Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

rèn kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị luận cho học sinh trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.23 KB, 42 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1.Như chúng ta được biết hướng cải tiến chung của chương trình Sách giáo
khoa Ngữ văn hiện nay theo Bộ giáo dục và Đào tạo là giảm tải, tăng thực hành,
gắn với đời sống. Vì vậy, dạy và học trong nhà trường đang đứng trước yêu cầu
bức thiết đó là cần đổi mới toàn diện từ phương hướng, mục tiêu đến nội dung,
phương pháp dạy học. Đặc biệt, việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học
cần được tiến hành ở tất cả các cấp học, bậc học.
Chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở đã nêu lên mục tiêu khái quát:“Mụn
Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà
trường Trung học cơ sở, góp phần hình thành những con người có học vấn phổ
thông cơ sở…Đú là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu quý
trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới
những tỡnh cảm cao đẹp như lòng nhõn ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công
bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những người biết rèn luyện để có tính
tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân thiện mỹ
trong nghệ thuật, trước hết trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực tư
duy sáng tạo như một công cụ để tư duy giao tiếp. Đó cũng là những người có ham
muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc”.
Không nằm ngoài những mục tiêu trên và nhằm phát triển cao hơn những yêu cầu
được nhắc đến ở chương trình Trung học cơ sở, bộ Sách giỏo khoa Ngữ văn Trung
học phổ thông cũng đã đưa ra nội dung giảng dạy và học tập rất “thấu tình đạt
lớ” để giúp học sinh phát huy khả năng tư duy và vận dụng vào trong thực tế cuộc
sống sau này của chính các em. Trong đó, phân môn Tập làm văn chiếm một vị trí
đặc biệt quan trọng. Nú là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao thuộc liên
môn Văn và Tiếng Việt. Cái đích cuối cùng của phân môn này là


trang bị cho học sinh khả năng độc lập để viết một bài văn có chất lượng
cao. Muốn như vậy không có cách nào khả thi hơn ngoài việc đổi mới việc dạy học


trong nhà trường hiện nay.
1.2. Văn nghị luận có vai trò hết sức quan trọng trong sống xã hội cũng như
trong nhà trường. Thông qua các bài làm văn nghị luận, học sinh có điều kiện phát
huy tính tích cực chủ động sáng tạo, các em có dịp thể hiện năng lực tư duy, cảm
thụ và năng lực lập luận của mình. Đây cũng là những yêu cầu rất cần thiết để các
em làm hành trang bước vào cuộc sống.
Văn nghị luận nói chung có vai trò hết sức quan trọng như vậy, song trong
thực tế nhà trường phổ thông hiện nay phần lớn kĩ năng làm văn nghị luận của học
sinh còn rất kém, các em ít hứng thú trong việc rèn kĩ năng viết văn nghị luận,
trong các bài viết mắc khá nhiều lỗi. Một trong những lỗi bắt gặp ngay khi mở đầu
bài viết đó là các em còn lúng túng không biết làm thế nào để vào bài cho nhanh
mà vẫn đảm bảo đúng, hay và hấp dẫn. Quan tâm đến cách viết bài của học sinh từ
đó tìm ra các biện pháp, phương pháp hữu hiệu nhất giúp các em hoàn thành bài
viết của mình với kết quả cao nhất có thể là một việc làm có ý nghĩa thiết thực.
Mục đích chính yếu là nhằm rèn luyện nâng cao kĩ năng viết bài văn nghị luận cho
học sinh và góp phần vào nhiệm vụ chung của quá trình đổi mới phương pháp dạy
học văn. Cụ thể trong luận văn này chúng tôi chọn đề tài: “Rốn kĩ năng viết đoạn
mở bài trong bài văn nghị luận cho học sinh Trung học phổ thụng”
1.3. Không phải ngẫu nhiên Macxim Gorki đúc rút nên điều này: “ Khó hơn
cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu, cũng như trong âm nhạc, nú chi phối giọng
điệu của tác phẩm và người ta thường tìm nú rất lõu”. Làm việc gì cũng vậy, sự
khởi đầu luôn khiến chúng ta phải cân nhắc kĩ lưỡng trước khi bắt tay thực hiện
công việc ấy đến kết quả cuối cùng. Muốn có một bài văn nghị luận hay hoàn toàn
không nằm ngoài quỹ đạo của quá trình làm việc thông thường như đã nêu ở trên.


Sự khởi đầu của việc làm văn nghị luận là viết đoạn mở bài, còn được gọi
dưới cái tên như đặt vấn đề hay nêu vấn đề. Nhưng quả thực, việc khởi động này
cũng là việc khó khăn và gian nan nhất. Vì đoạn mở bài là căn cứ để đánh giá bài
làm có thu hút, sáng tạo và độc đáo hay không. Nằm ở vị trí đầu tiên trong bố cục

ba phần (mở bài, thân bài, kết bài) của một bài văn nói chung cũng như nghị
luậnnói riêng, đoạn mở bài thường tạo ấn tượng ban đầu về bài viết và giúp người
đọc cảm nhận trọn vẹn âm hưởng của toàn bài. Một đoạn mở bài gọn gàng, mạch
lạc sẽ thu hút được sự quan tâm của đông đảo người đọc. Bên cạnh đó, nú còn tạo
thêm hứng thú cho chính người viết. Ngược lại, người đọc mất cảm tình khi tiếp
xúc với một bài văn có đoạn mở bài mang biểu hiện của nhận thức hạn chế và lối
tư duy thiếu mạch lạc của người viết, thể hiện ở cách viết dài dòng, khô khan, lạc
đề, xa đề hoặc thiếu hấp dẫn. Từ tâm lí tiếp nhận không tốt, người đọc có thể mặc
nhiên quy kết rằng nội dung bài văn này kém chất lượng. Như vậy, đoạn mở bài là
một trong những bộ phận quan trọng cấu thành bài văn nghị luận.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học môn Làm văn nhằm tăng cường tính thực
hành, phát triển tư duy logic và sự sáng tạo độc đáo của mỗi học sinh Trung học
phổ thông, từ đó giỳp các em hình thành kĩ năng, kĩ xảo khi làm bài văn nghị
luận.Và mặc dù đã có trỡnh độ tư duy phát triển cao cũng như kĩ năng viết văn từ
Trung học cơ sở nhưng các em vẫn mất nhiều thời gian thậm chí khó khăn khi
muốn viết được một mở bài trôi chảy tạo nên sự khơi thông mạch văn toàn bài.
Vì vậy, nhằm củng cố lại kiến thức lí thuyết Làm văn các em đã được học từ
Trung học cơ sởtừ đó vận dụng một cách thành thạo vào việc thực hành, sáchNgữ
văn 12 nâng caođã đưa thành một tiết riêng đó là “Mở bài”. Yêu cầu bức thiết của
việc viết đoạn mở bài một cách nhanh chóng mà vẫn đạt yêu cầu nhằm giúp các
em có tâm thế vững vàng trước mỗi bài kiểm tra, bài thi học kì hoặc thi tốt nghiệp
và thi đại học…chỳng tôi chọn đề tài: “ Rèn


kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị luận cho học sinh Trung học
phổ thông ”.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Làm văn là môn học ứng dụng, thực hành có tính chất tổng hợp nhất, đặc
biệt với văn nghị luận, trong đó văn bản nghị luận văn học không chỉ là loại văn
bản thông thường mà nú còn có tính nghệ thuật. Nghệ thuật thuyết phục người đọc

của văn nghị luận không chỉ nhờ lập luận chặt chẽ mà còn khéo léo trong dẫn dắt
của người viết. Chính vì vậy, việc xây dựng cơ sở lí luận cho việc dạy văn nghị
luậnvô cùng bức thiết. Từ trước đến nay đã có nhiều quan điểm khác nhau của các
tác giả về kĩ năng viết đoạn mở bài.
Điểm qua một vài cuốn sách hướng dẫn giảng dạy Tập làm văn và hướng
dẫn Làm văn như: Phương pháp làm văn nghị luận (Thẩm Thệ Hà); Tài liệu
hướng dẫn học môn Làm văn (Nguyễn Quang Ninh); Giáo trình Làm văn (Đình
Cao, Lê A); Dàn bài Tập làm văn 12 (Trần Đình Sử, Phan Huy Dũng); Kĩ năng
làm văn nghị luận phổ thông (Nguyễn Quốc Siêu); 150 bài tập rèn luyện kĩ năng
dựng đoạn văn (Nguyễn Quang Ninh); Văn bồi dưỡng học sinh giỏi Trung học phổ
thông (Nguyễn Đăng Mạnh) Trong nhiều năm qua, những tài liệu nghiên cứu, tài
liệu chỉ đạo về phần này còn quá ít. Nếu có, những cuốn này chỉ mang tính chất
tham khảo cho giáo viên và học sinh. Thực tế cho thấy, đại đa số các cuốn sách đều
đã đề cập đến phần mở bài tuy chưa được sâu sắc và trọn vẹn như khi bàn về phần
thân bài.
Cuốn sách tiêu biểu thứ nhất viết về đoạn mở bài là Tài liệu hướng dẫn học
bộ môn làm văn (Nguyễn Quang Ninh). Tác giả xác định vị trí, yêu cầu của
phầnđặt vấn đề: “ Trong phần đặt vấn đề phải làm sao nêu được vấn đề một cách
ngắn gọn nhất, hấp dẫn và gây hứng thú cho người đọc, người nghe. Hơn nữa,
qua phần đặt vấn đề ngắn gọn phải nêu lên hướng giải quyết, phạm vi giải quyết
vấn đề, tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề để chuẩn bị tư tưởng cho người đọc
theo dõi phần nội dung.


Đó chưa kể một bài có phần đặt vấn đề tốt sẽ gây ấn tượng đẹp ban đầu cho
người đọc, người chấm”.[33,20]
Bên cạnh đó, tác giả còn nêu các bước tiến hành đặt vấn đề, gồm ba bước:
- Xác định vấn đề.
- Xác định phần dẫn dắt, chuyển tiếp vấn đề.
- Nêu tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề, phương hướng giải quyết vấn đề.

Cuốn sách tiếp theo dành sự quan tâm tới phần mở bài là Kĩ năng làm văn
nghị luận phổ thông của Nguyễn Quốc Siêu giới thiệu kĩ năng viết phần mở bài với
các cách sau: Từ một sự kiện tương đồng của vấn đề, từ việc trình bày bối cảnh mà
xác định luận đề, qua cách vấn thiết mà nêu vấn đề, dẫn danh ngôn đã nêu luận đề,
qua đối chiếu phải trái đã nêu vấn đề.
Một cuốn sách khác đã đóng góp không nhỏ trong việc hình thành kĩ năng viết
đoạn mở bài là 150 bài tập rèn kĩ năng dựng đoạn văn (Nguyễn Quang Ninh) qua
việc đưa ra hệ thống bài tập luyện dựng đoạn theo chức năng:
- Mở bài trực tiếp có hai cách: Mở thẳng vấn đề và mở trực tiếp có thêm phần
dẫn dắt (thời gian, không gian và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm).
- Mở bài gián tiếp: Mở bằng câu chuyện, mở bằng cách nêu câu hỏi, mở
bằng cách nêu sự kiện, con số.
Cuốn sách Văn bồi dưỡng học sinh giỏi Trung học phổ thông (Nguyễn Đăng
Mạnh) bàn luận khá kĩ về việc viết đoạn mở bài hay:“Trước hết muốn mở bài hay cần
hiểu rõ mục đích và nhiệm vụ của mở bài. Mục đích của mở bài là giới thiệu với bạn
đọc về vấn đề mà mình sẽ viết, sẽ bàn bạc, trao đổi hay miêu tả, kể lại. Viết mở bài
thực chất là trả lời câu hỏi: Ở bài viết này, mình định viết về điều gì?”… “Các cách
mở bài khác nhau chủ yếu ở phần dẫn dắt. Phần nêu vấn đề và phần giới hạn vấn đề
thường không thay đổi, vì mở bài theo kiểu gì thì ai cũng phải nêu được phần này.
Như thế cũng có nghĩa là, muốn viết được các mở bài khác nhau thì người viết chỉ
cần xác định rõ ba phần của đoạn mở bài,


giữ lại hai phần sau và thay đổi phần đầu là có thể có một mở bài khác. Nói
gọn lại cứ thay đổi phần dẫn dắt ta sẽ có một mở bài mới”.[27,87]
Những tài liệu trên cơ bản đã hình thành những lí thuyết chung về đoạn mở
bài. Tuy nhiên, cần thấy rằng cách tìm hiểu về phần mở bài như vậy vẫn chưa thật
toàn diện, chưa thật sâu sắc. Nội dung của những cuốn sách này chủ yếu vẫn thiên
về lí thuyết trừu tượng chứ chưa thực sự chú trọng hình thành các thao tác cụ thể
cho học sinh. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này trên cơ sở kế thừa và sáng tạo tất cả

