọng điểm, huyết mạch đã và đang cản trở đến lưu thông của
nhiều đoạn (Trên đường quốc lộ 5, có tới 80% các KCN chỉ nằm cách mép đường
dưới 30m). Mặc dù khi quy hoạch hệ thống giao thông, đã tránh đi qua các đô thị
nhưng các địa phương lại san đất, giao mặt bằng đất phát triển các KCN và KĐT
hình thành bám đường phát triển. Mặt khác, giữa phát triển đô thị, phát triển KCN
cũng như hệ thống giao thông và mạng lưới dịch vụ công cộng phát triển mang
những yếu tố thiếu đồng bộ khi nhiều nơi có KCN nhưng lại không quy hoạch đô
thị, nhà ở, khu vui chơi giải trí, vườn hoa, cây xanh và ngược lại.
Quy hoạch đô thị không theo kịp quá trình phát triển, mật độ dân số cao, dân
cư sinh sống tập trung trong khu vực nội thành với diện tích đầu người thấp, hạ tầng
cơ sở không đảm bảo, nhiều cơ sở sản xuất chưa được di dời ra ngoại thành và vào
các khu vực tập trung, thì sức ép từ dân số kéo theo các áp lực về nhà ở, giao
thông, cơ sở hạ tầng, sử dụng đất bền vững, môi trường không khí, nước, chất thải
rắn, ở Thủ đô Hà Nội là rất lớn nếu không có biện pháp quan tâm thích đáng.
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

13
1.2.2. Tốc độ phát triển kinh tế-xã hội
Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng,
trong khi con số của cả Việt Nam là 13,4 triệu. Hà Nội là một trong những địa
phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD
và 290 dự án. Bên cạnh những công ty Nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân cũng
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hà Nội. Ngoài ra, 15.500 hộ sản xuất
công nghiệp cũng thu hút gần 500.000 lao động. Tổng cộng, các doanh nghiệp tư
nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22% ngân sách Thủ đô
và 10% kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội (Bảng 2).
Bảng 2 - Định hƣớng cơ cấu kinh tế Thủ đô Hà Nội đến năm 2010

và chỉ tiêu thực tế đạt đƣợc
Các ngành kinh tế
Chỉ tiêu định hƣớng
Chỉ tiêu thực tế đạt đƣợc
Công nghiệp
42
41,8
Dịch vụ
56
52,4
Nông nghiệp
2,0
5,8
(Nguồn: Chiến lược phát triển KT-XH thủ đô Hà Nội thời kỳ 2001 – 2010 [4]; Niên
giám thống kê, 2010 [7]
Theo số liệu năm 2010, GDP của Hà Nội chiếm 12,73% của cả quốc gia và
khoảng 41% so với toàn vùng Đồng bằng sông Hồng. Tổng sản phẩm nội địa
(GDP) tăng 11% so năm 2009, trong đó ngành công nghiệp mở rộng tăng 11,6%
(đóng góp 5% vào mức tăng chung), các ngành dịch vụ tăng 11,1% (đóng góp 5,6%
vào mức tăng chung), ngành nông, lâm, thủy sản tăng 7,2% (đóng góp 0,5% vào
mức tăng chung). GDP bình quân đầu người của Thủ đô trung bình giai đoạn 2006
– 2010 đạt 36,79 triệu đồng/người/năm. Giai đoạn 2011 – 2015, phấn đấu GDP bình
quân đạt 82 – 86 triệu đồng/người/năm (Nguồn: Một số chỉ tiêu tổng hợp phát triển
KT-XH Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2011 – 2015) (Bảng 3) .
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

14
Bảng 3 - Tăng trƣởng GDP theo ngành kinh tế, chỉ tiêu thực tế đạt đƣợc
giai đoạn 2006 - 2010 và kế hoạch cho giai đoạn 2011 – 2015


Các ngành
kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế (%)
Tăng trƣởng GDP
theo ngành kinh tế (%)
Kế hoạch
2006 - 2010
Trung bình
2006 - 2010
Kế hoạch
2011 - 2015
Kế hoạch
2006 -
2010
Trung bình
2006 - 2010
Kế hoạch
2011 - 2015
Công nghiệp
52 - 52,5
52,5
54 - 55
10 - 11
10,35
12,2 - 13,5
Dịch vụ
41,5 - 42
41,6
41 - 42
14 - 15

