Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

phân tích và làm rõ sự sáng tạo của hồ chí minh trong quan điểm về sự ra đời của đảng cộng sản việt nam về vai trò của đảng trong tiến trình cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.45 KB, 14 trang )




Danh sách thành viên nhóm


1. Lý Thị Phương Anh
2. Lê Thị Thuỳ Dung
3.Đặng Thị Hoà
4. Vương Thị Thanh Hương
5. Nguyễn Thị Lý
6. Phạm Thị Thuý Nga
7. Bế Thị Mai Phương













LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mac - Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp,
quyếtđịnh bản chất tưtưởng Hồ Chí Minh. Ngườiđã khẳngđịnh: “ Chủ nghĩa Mac -
Lênin đối với chúngta, những người cách mạng và nhõn dõn Việt Nam, không
những là cái cẩm nang thần kỳ, không những là kim chỉ nam mà cũn là mặt trời soi


sáng con đườngchúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi
tới chủ nghĩa xó hội và chủ nghĩa cộng sản”.
Vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lênin
vềĐảng Cộng Sảnứng vớitrường hợp củađất nước ta, Hồ Chí Minh đãđưa ra
quan điểmvề sự ra đời và vai trò củaĐảng Cộng Sản trong tiến trình cách mạng,
góp phần vào sự thắng lợi củacách mạng giải phóng nước nhà.
Để làm rừ hơn điều này, nhúm thảo luận chúng em xin trình bàyđề tài: “ Phân tích
và làm rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm về sự ra đời của Đảng
Cộng Sản Việt Nam; về vai trò của Đảng trong tiến trình cách mạng”.













SỰ SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG
QUANĐIỂMVỀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VÀ VAI TRề CỦA ĐẢNG TRONG TIẾN
TRèNH CÁCH MẠNG
1. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu đưa cách mạng
Việt Namđi đến thắng lợi
Để đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cần phải có nhiều nhân tố, yếu tố như
phải có đường lối cách mạng đúng, phải động viên được lực lượng của toàn dân

thực thi đường lối,v.v Nhưng muốn xây dựng được đường lối cách mạng đúng,
muốn vận động và tổ chức được nhân dân thực hiện đường lối đó thì phải có Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Trong tác phẩm Đường cách mệnh 1927, Hồ Chí Minhkhẳng
định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng
có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy”.
Luận điểm trên của Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng; Đảng phải tập hợp, là người cầm lái, là người dẫn đường.
Đầu thế kỷ XX, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhiều phong trào yêu
nước, các tổ chức chính trị đấu tranh chống thực dân Pháp đều bị thất bại; do chưa
có đường lối lãnh đạo đúng đắn:
+ Sự thất bại của phong trào Cần Vương (Tôn Thất Thuyết lãnh đạo)
chứng tỏ giai cấp phong kiến không có khả năng lãnh đạo cách mạng.
+ Sự thất bại của khởi nghĩa Yên Thế ( Hoàng Hoa Thám) chứng tỏ giai
cấp nông dân không có khả năng lãnh đạo

+ Sự thất bại của các phong trào dân chủ tư sản ( phong trào Đông Du,
Duy Tân, Đông kinh nghĩa thục…) chứng tỏ giai cấp tư sản, tiểu tư sản không có
khả năng lãnh đạo
+ Việt Nam quang phục hội, Việt Nam Quốc dân đảng
Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, là Đảng Cách
mệnh duy nhất có thể đảm đương được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi
đến thắng lợi.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lê
Nin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam( Đõy là một trong
những luậnđiểm sáng tạo của Hồ Chí Minh).
Sự ra đời của Đảng Cộng sản phản ánh cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
đến thời kỳ tự giác. Theo Lênin một Đảng Cộng Sảnra đời gồm 2 yếu tố: chủ nghĩa
Mác và phong trào công nhân. Đó là quy luật ra đời chung của các Đảng

Cộng Sản ở châu Âu; do đặc điểm chung của giai cấp công nhân là một lực lượng
xã hội tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, sống tập trung, tổ chức
kỷ luật cao, tinh thần cách mạng triệt để.
Song ở mỗi nước sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử được thực hiện
bằng con đường riêng biệt, tựy theo điều kiện không gian và thời gian.Việt Nam là
một quốc gia dân tộc được hình thành từ rất sớm, có nền văn hiến lâu đời, trong đó
yêu nước là truyền thống quý báu nhất và đặc sắc nhất.Đó là dòng chảy xuyên
suốt lịch sử Việt Nam và có trong tất cả giai cấp, tầng lớp. Hồ Chí Minh đã sớm
nhận ra được chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước.
Thực hiện hoài bão cứu nước cứu dân, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác- Lê
nin đi theo con đường cách mạng vô sản, chuẩn bị thành lập Đảng
Cộng SảnViệt Nam để tổ chức và lãnh đạo nhân dân giành độc lập tự do. Theo
Hồ ChíMinh, Đảng CộngSản ViệtNam ra đời 3/ 2/ 1930 là sản phẩm

sự kết hợp của ba yếu tố: chủ nghĩa Mác- Lê nin, phong trào công nhân và phong
trào yêu nước.
Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác- Lê nin đối với cách mạng
ViệtNam và đối với quá trình hoàn thành Đảng Cộng Sản ViệtNam.
Đồng thời, Người cũng đánh giá rất cao vị trí, vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam trong sắp xếp lực lượng cách mạng Việt Nam xã hội nửa thuộc địa,
nửa phong kiến chưa có độc lập chủ quyền, nông nghiệp lạc hậu. Giai cấp công
nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp và nằm
trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công nhân đầu
tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công
nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước ta.
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp công nhân
đã hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát
triển nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên hơn 22 vạn (năm
1929), trong đó có hơn 53. 000 công nhân mỏ (60% là công nhân mỏ than) và 81.
200 công nhân đồn điền. Hơn thế nữa, giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc

điểm khác biệt với giai cấp công nhân quốc tế như: phải chịu ba tầng lớp áp bức
bóc lột (đế quốc, phong kiến, tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nông dân bị bần
cùng húa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp
công nhân ViệtNamra đời trước giai cấp tư sản dân tộc nên nội bộ thuần nhất,
không bị phân tán về lực lượng và sức mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có
truyền thống văn húa tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, sớm
tiếp thu được tinh hoa văn húa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách
mạng vô sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.