những quan điểm đi trước, nhằm đóng góp một phần nhỏ trong việc xây dựng lí
thuyết Làm văn và hướng dẫn học sinh làm một số bài tập vận dụng những lí
thuyết đã đưa ra.
3. MỤC ĐÍCH NGHIấN CỨU
Nhằm giúp học sinh phát triển khả năng sản sinh văn bản, nâng cao năng lực
tư duy, năng lực khái quát tri thức cũng như năng lực sử dụng ngôn ngữ ở mức chủ
động sáng tạo. Chính vì vậy, trên phương diện tìm hiểu lí thuyết của việc rèn kĩ
năng viết đoạn mở bài cho bài văn nghị luận, luận văn này cụ thể húa tinh thần đổi
mới phương pháp dạy học trong nhà trường Trung học phổ thông để từ đó phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh trong hoạt động lĩnh hội tri thức về rèn luyện
kĩ năng tạo lập văn bản.
4. ĐỐI TƯỢNGNGHIấN CỨU
Đề tài chúng tôi xây dựng nhằm hướng hiệu quả đến việc làm của học sinh
Trung học phổ thông với sự phát triển toàn diện về nhận thức, phương pháp tư duy
và vốn hiểu biết. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận về
phương pháp dạy học Làm văn theo tinh thần đổi mới trong nhà trường hiện
nay.Những kiến thức lĩnh hội được thông qua sách vở và tài liệu tham khảo, qua
việc lên lớp của thầy cô cũng như sự tích luỹ của bản thân các em trong quá trình
tiếp xúc, giao lưu ngoài cuộc sống xã hội đủ điều kiện giúp các em viết đoạn mở
bài đúng, hay và nhanh chóng cũng như có thể làm những bài đòi hỏi sự sáng tạo
và độc đáo.


Do yêu cầu thực tế của đề tài là hướng dẫn học sinh nghiên cứu xây dựng kĩ
năng viết phần mở bài cho một bài văn nghị luận nên trong quá trình tiến hành,
ngoài việc cung cấp những lí thuyết khoa học còn hướng vào thực tiễn dạy học
phần mở bài nhằm hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh khi làm bài. Gớt đã bất
hủ với câu nói nổi tiếng “Lớ thuyết toàn là màu xám và cây đời mãi mãi xanh
tươi”. Những ví dụ và đề bài đều được rút ra từ các vấn đề gắn với chương trình
Trung học phổ thông để phục vụ cho việc làm bài kiểm tra, thi học kì, thi tốt

nghiệp và thi đại học.
Như chúng ta đã biết, bố cục một bài văn nghị luận thường có ba phần: Mở
bài(đặt vấn đề), thân bài (giải quyết vấn đề), kết bài (kết thúc vấn đề). Trong khuôn
khổ hạn hẹp của luận văn về điều kiện và khả năng, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu đoạn mở bài. Hi vọng rằng luận văn với những nội dung bao hàm trong
đó sẽ là tài liệu bổ ích cho những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu và hơn
hết làgiúp các em học sinh Trung học phổ thông có thể viết phần mở bài bài văn nghị
luận thành thục, đạt yêu cầu, hay và hấp dẫn.
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu việc luyện cho học sinh cách viết đoạn mở bài trong văn nghị luận được
tiến hành thường xuyên và có cơ sở khoa học thì chắc chắn việc rèn kĩ năng đó sẽ
góp phần nâng cao chất lượng học phần Làm văn, đặc biệt là viết đoạn vănnói
chung và đoạn mở bài nói riêng trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông,
phát huy cao độ tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc viết bài
văn nghị luận hoàn chỉnh đảm bảo đúng yêu cầu mà vẫn hay, thu hút và lôi
cuốn người đọc, người nghe.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIấN CỨU
Trong quá trình xây dựng đề tài, chúng tôi đã vận dụng nhiều phương pháp
dạy học tiếng Việt, dạy học Làm văn. Giữa các phương pháp có sự phối hợp
vớimức độ đậm nhạt và phân bố khác nhau ở từng phần. Dưới đây là một
số phương pháp nghiên cứu cơ bản nhất đã được chúng tôi vận dụng.


6.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Phương pháp phân tích ngôn ngữ dùng để nghiên cứu tài liệu trong quá
trình thực hiện đề tài. Với đề tài này, chúng tôi thu thập thông tin trên cơ sở
nghiên cứu văn bản, tài liệu đã có để rút ra những kết luận khoa học cần thiết.
Các văn bản, tài liệu xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài là các tài liệu ngôn
ngữ học, đặc biệt là các tài liệu về Làm văn và tâm lí dạy học.
6.2. Phương pháp khảo sát thực tế

Từ trước đến nay, chúng ta luôn đề cao mối quan hệ thiết thân giữa lí luận và
thực tiễn, trong đó, thực tiễn nắm vai trò cốt yếu trong quá trình nhận thức và hành
động.
Trên cơ sở những lí thuyết đã nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát thực
tế. Cụ thể, chúng tôi đã khảo sát một số lượng lớn những bài làm văn của học
sinhTrung học phổ thông, tập trung tìm hiểu sự đầu tư cho đoạn mở bài của các em
ở mức độ như thế nào. Qua việc làm này giúp chúng tôi nắm được những khó
khăn, vướng mắc cũng như những mặt còn hạn chế trong khi viết đoạn mở bài của
các em.
Như vậy, phương pháp khảo sát thực tế là tổ chức tiếp cận tri giác tìm hiểu
đối tượng trong thực tế, điều tra và tổng hợp các vấn đề thực tiễn có liên quan mật
thiết đến đề tài.
6.3. Phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê là phương pháp được sử dụng rộng rói trong ngôn ngữ học
cũng như trong phương pháp dạy.
Bằng thống kê có thể thấy được những sai sót thường gặp trong khi làm bài
của học sinh, từ đó tìm ra phương pháp khắc phục.
6.4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp tổ chức, triển khai giả thuyết
khoa học của đề tài vào giảng dạy thực tế nhằm kiểm tra, đánh giá một cách


khách quan tính khả thi của các vấn đề đưa ra và từ đó hiệu chỉnh lại nhằm
đạt được sự tin cậy và mang tính khoa học nhất nơi luận văn.
Phương pháp thực nghiệm có vị trí đặc biệt quan trọng của khoa học giáo
dục nói chung và phương pháp dạy Làm văn nói riêng. Có nhiều loại thực nghiệm
khác nhau: Thực nghiệm điều tra, thực nghiệm định hướng, thực nghiệm giảng
dạy, thực nghiệm kiểm tra…Chỳng tôi áp dụng phương pháp thực nghiệm ngay khi
đưa ra các dạng bài tập. Trước hết, chúng tôi tìm hiểu trình độ học sinh về kiến
thức, kĩ năng viết đoạn mở bài trong văn nghị luận, sau đó đề ra phương pháp thực

nghiệm cho từng đối tượng theo trình tự: Dạy lí thuyết, ra đề, đánh giá và thống kê
kết quả. Cuối cùng, chúng tôi có thể rút ra kết luận mang tính khách quan nhất về
quá trình nghiên cứu của mình.
6.5. Nhóm phương pháp giảng dạy bộ môn Tập làm văn
Đề tài nghiên cứu của chúng tôi cần thiết phải quan tâm đến các phương pháp
giảng dạy Tập làm văn bởi tính chất đặc thù của bộ môn chuyên ngành. Cấu trúc
toàn bộ luận văn có thể xem như một giáo án hoàn chỉnh để dạy học, chúng tôi tuân
thủ theo nguyên tắc giảng dạy gắn với tư duy, gắn bài giảng với giao tiếp (các phần
trình bày lí thuyết có thể xem là phần thuyết giảng với các phương pháp thông báo
– giải thích, các phần ví dụ áp dụng phương pháp dạy theo mẫu, các đề xuất, ý tưởng
là những tình huống gợi mở ).
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung luận văn gồm ba
chương:
Chương I: Các vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến việc tìm hiểu đoạn mở
bài trong văn nghị luận
Chương II: Rốn kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị luận cho học sinh
Trung học phổ thông
Chương III: Thực nghiệm sư phạm