12,78
13,0 - 13,7
Nông nghiệp
5,5 - 6,5
5,9
3 - 5
1,5 - 2,5
2,62
1,5 - 2,0

(Nguồn: Một số chỉ tiêu tổng hợp phát triển KT - XH Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2011-2015) [2]
Sau khi mở rộng địa giới hành chính, với hơn 6 triệu dân, Hà Nội có 3,2 triệu
người đang trong độ tuổi lao động, tuy nhiên, Thủ đô vẫn thiếu lao động có trình độ
chuyên môn cao. Cơ cấu và chất lượng nguồn lao động chưa dịch chuyển theo yêu
cầu cơ cấu ngành kinh tế. Năng lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm, dịch vụ cũng
như sức hấp dẫn môi trường đầu tư của Hà Nội còn thấp, việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế vẫn chậm, đặc biệt cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm
chủ lực mũi nhọn. Chất lượng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội
không cao và Thủ đô cũng chưa huy động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư.
1.2.3. Công nghiệp và xây dựng
Công nghiệp và xây dựng đóng góp đến 41,8% vào cơ cấu của nền kinh tế
Hà Nội và chỉ đóng góp khoảng 5% trong mức tăng GDP chung của toàn Thủ đô.
Tổng giá trị sản xuất ngành công nghiệp trong năm 2009 đạt trên 90.600 tỷ đồng,
trong đó, công nghiệp nhà nước chiếm 23,3%, công nghiệp ngoài nhà nước chiếm
32,4% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm đến 44,3% (Hình 4).
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

15
82.000
84.000

86.000
88.000
90.000
92.000
94.000
96.000
98.000
100.000
102.000
2005 2007 2008 2009 2010
Cơ sở
0,5
0,6
0,7
0,8
0,9
1,0
1,1
1,2
Tỷ đồng
Số cơ sở sản xuất công nghiệp (cơ sở)
Tỷ lệ giá trị sản xuất công nghiệp và số cơ sở sản xuất công nghiệp (tỷ đồng/cơ sở)
,

Hình 4 - Số cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn và giá trị sản xuất
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội, 2010) [7]
Với thế mạnh của mình, công nghiệp chế biến chiếm đến 95,3% trong ngành
công nghiệp, công nghiệp khai thác và sản xuất, phân phối điện nước chỉ chiếm
4,7% còn lại.
Mặc dù thời gian gần đây, sản lượng nước bình quân ngày của Thủ đô không

ngừng được gia tăng nhưng đến năm 2010, tính trung bình, một người dân Hà Nội
chỉ được cung cấp 123 lít/người/ngày (thấp hơn chỉ tiêu đặt ra là 140
lít/người/ngày). Chỉ tiêu nêu trên không đạt được một phần do tỷ lệ thất thu, thất
thoát nước sạch đô thị lên đến 30,9%. Vì vậy, chỉ 96% dân số đô thị và 82% dân số
ngoại thành được sử dụng nước sạch.
Giai đoạn 2006 – 2010, diện tích nhà ở xây mới của Thủ đô đạt khoảng 2,1
triệu m
2
/năm (Nguồn: Niên giám thống kê TP Hà Nội, 2010), theo đó, diện tích nhà
ở đô thị/đầu người đạt 8 – 8,5 m
2
/người (năm 2009), Quá trình xây dựng các công
trình mới này sẽ làm phát sinh một lượng không nhỏ chất thải xây dựng từ quá trình
đào móng, xây dựng và hoàn thiện công trình. Bên cạnh đó, căn cứ Nghị quyết của
Chính phủ đến năm 2015 sẽ cơ bản hoàn thành việc phá dỡ, cải tạo các khu chung cư
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

16
cũ nát tại các đô thị lớn nên lượng chất thải xây dựng sẽ còn tăng mạnh trong thời
gian tới. Hà Nội sẽ phải phá dỡ khoảng 23 khu chung cư 4 - 5 tầng với gần 1 triệu
mét vuông sàn, Các hoạt động phá dỡ, xây mới, vận chuyển chất thải xây dựng nêu
trên là một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm bụi trên địa
bàn Thủ đô (Hình 5)
1,6
1,7
1,8
1,9
2,0
2,1
2,2