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LIấN QUAN ĐẾN VIỆC TèM HIỂU ĐOẠN MỞ BÀI TRONG BÀI VĂN
NGHỊ LUẬN

1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học

Ngôn ngữ học văn bản là một bộ môn chuyên nghiờn cứu đặc điểm của văn
bản, kết cấu văn bản, các dạng thông tin của văn bản. Như chúng ta đều biết, quá
trình giao tiếp giữa người viết và người đọc là quá trình mã hóa (xây dựng) văn
bản, nói cụ thể ở đây chính là việc làm văn nghị luận trong nhà trường. Bởi vậy,
ngôn ngữ học văn bản được xem là một tiền đề lí thuyết quan trọng của môn Làm
văn. Viết đoạn mở bài là một phần của quá trình đó, chính vì vậy chúng ta một lần
nữa nhấn mạnh ngôn ngữ học văn bản là vấn đề lí luận đặc biệt quan trọng.
Văn bản nghị luận cũng giống như các loại văn bản khác, đó là cấu trúc gồm
ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Nhưng mục tiêu thực dụng của văn bản nghị
luận lại nhằm nêu ý kiến đánh giá bàn luận sự việc nào đó trong đời sống cũng như
văn học nghệ thuật. Mục đích giao tiếp của văn bản nghị luận là nhằm thuyết phục
người đọc, người nghe hiểu, tin và đồng tình với ý kiến của mình mà hành động
theo những gì mà mình đề xuất. Do đó, văn bản nghị luận có đặc trưng cơ bản về
mặt cấu trúc ngữ pháp, ngữ nghĩa là có tính chất cân đối, chặt chẽ giữa các phần
trong văn bản, từng phần trong văn bản lại có chức năng riêng phù hợp với mục
đích thuyết phục người khác của văn bản nghị luận (tính hoàn chỉnh, trọn vẹn của
một văn bản). Thêm nữa, văn bản nghị luận nhằm thuyết phục người đọc nên rất
chú ý đến lí lẽ và cách lập luận, người viết phải có thái độ và lập trường rõ ràng.


Căn cứ vào nội dung nghị luận, chia văn bản nghị luận thành hai loại: Nghị
luận xã hội và nghị luận văn học. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi quan
tâmđến cả hai loại trên song do điều kiện khách quan nên phần nhiều dẫn chứng
vẫn chủ yếu là văn bản nghị luận văn học dành cho học sinh Trung học phổ thông,
đặc biệt chú trọng trong mô hình của văn bản tối ưu.
1.2. Lí thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ
Một trong những quan điểm dạy học hiện đại là dạy tiếng theo quan điểm
giao tiếp. Giao tiếp được thực hiện bằng văn bản. Như vậy có thể nói rằng văn bản
là đơn vị giao tiếp cơ bản nhất của ngôn ngữ. Mặt khác, làm văn là sáng tạo, sản
sinh các loại văn bản. Từ đây, chúng ta nói thêm rằng: Làm văn chính là sáng tạo,

sản sinh các loại văn bản để giao tiếp. Việc dạy Làm văn chính là dạy cách tổ chức
giao tiếp bằng văn bản. Chúng ta nhận thấy một điều là việc Làm văn có quan hệ
với một lí thuyết khác bên cạnh lí thuyết về văn bản: Lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ không đơn thuần chỉ nhằm mục đích thông tin mà
chủ yếu là quá trình tác động tới người nhận về nhận thức, quan điểm, thẩm mĩ và
hành động. Không có một văn bản nào chỉ nhằm mục đích thông tin thuần tuý(hay
nói chính xác hơn là rất ít những văn bản chỉ nhằm mục đích thông tin) mà qua
thông tin để nhằm mục đích nhất định. Khi dạy Làm văn cũng vậy, giáo viên cần
dạy cho học sinh thấy rằng viết bài bên cạnh việc đưa thông tin còn phải chú ý lựa
chọn thông tin đó để làm gì, nhằm đạt mục đích gỡ…Và nhằm đưa người đọc vào
vấn đề cần bàn là việc người viết phải chú ý lựa chọn nội dung khi làm phần mở
bài.
Theo quan điểm giao tiếp, các yếu tố ngôn ngữ trong hoạt động hành chức
của mình luôn luôn là những yếu tố có sự biến động. Chúng có thể phát sinh đặc
tính mới, tăng cường thêm giá trị hoặc ngược lại cũng có thể thuyên giảm, rút bớt
giá trị mà chúng vốn có trong hệ thống. Sở dĩ có tình hình này là do trong giao
tiếp, một mặt là sự tác động qua lại giữa các yếu tố bên trong hệ


thống, mặt khác do các yếu tố này được lí giải hoàn toàn khác nhau ở những
người sử dụng khác nhau tạo nên. Chính vì vậy, trong hoạt động hành chức, nội
dung một văn bản thường được xác định từ hai góc độ: Thứ nhất, là sự xác định ý
nghĩa chung của sự kết hợp giữa các yếu tố ngôn ngữ đem lại; thứ hai, là việc xác
định từ sự hiểu biết văn bản ở người nhận đưa tới. Như vậy, một văn bản mã hoá
đúng quy tắc về ngữ pháp, ngữ nghĩa…là điều kiện cần thiết để đạt mục đích chứ
không phải là bản thân mục đích.
Từ cách hiểu trên, chúng ta khẳng định: Mỗi bài văn khi được xây dựng nên
phải nhằm mục đích nhất định, có nội dung xác định và phục vụ những đối tượng
giao tiếp cụ thể. Như vậy, bài văn của học sinh khép về mặt hệ thống cấu trúc
nhưng lại mở về mặt giao tiếp.

Một khâu quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc dạy tiếng theo quan
điểm giao tiếp là phải dạy học sinh lí thuyết cơ sở về đoạn văn (vì văn bản là một
hệ thống hoàn chỉnh gồm nhiều đơn vị liên kết với nhau tạo nên văn bản hoàn
chỉnh là đoạn văn). Từ đó, hướng dẫn các em phương pháp để thực hành rèn luyện
kĩ năng viết bài. Nói cách khác, dạy tiếng Việt và Làm văn là cung cấp cho các em
công cụ giao tiếp và rèn luyện kĩ năng giao tiếp.
Trong luận văn này, chúng tôi rất chú trọng nguyên tắc hướng vào hoạt động
giao tiếp. Do vậy, đề xuất đề tài: “Rốn kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn
nghị luận cho học sinh Trung học phổ thụng” tức là chúng tôi muốn hướng tới
việc rèn luyện kĩ năng đặt vấn đề trong giao tiếp bằng văn bản (cả văn bản nói
và văn bản viết) cho học sinh Trung học phổ thông.
1.3. Logic học
Mục đích của bất kì ngành khoa học nào cũng là phục vụ con người, bởi vậy
trong từng ngành đều cố gắng khám phá ra một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn các
lĩnh vực của hiện thực xã hội và tự nhiên. Trên bước đường phát triển của mình,
mặc dù mỗi ngành khoa học đều có đối tượng riêng, phương pháp nghiên cứu
riêng, cách thức thể hiện riờng…Nhưng chúng đều có một


cơ sở chung. Một trong những bộ môn khoa học nghiên cứu cơ sở chung này
chính là logic học.
Trước đây, nhiều người cho rằng các vấn đề về logic gắn liền với tất cả các
ngành khoa học nên sẽ quá rộng nếu coi logic học một trong những tiền đề lí
thuyết của việc Làm văn.
Gần đây, chúng ta lại nhận ra rằng, trên con đường xây dựng lí thuyết của
Làm văn, ngày càng nhiều vấn đề của Làm văn gắn liền với logic. Từ khâu ra đề
bài, chấm bài, rèn luyện kĩ năng, giảng dạy lí thuyết của giáo viên đến lập dàn ý,
dựng đoạn, viết bài…của học sinh. Ở đâu cũng cần sử dụng những hiểu biết về
logic học. Các thao tác tư duy được nghiên cứu trong logic học như: Suy diễn,
chứng minh, kiểm nghiệm, bác bỏ…đó và đang sử dụng triệt để trong Làm văn.

Không nắm được các thao tác tư duy, không nắm được những quy luật cơ bản của
logic học…khụng thể tạo dựng được bài văn chặt chẽ, mạch lạc về nội dung và rõ
ràng, trong sáng về diễn đạt. Vì vậy, việc coi logic học là một trong những tiền đề
của việc làm văn là hoàn toàn có cơ sở.
Các vấn đề của bài văn nghị luận mà chúng ta đang xét như tìm ý, lập dàn ý,
làm bố cục, viết bài…đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với lí luận về logic.
Khái quát nên cấp độ kiểu loại có thể rút ra nhận xét: “Lớ luận và tư duy logic là
đặc trưng nổi bật của văn nghị luận” (Tài liệu tham khảo hướng dẫn giảng dạy
Tập làm văn cấp 3 – phổ thông – tập 1). Bởi vậy, gắn với tư duy là nguyên tắc nổi
bật và hết sức quan trọng của bộ môn Làm văn. Tư duy sắc sảo sẽ giúp người viết
phân tích thấu đáo, cặn kẽ và khái quát đầy đủ chính xác thể hiện khả năng làm
chủ, kiến giải và xử lí vấn đề.
Sách Làm văn 12 nêu nhận định: “Nghị luận là vận dụng tư duy và ngôn
ngữ. Khoa học về tư duy là logic học, khoa học về ngôn ngữ là ngôn ngữ học.
Song không nhất thiết phải giỏi logic mới suy nghĩ đúng và phải thạo ngôn ngữ
mới nói viết tốt…Tuy vậy, cũng cần biết qua một vài thao tác chính của văn nghị
luận”. Thực tiễn giảng dạy cho thấy khi các em tư duy tốt


có quan hệ trực tiếp với các văn bản văn học– một trong những nội dung
quan trọng của việc Làm văn – vẫn là một tiền đề lí luận không thể thiếu trong lí
thuyết Làm văn.
Nhìn lại nội dung Làm văn ở nhà trường Trung học về mảng nghị luận văn
học, chúng ta thấy từ nhiều năm nay đều xoay quanh một số vấn đề như: Phân tích
nhân vật, phân tích cốt truyện, phân tích kết cấu, phân tích nghệ thuật… (Được gọi
chung là phân tích tác phẩm); phân tích các vấn đề văn học sử: Giai đoạn văn học,
quan điểm văn học, phương pháp sáng tỏc…Tất cả những vấn đề trên của lí thuyết
Làm văn gắn liền với các vấn đề lí luận văn học như: Nhân vật, cốt truyện, phương
pháp sáng tỏc…Để giải quyết tốt những vấn đề được đặt ra trong bài văn nghị luận
văn học, rõ ràng là cần phải nắm chắc những vấn đề lí luận văn học. Đây là tri thức

nền không thể thiếu đối với người viết văn bản nghị luận văn học. Thiếu những tri
thức này khi làm văn nghị luận thì chẳng khác nào việc chơi cờ mà“chưa sạch
nước cản”.
Đã nói đến làm văn nghị luận văn học là đụng chạm tới những thuật ngữ,
những khái niệm, những quan điểm, những lí thuyết…của lí luận văn học. Chỉ có
thể hiểu một cách đầy đủ, chính xác, rõ ràng những vấn đề cơ bản nhất của lí luận
văn học mới có cơ sở để làm bài tốt.
Như vậy, để có thể giải quyết được các vấn đề đặt ra trong một bài nghị luận
văn học, học sinh phải có những kiến thức tối thiểu về lí luận văn học. Những kiến
thức này sẽ giúp cho học sinh định hướng được nội dung viết, xác định được chính
xác vấn đề cần trình bày trong bài làm của mình. Nhưng cũng cần nhớ rằng bài làm
văn không phải là bài kiểm tra lí thuyết về lí luận văn học mà đó là sự vận dụng,
thể nghiệm những lí luận đã nắm được ở bộ môn lí luận văn học vào giải quyết
những vấn đề cụ thể được đặt ra. Chính vì đặc điểm này nên chúng ta có thể nói
rằng lí luận văn học là một tiền đề lí thuyết cho Làm văn – làm các văn bản văn
học.



phải hễ học được phương pháp là có thể yên tâm làm tốt ngay một bài văn
nghị luận. Điều cốt yếu là ý thức của người dùng nỏ, ý thức của người vận dụng
phương pháp. Nếu như sáng tạo văn chương là một hình thức lao động hết sức đặc
thù, tác phẩm văn chương là sản phẩm độc đáo của một cá nhân thì việc khám phá,
nghị luận về tác phẩm văn chương cũng thể hiện rất rõ màu sắc của một cá nhân.
Nói như thế nghĩa là đòi hỏi người viết bài văn nghị luận phải biết chủ động, linh
hoạt trong tiếp thu, trong vận dụng lí thuyết. (Lời đầu sách)
Văn nghị luận bao giờ cũng hướng tới mục đích làm sáng tỏ một vấn đề nào
đó nhằm thuyết phục người đọc, người nghe. Để đạt được mục đích đó, người viết
phải vận dụng nhiều thao tác tư duy, nhiều lí lẽ và thao tác nghịluận trong quá trình
làm bài.