2,3
2,4
2,5
2005 2006 2007 2008 2009 2010
Triệu m3/năm
500
550
600
650
700
750
Nghìn m3/ngày
Diện tích nhà ở xây dựng mới
(triệu m2/năm)
Sản lượng nước bình quân /
ngày (nghìn m3/ngày)

Hình 5 - Diện tích nhà xây mới và sản lƣợng nƣớc bình quân
giai đoạn 2005 – 2009
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội, 2010) [7]
Phát triển công nghiệp và xây dựng bao gồm nhiều loại hình khác nhau,
KCN, CCN, làng nghề, xây dựng hạ tầng giao thông, nhà ở, dưới dây sẽ phân tích
cụ thể hơn về tình hình phát triển của các loại hình đó và song hành cùng quá trình
phát triển là các sức ép đối với môi trường Thủ đô.
Phát triển các KCN, CCN và làng nghề
Theo quy hoạch phát triển khu, cụm, điểm công nghiệp đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 trên địa bàn TP Hà Nội, quỹ đất cho các KCN là 12.011 ha,
bao gồm: 3 khu công nghệ cao (CNC), diện tích 1.852 ha; 19 KCN (5.229 ha), bình
quân đạt 322 ha/KCN. Hiện các KCN triển khai được 6.996 ha, bằng 58% diện tích
quy hoạch, trong đó, khu công nghệ cao đạt 100% (1.852 ha), KCN đạt 40% diện

tích (2.109 ha); CCN đạt 70% (2.565 ha).
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

17
Cho đến năm 2010, trên địa bàn TP Hà Nội có 19 KCN, khu công nghệ cao
(KCNC), với tổng diện tích 7.526 ha đất đã được Chính phủ cho phép thành lập.
Hiện có 8 khu đã cơ bản lấp đầy đi vào hoạt động, các KCN còn lại đang trong quá
trình chuẩn bị đầu tư.
Với sự nỗ lực của toàn Thủ đô, đến nay các KCN đã thu hút được 518 dự án
với tổng mức vốn đăng ký 11.600 tỷ đồng và 3,56 tỷ USD. Trong số các dự án FDI
có nhiều dự án của các tập đoàn hàng đầu thế giới, sản phẩm công nghệ cao như
Canon, Panasonic, Meiko (Nhật Bản) có mức vốn đăng ký 250 - 300 triệu USD; vốn
đăng ký bình quân đạt 14,6 triệu USD/dự án FDI, dự án trong nước vốn đăng ký bình
quân 42,5 tỷ đồng/dự án. Tính bình quân 1 ha đất công nghiệp thu hút 95,2 tỷ đồng
vốn đăng ký đầu tư, tương đương 4,8 triệu USD.
Tính đến hết tháng 6 năm 2011, sau 16 năm xây dựng và mới chỉ có 8 KCN
đi vào hoạt động với diện tích 1.236 ha và 70% số dự án triển khai hoạt động đã góp
phần đáng kể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và trở thành nhân tố quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thủ đô. Các KCN Hà Nội đã
chiếm 10% số lượng công nghiệp toàn Thủ đô, trên 45% kim ngạch xuất khẩu, 20%
GDP của Thủ đô, giải quyết việc làm cho trên 200.000 lao động đã góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của Thủ đô theo hướng tăng tỷ trọng
của các ngành công nghiệp và dịch vụ, bước đầu tạo dựng hệ thống hạ tầng xã hội
phục vụ nhu cầu công nhân lao động trong các KCN.
Không thể phủ nhận sự đóng góp của các KCN, các doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh trong KCN đối với sự phát triển của Thủ đô, tuy nhiên, trong số 19
KCN đã được thành lập, chỉ có 8 KCN đi vào hoạt động với tỷ lệ lấp đầy tương đối
cao (khoảng 70 – 80%) (mức bình quân cả nước vào khoảng 50%). Trong số 8 KCN
này, cho đến thời điểm tháng 9 năm 2011 thì có 6 KCN có và đã vận hành hệ thống
xử lý nước thải thập trung. Tuy nhiên, trong 6 KCN này thì KCN Sài Đồng B có

công trình xử lý nước thải với công suất không đáp ứng lượng thải và chưa có thời
hạn cuối cho việc xây dựng công trình xử lý tập trung. KCN Nam Thăng Long hiện
vẫn chưa có công trình xử lý nước thải, 1 KCN (KCN Thạch Thất – Quốc Oai) dự
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