Trong quá trình viết bài nghị luận văn học vẫn cần dùng những kiến thức xã
hội, chính trị, cũng như viết bài nghị luận xã hội vẫn có thể dùng kiến thức văn học
để minh họa. Tuy vậy hai loại này vẫn không thể lẫn lộn với nhau được. Khi đã lấy
đối tượng là một sự kiện chính trị – xã hội, thì dù có bao nhiêu thơ văn minh họa
vẫn không thể gọi đó là bài nghị luận văn học. [30,18]
Nghị luận xã hội là một loại hình văn bản rất quan trọng với học sinh. Bởi vì
sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông không phải ai cũng đi vào con đường văn
chương. Nhưng ai cũng phải đối diện với những vấn đề xã hội. Nhiều trường hợp
ta phải giải thích, chứng minh, phải thể hiện thái độ tư tưởng và tình cảm của mình
trước một vấn đề xã hội nào đó và phải thuyết phục một đối tượng nào đó theo lẽ
phải của mình. Do đặc điểm nội dung xã hội– chính trị, loại văn nghị luận xã hội
dùng các thao tác nghị luận chính là: Giải thích, chứng minh, bình luận. Ít có
trường hợp đề ra yêu cầu phân tích hay bình giảng.


lại những nỗi sợ hãi này. Đúng như Thế Lữ đã từng giải thích: “Sở dĩ Xuân
Diệu tham lam tình yêu, chất chứa vào lòng không chán, không đủ, không nguôi,là
bởi thi sĩ rất sợ cô độc” (Lời tựa tập Thơ thơ). Đó cũng chính là cội nguồn “niềm
khát khao giao cảm với đời” của toàn bộ hồn thơ Xuân Diệu”.
Mở bài 2: “Cú lẽ một trong những cội nguồn của sáng tạo thơ ca là người
nghệ sĩ luôn cảm thấy tâm hồn mình cô đơn. Thơ đối với họ là những tiếng vang
lên để tìm kẻ tri âm. Ở Xuân Diệu, trước cách mạng, nỗi cô đơn ấy sừng sững
thành một khối cô độc, luôn ám ảnh trước mắt ông. Vì thế, Xuân Diệu gửi vào thơ
tiếng nói khao khát sống, khao khát yêu của trái tim mình. Có người bảo Xuân
Diệu muốn hưởng lạc. Không! “Sở dĩ Xuân Diệu tham lam tình yêu, chất chứa
trong lòng không chán, không đủ, không nguôi là bởi thi sĩ rất cô độc” (Thế Lữ -
tựa cho tập Thơ thơ). Đó cũng chính là cội nguồn “niềm khát khao giao cảm với
đời” của toàn bộ hồn thơ Xuân Diệu”.[27, 90]
Hai mở bài trên cùng viết cho một đề tài. Mỗi mở bài có một cách dẫn dắt vấn
đề độc đáo, tự nhiên không giống nhau, tạo nên giọng điệu riêng của mỗi bài viết. Cả

hai bài đều được đánh giá là hay và hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Một mở bài hay cần tránh:
1) Tránh dẫn dắt vòng vo quá xa mãi gắn được vào việc nêu vấn đề.
2) Tránh ý dẫn dắt không liên quan gì đến vấn đề sẽ nêu.
3) Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, có gì nói hết luôn rồi thân bài lại
lặp lại những điều đã nói ở mở bài.
Một mở bài hay cần phải:
1) Ngắn gọn: Dẫn dắt thường vài ba câu, nêu vấn đề một vài câu và giới hạn
vấn đề một câu.
2) Đầy đủ: Đọc xong mở bài, người biết được bài viết bàn về vấn đề gì?
Trong phạm vi nội dung tư liệu nào? Thao tác chính vận dụng ở đây là gì?
3) Độc đáo: Mở bài phải gây được sự chú ý của người đọc với vấn đề mình
sẽ viết. Muốn thế phải có cách nêu vấn đề khác lạ. Để tạo nên sự khác lạ


- Câu (3): Từ nhận định khả năng miêu tả con người ở câu (2), người viết
giới thiệu một hệ thống nhân vật điển hình trong Truyện Kiều.
3.2.2. Mở bài theo kiểu quy nạp
Mở bài theo kiểu quy nạp tức là nêu lên những ý nhỏ hơn vấn đề đặt ra trong
đề bài rồi tổng hợp lại thành vấn đề cần nghị luận.
Ví dụ:
Đề bài: Suy ngẫm của bạn về lòng dũng cảm.
Mở bài: (1)Mấy tháng trước, đài báo đưa tin về một anh thanh niên tay không
săn bắt cướp ở Thành phố Hồ Chí Minh mà không cần gia nhập một tổ chức công
an hay dân phòng nào, cũng không phải để lấy thù lao hay ơn huệ. (2) Hàng ngày
chúng ta vẫn nghetin có những bạn trẻ nhảy xuống sông cứu người sắp chết đuối,
có những tình nguyện viên không quản ngại gian khổ nguy hiểm đến với các bệnh
nhõn trại phong, vào các bệnh viện truyền nhiễm hoặc đến với đồng bào dân tộc
miền núi cần sự giúp đỡ… (3)Và với những nghĩa cử cao đẹp đó chúng ta gọi họ là
những con người có lòng dũng cảm ”.

Mở bài trên viết theo kiểu quy nạp:
- Câu (1), (2): Đưa ra những tấm gương không quản ngại khó khăn, gian khổ
thậm chí sẵn sàng hi sinh tính mạng để cứu người.
- Câu (3): Khái quỏt những hành động cao cả đó trong khái niệm lòng dũng
cảm.
3.2.3. Mở bài theo kiểu tương liên (tương đồng)
Mở bài theo kiểu tương liên là mở bài bằng cách bắt đầu nêu lên một ý
tương tự hoặc có liên quan với ý của luận đề, có tác dụng gợi ra sự liên tưởng rồi
chuyển sang luận đề.
Ví dụ:
Đề bài: Phân tích bài thơ “Tỡnh ca ban mai” của Chế Lan Viên.
Mở bài:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con súng nhỏ


Trong luận văn này, chúng tôi cung cấp đầy đủ lượng kiến thức về khái niệm,
cách thức, thao tác để viết các dạng mở bài khác nhau. Qua đó, rèn luyện kĩ năng viết
đoạn mở bài trong văn nghị luận cho học sinh Trung học phổ thông.
Có thể cung cấp lí thuyết Làm văn cho học sinh theo những phương pháp
sau đây:
4.1.1. Phương pháp thông báo – giải thích
Phương pháp này được hiểu là quá trình điều khiển học sinh hoạt động để
phát hiện lại những tri thức đã được các nhà Việt ngữ khẳng định mà không phải
bản thân các em phải phát hiện ra điều gì mới mẻ. Đây chính là một cách thức tiếp
thu tri thức của con người. Hiện nay, có một số ý kiến cho rằng phương pháp này
không phát huy được vai trò trung tâm, chủ động và sáng tạo của học sinh. Nhưng
trên thực tế, phương pháp truyền thống đó vẫn còn có hiệu quả. Áp dụng giảng dạy
theo phương pháp thông báo – giải thích, người thầy giáo có điều kiện cung cấp
cho học sinh những mẫu lời nói thông qua lời thuyết minh, giải thích của mình. Từ

đó, học sinh tự chủ động vận dụng lí thuyết đã được trau dồi vào việc thực hành.
Chúng tôi vận dụng phương pháp này để hình thành các khái niệm liên quan
đến đặc trưng, chức năng của đoạn mở bài.
Phương pháp này sẽ giúp các em đến thẳng những lí thuyết cần nắm, tiết
kiệm thời gian. Nhưng chúng ta không nên quá lạm dụng phương pháp đó vì nú dễ
dẫn đến sự thụ động của học sinh, biến giờ dạy học thành giờ diễn thuyết, độc
thoại của người thầy giáo. Phương pháp thông báo – giải thích phù hợp để dạy các
đơn vị kiến thức phụ, kiến thức triển khai cho kiến thức cơ bản, giới thiệu chủ
điểm của bài học, giao và giải thích nhiệm vụ (bài tập về nhà). Muốn vậy, người
giáo viên phải xác định được các đơn vị kiến thức với những mức độ quan trọng
không giống nhau. Biết sử dụng phương pháp này đúng liều lượng, luôn thay đổi
hình thức giờ học, là thời cơ để cung cấp


thời kì chống Pháp. (3)Thông qua số phận của A Phủ và Mị, nhà văn Tô
Hoài đã đem lại cho chúng ta một sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tội ác của
bọn thực dân Pháp, của bọn địa chủ phong kiến, cũng như về đời sống tăm tối, khổ
nhục của những người dân lao động Mèo trên núi cao vùng Tây Bắc. (4)Từ thân
phận nghèo khổ và sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi con người lao động ở đây, tác
phẩm đã thể hiện một cách chân thực, sinh động quá trình thức tỉnh, con đường
đến với cách mạng và trở thành lực lượng đáng tin cậy của Đảng trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp của người nông dân miền núi.(5)Qua tác
phẩm ca ngợi ý nghĩa nhân đạo đẹp đẽ của sự nghiệp giải phóng con người ra
khỏi ách áp bức bóc lột”.[39, 144]
Đây là đoạn mở bài viết theo kiểu trực tiếp có thêm phần dẫn dắt
- Câu (1), (2): Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác tác phẩm.
- Câu (3), (4), (5): Là những câu nêu vấn đề.
Để viết được mở bài này có thể tiến hành theo các bước sau:
- Bước 1: Trình bày sơ lược về tiểu sử tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm (nếu có).

- Bước 2: Nêu vấn đề (tức là nêu nội dung vấn đề sẽ được trình bày ở thân
bài). Khi nêu vấn đề có thể sắp xếp theo một trật tự nhất định để khi triển khai
người viết nhấn mạnh vào vấn đề nào là then chốt.
- Bước 3: Xác định thể loại và phạm vi đề bài (bước này có thể có hoặc
không). Bước này đóng vai trò liên kết, chuyển tiếp nội dung từ mở bài sang thân
bài.
* Bài tập luyện tập: Viết đoạn mở bài trực tiếp có dẫn dắt cho các đề bài sau:
Đề bài 1: Bình giảng đoạn văn tả vầng trăng trên cánh rừng già và vẻ đẹp
nhân vật Nguyệt dưới ánh trăng trong truyện ngắn “Mảnh trăngcuối rừng” của
Nguyễn Minh Châu.
Gợi ý làm bài:


Đề bài 2: Nhà văn Nga Lép Tôn – xtụi nói: “Lớ tưởng là ngọn đèn chỉ
đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có
phương hướng thì không có cuộc sống”. Phát biểu suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề
này.
Gợi ý làm bài:
- Liên tưởng những trải nghiệm của chính bản thân nhà văn Lép Tôn – xtụi
đã cố gắng để đạt lí tưởng trong cuộc sống.
- Chính những trải nghiệm đó đã dẫn đến lời phát biểu như trong đề bài đưa
ra.
a
5
) Viết đoạn mở bài theo kiểu tương phản
Ví dụ:
“Nói đến Tú Xương, người ta thường nghĩ đến một nhà thơ trào phúng với
một giọng thơ châm biếm gay gắt, quyết liệt và dữ dội. Giọng thơ ấy thể hiện một
tâm trạng uất ức, một thái độ khinh ghét của nhà thơ đối với hiện thực xã hội lúc
bấy giờ. Nhưng sẽ là chưa đủ, nếu không thấy bên cạnh một Tú Xương quyết liệt,

dữ dội trong châm biếm trào phúng, còn có một Tú Xương da diết và đằm thắm
trong trữ tình. Bài thơ “Thương vợ” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho
khuynh hướng thứ hai này”.
Đoạn mở bài trên viết theo kiểu tương phản
Ở đây người viết nêu sự đối lập “quyết liệt dữ dội” với “da diết
đằmthắm”trong thơ Tú Xương. Vấn đề đặt ra là bài thơ trữ tình của Tú Xương và
cụ thể là bài thơ “Thương vợ”.
Đối với kiểu mở bài này, ta tiến hành theo các bước:
- Bước 1: Nêu nội dung khái quát về phong cách tác giả, hoặc giá trị nội
dung mang tính chất bao trùm trong sáng tác của chính tác giả đó hoặc giai đoạn
văn học đó.
- Bước 2: Tìm và lựa chọn những luận điểm có nội dung ngược với nội dung
mà đề bài bàn đến. Ở bước này thể hiện tính đặc thù của lối viết, do đó


chi chít những dấu chân, con đường vang vọng “tiếng trống thu không của
cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”, con đường đến
với Hai đứa trẻ”.[27,225]
Những câu hỏi nêu ra trong đoạn mở bài trên là những câu hỏi tu từ (không
nhất thiết phải trả lời) mà nú được nêu ra để dẫn dắt.
Vậy để viết được đoạn mở bài theo lối nêu câu hỏi được tiến hành theo các
bước sau:
- Bước 1: Người viết phải chủ động đề xuất câu hỏi sao cho phù hợp và sát
thực với trọng tâm của vấn đề.
- Bước 2: Trả lời câu hỏi (hoặc nêu định hướng trả lời) để nhằm dẫn dắt
người đọc đến với vấn đề chính được nêu ở đề bài.
- Bước 3: Khẳng định vấn đề dựa trên kết quả của việc phân tích dẫn dắt đâu
là bước cuối cùng nhưng cũng là bước nêu vấn đề của bài làm. Do vậy nú đòi hỏi
người viết phải lựa chọn nội dung sao cho phù hợp sát thực với nội dung cần trình
bày.