18
kiến sẽ hoàn thành công trình vào tháng 12/2011. Mặc dù phần lớn các KCN đang
hoạt động đều đã xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng
gần như toàn bộ các KCN khi bị thanh tra, kiểm tra đều có các vi phạm trong lĩnh
vực môi trường đã gây sức ép không nhỏ đến môi trường Thủ đô, gây bức xúc cho
cộng đồng sinh sống xung quanh. Ngoài ra, đối với 11 KCN chưa đi vào hoạt động
nhưng đã có Quyết định thành lập, do công tác giải phóng mặt bằng và đầu tư cơ sở
hạ tầng diễn ra chậm đã khiến cho người dân không có đất để sản xuất dẫn đến tình
trạng thất nghiệp tạm thời của người nông dân là nguyên nhân gây ra các sức ép đối
với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên.
Đối với các CCN, trên địa bàn Thủ đô Hà Nội hiện có 101 CCN có diện tích
3.030 ha. Theo đánh giá sơ bộ, có 43 CCN đã triển khai xây dựng trong đó 19 CCN
đã hoàn thành và 63 điểm công nghiệp đã xây dựng trong đó 22 điểm hoàn thành.
Mặc dù, Thủ đô đã có quy hoạch từ lâu nhưng còn nhiều cụm và điểm công nghiệp
làng nghề chưa triển khai xây dựng. Nhìn chung, tiến độ triển khai xây dựng hạ tầng
kỹ thuật cụm, điểm công nghiệp rất chậm; bình quân thời gian triển khai cụm công
nghiệp từ 3 - 5 năm và điểm công nghiệp là 2 - 3 năm. Đa phần, các cụm, điểm
công nghiệp chưa hoàn thành đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật theo nội dung quy
hoach chi tiết và dự án đầu tư phê duyệt. Đặc biệt, một số chủ đầu tư có dấu hiệu
chỉ làm thủ tục giao đất để giữ đất, đầu cơ dự án,
Các CCN, điểm công nghiệp với diện tích nhỏ, suất đầu tư thấp hiện được
xác định là nơi tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp (hay nói cách khác là tập
trung sự ô nhiễm) từ các cơ sở sản xuất nằm trong nội thành hoặc các khu dân cư,
đầu tư xây dựng cho hạ tầng cơ sở còn thấp, công tác giám sát, nhằm đảm bảo chất
lượng môi trường còn yếu, do vậy, các CCN, điểm công nghiệp phát triển nếu

không có các biện pháp tăng cường quản lý, giám sát việc thực thi pháp luật về môi
trường sẽ là nguyên nhân không nhỏ góp phần gây ô nhiễm môi trường Thủ đô.
Đến nay, trên địa bàn Thủ đô Hà Nội có 1.350 làng có nghề, 272 làng nghề
được UBND Thủ đô cấp bằng công nhận làng nghề, trong đó, 198 làng nghề truyền
thống với 116 ―Nghệ nhân Hà Nội‖ và hàng ngàn thợ giỏi. Theo đánh giá của JICA,
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