* Bài tập luyện tập: Viết mở bài gián tiếp theo kiểu đặt câu hỏi (nghi vấn)
cho các đề bài sau:
Đề bài 1: Nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: “Tỏc phẩm văn học lớn hấp dẫn
người ta bởi cái nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai
cũng biết cả rồi”. Anh (chị) hãy bình luận câu nói và phân tích sức hấp dẫn của
một vài tác phẩm văn học mà anh (chị) cho là tác phẩm lớn.
Gợi ý làm bài:
- Theo cách nghĩ thông thường thì một tác phẩm hấp dẫn phải có đề tài lớn
lao, cốt truyện li kì, những sự lạ lẫm, những tình huống éo le ngang trái trên đời…
(đặt câu hỏi nghi vấn vào quan điểm này).
- Phủ nhận quan niệm trên nếu nêu ra được vấn đề cần bàn (trích câu nói của
Nguyễn Đình Thi).


Các phương tiện truyền thông và truyền
miệng luôn đưa lời khuyên “xưa như
trái đất” : Các quý ông hãy chừa rượu!
Còn ma tuý thì được hình dung như một
“tử thần” với con người. Thế nhưng tại
sao con người vẫn hàng ngày tìm đến
rượu, ma tuý và thuốc lá như tìm đến
người bạn không thể thiếu trong cuộc
viễn du và chưa bao giờ con người dứt










bỏ được chúng?”
Mở bài trên nêu lên vấn đề gì?
HS: Trả lời.
GV: Qua ví dụ trên em hãy cho biếtmục
đích của một mở bài là gì?








GV: Cũng dựa vào ví dụ trên em hãy
cho biết trọng tâm vấn đề cần bàn bạc ở
mở bài này?
HS: Trả lời.
GV: Đây là mở bài nghị luận về một





- Giới thiệu một cách khái quát với
người đọc vấn đề sẽ viết, sẽ trao đổi, sẽ
bàn bạc.
- Viết mở bài thực chất là trả lời câu
hỏi: Ở bài viết này, cần viết về điều

gì,cần trao đổi và làm sáng tỏ vấn đề
gì?

c. Cấu trúc thông thường của một mở
bài







1. Lê Thị Diệu Hoa – Ôn luyện kiến thức và bài tập rèn kĩ
năng Ngữ văn 12 – NXB Giáo dục, 2008
2. Bùi Văn Huệ - Giáo trình tâm lí học – NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2001
3. Đoàn Trọng Huy, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Đăng Mạnh,
Trần Đình Sử, Trần Hữu Tá – Ôn thi văn học, tập 2 – NXB
Đại học Sư phạm Hà Nội, 1984
4. Lê Quang Hưng - Đến với tác phẩm văn chương – NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007
5. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hoà – Phong
cách học tiếng Việt – NXB Giáo dục
6. Nguyễn Văn Long, Chu Văn Sơn – Giảng văn văn học
Việt Nam hiện đại – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000
7. Đỗ Luận – 27 bài làm văn 12 – NXB Trẻ, 2004
8. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng,
Trần Thế Phiệt –Phương pháp dạy học văn – NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1998
9. Phan Trọng Luận – Phương pháp dạy học văn, tập 2 –

NXB Đại học Quốcgia Hà Nội, 2007
10. Lê Đình Mai - Để làm tốt các kiểu bài văn nghị luận
PTTH – NXB Giáo dục, 1994
11. Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Lưu Oanh, Nguyễn Quang
Trung – Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 12 – NXB
Giáo dục, 2000
12. Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống – Văn bồi dưỡng
học sinh giỏi THPT – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002
13. Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống, Hà Bình Trị, Chu
Văn Sơn – 217 đề và bài văn – NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2003
14. Nguyễn Đăng Mạnh – Kinh nghiệm viết văn – NXB Giáo
dục, 2005
15. Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống, Lưu Đức Hạnh -
Muốn viết được bài văn hay – NXB Giáo dục, 2006


1. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Văn Giá, Lê Quang Hưng,
Đỗ Ngọc Thống, Nguyễn Văn Tùng – Cẩm nang ôn luyện
môn văn – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006
2. Đoàn Thị Kim Nhung, Phan Thị Nga – Rèn kĩ năng làm
văn nghị luận (dành cho lớp 7, 8, 9) – NXB Đại học Quốc
gia Tp Hồ Chí Minh, 2006
3. Nguyễn Quang Ninh – Tài liệu hướng dẫn học bộ môn
Làm văn (dùng cho sinh viên đại học hệ vừa học vừa
làm) – NXB Giáo dục, 1981
4. Nguyễn Quang Ninh – 150 bài tập rèn luyện kĩ năng dựng
đoạn văn – NXB Giáo dục, 1993
5. Nguyễn Quang Ninh – Quan điểm giao tiếp và việc dạy
Làm văn - Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 1, 1995

6. Nguyễn Quang Ninh, Nguyễn Thị Ban, Trần Hữu Phong -
Luyện cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh
phổ thông – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000
7. Nguyễn Quang Ninh – Văn ôn thi đại học – NXB Đại học Sư
phạm, 2006
8. Nguyễn Ngọc Phúc – Rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm
văn nghị luận –Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 11, 1980
9. Bảo Quyến – Rèn kĩ năng làm văn nghị luận – NXB Giáo
dục, 2001
10. Nguyễn Đức Quyền – Những bài làm văn đạt giải qua các
kì thi học sinh giỏi văn toàn quốc lớp 12 – NXB Trẻ, 1996
11. Nguyễn Quốc Siêu – Kĩ Năng làm văn nghị luận phổ
thông – NXB Giáo dục, 2001
12. Trần Đình Sử, Phan Trọng Luận, Nguyễn Minh Thuyết
– Làm văn 12 – NXB Giáo dục, 1994
13. Trần Đình Sử (tổng chủ biên) – Ngữ văn 10 nâng cao – NXB
Giáo dục, 2008

×