19
các làng nghề của Hà Nội hiện có tới 47 nghề trên tổng số 52 nghề của toàn quốc
với hàng chục nhóm ngành nghề đang phát triển mạnh như: gốm sứ, dệt may, da
giày, điêu khắc, khảm trai, sơn mài, mây tre đan, dát vàng bạc quỳ, đúc đồng, chế
biến nông sản, cơ khí,
Tổng số lao động tham gia sản xuất trong các làng có nghề là hơn 600.000
người (chiếm khoảng 41% tổng số lao động CN-TTCN toàn Tp.) với trên 410.000
lao động địa phương (chiếm khoảng 64% tổng số lao động) với 168.676 hộ sản
xuất, 2.063 công ty cổ phần, 4.562 công ty TNHH, 1.466 doanh nghiệp tư nhân, 164
HTX và 50 hội, hiệp hội. Số lao động trong các làng nghề được công nhận là hơn
300.000 người, thu nhập bình quân của một lao động làm nghề CN-TTCN trong các
làng nghề ước đạt 1,4 triệu đồng /người/tháng (cao hơn từ 2 - 2,5 lần so với sản xuất
nông nghiệp (thuần nông)).
Trong số 176 Cụm CN làng nghề được quy hoạch, đã có 49 cụm (470 ha),
xây dựng hạ tầng, cấp phép hoạt động cho 5.870 dự án, bình quân đạt 800m2/dự án,
trong đó có 2.000 dự án đã hoạt động. Theo Sở Công thương, quy hoạch các cụm
làng nghề còn nhỏ lẻ (7,4ha/cụm), thậm chí có cụm diện tích 1 ha, lại dàn trải, chưa
đáp ứng nhu cầu phát triển.
Với tốc độ phát triển như hiện tại, các làng nghề đã có đóng góp không nhỏ
vào tốc độ phát triển KT-XH của Thủ đô. Tuy nhiên, làng nghề phát triển cũng đi
kèm sức ép không nhỏ đối với môi trường thủ đô khi ý thức của người dân làng
nghề chưa cao, chưa hiểu rõ mức độ nguy hiểm ô nhiễm môi trường do chính họ
gây ra. Ở phần lớn các làng nghề, các hộ đều tận dụng diện tích đất ở để làm cơ sở

sản xuất, với quy mô sản xuất nhỏ, tự phát; trình độ công nghệ tại các làng nghề
đang ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng chủ yếu đang chuyển từ giai đoạn sản xuất
thủ công sang sản xuất cơ giới; Hạ tầng làng nghề còn chưa đồng bộ, đặc biệt là hệ
thống thoát nước thải; Công tác quản lý, bảo vệ môi trường chưa được quan tâm
đúng mức; Hầu hết các xã không có cán bộ có chuyên môn về môi trường, chỉ làm
kiêm nhiệm; Nguồn lực tài chính đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường tại các làng
nghề hạn chế hoặc hầu như không có; Chưa có chế tài bắt buộc của các cơ quan
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

20
quản lý nhà nước, Chính vì các lý do nêu trên, sự phát triển của các làng nghề đã
gây sức ép không nhỏ dối với môi trường Thủ đô, là nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường cục bộ tại một số khu vực nhất định.
Phát triển hệ thống giao thông
Trong khu vực nội thành, các con phố thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ tầng
đô thị thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn do xe máy và gần
đây là ô tô tăng lên rất nhanh đi kèm với ý thức chưa tốt của các cư dân Thủ đô.
Phần lớn đường phố Thủ đô hiện quá chật chội nhưng khó có thể mở rộng bởi
vướng nhà ở của dân cư. Bên cạnh đó, các nút giao thông, điểm giao nhau hầu hết
chưa đạt tiêu chuẩn, các bãi đỗ xe trong khu vực dân cư, bãi đỗ xe tự động thiếu
trầm trọng. Những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát triển thêm được trung bình 5 tới
10km đường mỗi năm. Nhiều trục đường của Thủ đô thiết kế chưa khoa học, không
đồng bộ và hệ thống đèn giao thông ở một vài điểm cũng chưa thật hợp lý. Thêm
nữa, hiện tượng ngập úng mỗi khi mưa lớn cũng gây khó khăn cho người tham gia
giao thông.
Công nghiệp và xây dựng đã và đang đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu
kinh tế của Thủ đô. Tuy nhiên, công nghiệp và xây dựng được phát triển nếu không
được quy hoạch một cách toàn diện và bền vững sẽ là một trong những nguyên
nhân gây ô nhiễm môi trường. Định hướng di dời các cơ sở ô nhiễm từ nội thành ra
ngoại thành, tập trung các cơ sở sản xuất vào các khu, cụm công nghiệp là một chủ

trương đúng đắn của chính quyền Thủ đô, tuy nhiên, việc thực hiện công tác này lại
này sinh không ít bất cập. Không kể đến việc quy hoạch không phù hợp với điều
kiện tự nhiên của Thủ đô, giai đoạn đầu, nhiều nhà máy, xí nghiệp được di chuyển
từ các quận nội thành ra khu vực vùng ven như Từ Liêm, Thanh Trì, Thanh Xuân,
Cầu Giấy thì đến thời điểm hiện nay, các cơ sở nêu trên lại nằm trong khu dân cư
gây bức xúc cho cộng đồng. Thêm vào đó, việc tập trung các cơ sở sản xuất vào các
khu, cụm công nghiệp làm gia tăng mức độ ô nhiễm cả về lượng và chất gây ô
nhiễm trong khi hạ tầng cơ sở (hệ thống giao thông, hệ thống cấp thoát nước, công
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

21
trình xử lý chất thải, ) của các khu, cụm công nghiệp này chưa đáp ứng cũng là một
trong nhiều nguyên nhân góp phần vào tình trạng ô nhiễm môi trường của Thủ đô.
1.2.4. Nông - lâm nghiệp và thủy sản
Phát triển nông lâm nghiệp và thủy sản hiện chỉ chiếm 5,8% trong cơ cấu của
nền kinh tế Hà Nội và chỉ đóng góp 0,5% trong mức tăng GDP chung của toàn Thủ
đô. Tính trong cơ cấu tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản, giá trị sản xuất
ngành nông nghiệp chiếm đến 94,8% giá trị, tiếp theo là thủy sản chiếm 4,7% giá
trị và lâm nghiệp chỉ chiếm 0,5% giá trị (Nguồn: Tình hình kinh tế xã hội Hà Nội
năm 2010)
Nếu chỉ tính trong cơ cấu giá
trị sản xuất nông nghiệp, hai lĩnh
vực trồng trọt và chăn nuôi cũng
chiếm phần lớn (lên đến 97,5%)
trong khi ngành dịch vụ chỉ chiếm
2,5% (biểu đồ).
Năm 2010, tổng diện tích
gieo trồng cây hàng năm toàn Thủ
đô là 317.576 ha, tăng 12,8%; vụ
Đông Xuân trồng được 193.752 ha,

tăng 24%; vụ Mùa toàn Thủ đô
trồng được 123.823 ha, giảm 1,2%.
Theo kết quả sơ bộ, sản lượng lương
thực cả năm toàn Thủ đô thu được
1.239,6 nghìn tấn, tăng 0,84% so với
năm 2009 (Hình 6).
Dịch vụ
2,5%
Trồng
trọt
44,8%
Chăn
nuôi
52,7%

Hình 6 - Cơ cấu giá trị nông nghiệp
(theo giá hiện hành) dự kiến thực hiện
cho năm 2009
Theo kết quả điều tra chăn nuôi thời điểm 1/10/2010 so với cùng kỳ, đàn trâu
toàn Thủ đô hiện có 26.900 con, giảm 4,97% ; đàn bò 184.642 con, giảm 7,1%;
tổng đàn lợn hiện có 1.625.165 con, giảm 3,38%; đàn gà, vịt, ngan, ngỗng hiện có
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

22
17.261 ngàn con, tăng 4,56%; sản lượng trứng gia cầm các loại đạt 583.520 ngàn
quả, tăng 19,38%.
Nông nghiệp được xác định không phải là nguồn gây ô nhiễm chính đối với
môi trường Thủ đô, tuy nhiên, với tổng lượng gia súc, gia cầm chăn nuôi lên đến
gần 20 triệu con thì chất thải, nước thải từ quá trình chăn nuôi, giết mổ nếu không
có biện pháp quản lý sẽ là nguồn gay ô nhiễm môi trường rất lớn khi các chất thải,

nước thải này được thải trực tiếp ra các nguồn nước mặt, nước ngầm và người dân
trồng trọt lại sử dụng chính nguồn nước này để tưới tiêu cho cây trồng.
1.2.5. Du lịch và dịch vụ
Ngành du lịch và dịch vụ đóng
góp phần lớn trong cơ cấu phát triển của
kinh tế Thủ đô (lên đến 52,4%) và đóng
góp 5,6% vào mức tăng chung của Thủ
đô Hà Nội. Tổng mức bán ra của ngành
lên đến trên 543.700 tỷ đồng với sự
đóng góp của các ngành thương nghiệp,
khách sạn – nhà hàng, du lịch và dịch
vụ (Hình 7).
Du lịch lữ
hành
0,32%
Dịch vụ
2,61%
Khách
sạn –
Nhà hàng
3,06%
Thương
nghiệp
94,01%

Hình 7 - Cơ cấu ngành thƣơng mại Thủ đô
chia theo ngành hoạt động năm 2009
Theo con số năm 2007, Hà Nội có 511 cơ sở khách sạn lưu trú với hơn
12.700 phòng đang hoạt động. Trong số này chỉ có 178 khách sạn được xếp hạng
với 8.424 phòng. Tình trạng thiếu phòng cao cấp là một trong những nguyên nhân

khiến lượng khách nước ngoài tới Hà Nội không cao. Với mức giá được coi là khá
đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất
thuê phòng các khách sạn 3-5 sao ở Hà Nội hiện dao động từ 80% đến 90%. Ngoài
9 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel,
Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza và Inter Continental, Thủ đô còn 6 khách sạn 4
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

23
sao và 19 khách sạn 3 sao. Theo các dự án mới được cấp phép và chấp thuận đầu tư
gần đây, đến năm 2010, Hà Nội sẽ có thêm khoảng 2.000 phòng khách sạn cao cấp.
Tính cho năm 2010, khối lượng hàng hóa vận chuyển tăng 30,3%; khối
lượng hàng hóa luân chuyển tăng 26%; doanh thu vận chuyển hàng hóa tăng 28,9%;
khối lượng hành khách vận chuyển tăng 36%; khối lượng hành khách luân chuyển
tăng 25,3%; doanh thu vận chuyển hành khách tăng 21,2% so với năm 2009.
Ngành du lịch và dịch vụ phát triển với hệ thống các nhà hàng, khách sạn và
cơ cở lưu trú không ngừng được mở rộng, khối lượng hàng hóa vạn chuyển tăng
đều thao các năm, đã góp phần không nhỏ trong thúc đẩy sự phát triển của Thủ đô
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy vậy, một vấn đề đặt ra đối với môi
trường Hà Nội trong thời gian gần đây là việc thực thi các chính sách nhằm đảm
bảo chất lượng môi trường đối với ngành dịch vụ và du lịch khi phần lớn các nhà
hàng, khách sạn đều không có hệ thống xử lý nước thải, chưa có hệ thống thu gom
chất thải, Mặc dù lưu lượng thải tương đối nhỏ nhưng số nguồn thải nhiều, thải
lượng các chất gây ô nhiễm lớn, nên các nguồn gây ô nhiễm môi trường này khi
được các cơ sở xả thải trực tiếp ra hệ thống thoát nước thải tập trung của Thủ đô, ra
môi trường tiếp nhận sẽ gây sức ép, là nguồn gây ô nhiễm môi trường nếu không
kịp thời quan tâm, quản lý
1.3. Các nghiên cứu đã thực hiện về chất lƣợng nƣớc hồ Hà Nội
Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng, 2010 /16/ đã tiến hành
phân tích chất lượng nước 120 ao hồ tại Hà Nội, bao gồm các thông số: nồng độ
oxy hoà tan (DO), nhiệt độ, nhu cầu oxy sinh hoá (BOD

5
), độ đôc, và chlorophyll –
a. Phần lớn các hồ bị ô nhiễm chất hữu cơ. 71% hồ có yếu tố sinh hóa vượt quá tiêu
chuẩn cho phép, trong đó 14% hồ ô nhiễm chất hữu cơ nặng, 25% hồ ô nhiễm nặng
và 32% có dấu hiệu ô nhiễm.
Việc so sánh đánh giá chất lượng nước hồ dựa vào Quy chuẩn Kỹ thuật
Quốc gia về chất lượng nước mặt, QCVN 08:2008/BTNMT, theo cột B1 đối với
nước dùng cho mục đích tưới tiêu thuỷ lợi hoặc các mục đích sử dụng khác có yêu
cầu chất lượng nước tương đương. Kết quả phân tích cho thấy, tất cả các hồ đều có
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

24
giá trị pH và nhiệt độ nằm trong giới hạn cho phép. Tuy nhiên, phần lớn các hồ các
chỉ tiêu còn lại không đạt yêu cầu; chỉ có 6 hồ mà tất cả các chỉ tiêu phân tích đạt
yêu cầu chất lượng với mức độ phát triển tảo thấp. BOD
5
thể hiện lượng oxy cần
cung cấp để oxy hoá các chất hữu cơ trong nước bởi vi sinh vật.
Kết quả phân tích cho thấy phần lớn các hồ bị ô nhiễm chất hữu cơ. Nguồn ô
nhiễm hữu cơ chủ yếu là từ nước thải sinh hoạt và một phần rác thải do người dân
thiếu ý thức xả thải xuống hồ. Có tới 71% hồ có giá trị BOD
5
vượt quá tiêu
chuẩn cho phép (> 15 mg/l); trong đó 14% hồ ô nhiễm hữu cơ rất nặng (> 100
mg/l); 25% hồ ô nhiễm nặng (BOD
5
từ 50-100 mg/l) và 32% có dấu hiệu ô
nhiễm ( Hình 8).









Hình 8 – Ô nhiễm các hồ thông qua giá trị BOD

Một thông số quan trọng khác để đánh giá mức độ ô nhiễm nước và khả năng
tự làm sạch của thuỷ vực là nồng độ oxy hoà tan (DO). Oxy hoà tan cần thiết cho sự
phát triển của các vi sinh vật, đặc biệt cho quá trình phân huỷ hiếu khí các chất hữu
cơ. Khi nước bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ dễ bị phân huỷ, lượng oxy hoà tan
trong nước sẽ giảm. Có tới 70% số lượng các hồ khảo sát có giá trị DO dưới tiêu
chuẩn cho phép (< 4mg/l); 6 hồ có nồng độ DO dưới 1mg/l, nghĩa là hầu như không
có sự sống của vi sinh vật.
Việc phân tích chất lượng nước các hồ Hà Nội cho thấy, các hoạt động của
con người như xả trực tiếp nước thải sinh hoạt, rác thải, lấp ao hồ…đã tạo ra những
Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

25
tác động tiêu cực tới hệ sinh thái ao hồ, phần lớn các hồ đều đã bị ô nhiễm hữu cơ
kèm theo hiện tượng phú dưỡng. Nếu không có những giải pháp tích cực từ phía
chính quyền và người dân trong việc bảo vệ, một số hồ ao có thể chết hẳn.
1.3.1. Cải tạo các hồ Hà Nội
Trước tốc độ xuống cấp nghiêm trọng của các hồ Hà Nội, năm 2009, Ủy ban
Nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành thí điểm công tác xử lý ô nhiễm đối với 7
hồ gồm: hồ Quỳnh, hồ Xã Đàn, hồ Ngọc Khánh, hồ Hai Bà Trưng, Ngọc Hà, hồ Dài
và hồ Kim Liên. Theo Trung tâm Quan trắc và Phân tích Tài nguyên Môi trường Hà
Nội, sau khi được xử lý đã giảm thiểu được tới 50% các thông số ô nhiễm môi
trường. Hiện nay, mặt nước hồ liên tục được giám sát để bổ sung các vi sinh vật,

khoáng chất giúp duy trì hiệu quả lâu dài công nghệ đang áp dụng (Bảng 4).
Bảng 4 - Tình hình cải tạo một số hồ trên địa bàn Thủ đô Hà Nội
TT
Quận
Số hồ
đã kè
Số hồ
chƣa kè
Số hồ có
hệ thống
xử lý nƣớc
thải
Số hồ
không cho
nƣớc thải
chảy vào hồ
Số hồ Công
ty thoát nƣớc
quản lý
1
Ba Đình
9
3

4
7
2
Hoàn Kiếm
1



1
1
3
Đống Đa
6
5
1
2
9
4
Hai Bà Trưng
6
1

2
6
5
Tây Hồ
1
19
1

1
6
Cầu Giấy
1
1



1
7
Thanh Xuân
3
5



8
Hoàng Mai
7
17


8
9
Long Biên

22


12
Tổng cộng:
35
75
2
9
45

(Nguồn: Chi cục Bảo vệ Môi trường Hà Nội, 2009) [3]

×