Sở dĩ phong trào yêu nước là điều kiện đủ để cho Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời
là vì:
+ Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân Việt Nam còn
non trẻ, số lượng chỉ chiếm 1% số dân, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp,đa
phần làxuất thõn nông dõn, họ chủ yếu làm thuê trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền, do đó phong trào công nhân đầu thế kỷ XX chưa đủ mạnh.
+ Phong trào yêu nước đã hình thành rất sớm trong lịch sử dân tộc và được thử
thách qua ngàn năm lịch sử, có vai trò cực kỳ to lớn, là nhân tố chỉ định quyết định
sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta. Phong trào yêu nước có trong phong
trào công nhân, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta thì phong trào yêu nước của
nhân dân ta dâng lên mạnh mẽ thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Phong trào
yêu nước trở thành giá trị văn hoá tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam.
+ Phong trào công nhân phối hợp với phong trào yêu nước vì có mục tiêu chung là
giành độc lập dân tộc và có chung kẻ thù.
Khi giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và có phong trào đấu tranh kể cả đấu
tranh kinh tế và sau này đấu tranh chính trị thì phong trào công nhân kết hợp được
ngay từ đầu, lên tục chặt chẽ với phong trào yêu nước. Và cơ sở của vấn đề này là
do xã hội nước ta thuộc mẫu thuẫn cơ bản giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn
đế quốc, tay sai, vì vậy giữa 2 phong trào này có một mục tiêu chung, nhu cầu
chung, giải pháp dân tộc làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập xây dựng đất
nước hùng cường.

Hơn nữa chính bản than phong trào công nhân mang tính chất của phong trào yêu
nước, vì phong trào đấu tranh của công nhân không những chống lại ách áp bức
giai cấp mà còn chống lại ách áp bức dân tộc.

Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân: Nông dân chiếm hơn 90%
dân số, là đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân. Giai cấp nông dân có truyền
thống đấu tranh kiên cường bất khuất, là lực lượng to lớn nhất, một lực lượng cách
mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông dân khi được tổ chức lại và dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân- đội tiên phong cách mạng sẽ phát huy vai trò cực kỳ quan
trọng của mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đầu thế kỷ XX do điều kiện
lịch sử chi phối không có công nhân nhiều mà họ xuất thân trực tiếp từ người dân
nghèo. Do đógiữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mặt quan hệ
chặt chẽ với nhau. Giai cấp công nhân và nhân dân hợp thành quân chủ lực của
cách mạng.
+ Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết
hợp các yếu tố cho sù ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Tuy số lượng không nhiều nhưng trí thức được coi là ngòi nổ cho các phong trào
yêu nước với bầu nhiệt huyết, yêu nước thương nòi căm thù bọn cướp nước và bán
nước, họ nhạy cảm với cuộc đời do vậy họ chủ động và có cơ hội đón nhận những
“luồng gió mới” về tư tưởng của tất cả các trào lưu thế giới dội vào Việt Nam.
Đảng ra đời đã chấm dứt thời kì khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và
đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Sự kiện đó
chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành “ đủ sức lãnh đạo cách
mạng”. Đảng ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Với
cương lĩnh đúng đắn, Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi
của cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến
thắng lợi trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ra đời,
cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam


nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn cho
cách mạng thế giới.
3. Đảng Cộng Sản ViệtNam là " Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là
đảng của dân tộc Việt Nam"( Luậnđiểm mang
tớnh chất sáng tạo của Hồ ChíMinh).
Đảng Cộng sản Việt Namlà Đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp
công nhân. Trong quá trình phát triển, dù tên gọi (Đảng Cộng sản, Đảng Lao
động), Đảng ta luôn luôn mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp
công nhân của Đảng thể hiện ở chỗ: mục tiêu, lý tưởng của Đảng là chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lờnin
và tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung dân
chủ; Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng; lấy phê bình và tự phê bình làm quy
luật phát triển…
Tuy nhiên, Đảng ta ra đời ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc
hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé. Đảng ta ra đời không chỉ là sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lờnin với phong trào công nhân mà còn với phong trào yêu nước. Đây
là đặc thù Việt Nam, là sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính Người đã nhiều
lần nói rằng, Đảng không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II
của Đảng (tháng 2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đảng Lao động
Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam… Chính vì Đảng Lao
động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nú
phải là Đảng của dân tộc Việt Nam"
1
. Đến thỏng 1-1957, nói chuyện ở Trường cán

bộ công đoàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc"
2

. Tháng 12-
1961, nói chuyện với những cán bộ, đảng viên hoạt động lâu năm, Người nhắc lại:
“Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc". Có lúc Người còn
nói: "Đảng ta là con nòi của dân tộc"; lợi ích của giai cấp công nhân và của dân
tộc là một.
Với tinh thần đó, Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội II của Đảng đã ghi: "Đảng
Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động".
Trên thực tế, Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai cấp
công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc. Ngoài lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào
khác. Chính vì vậy mà Đảng ta được nhân dân thương yêu, cưu mang, đùm bọc,
giúp đỡ, thừa nhận là Đảng của chính mình, gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là "
Đảng ta”. Đó là vinh dự, là niềm tự hào lớn, không phải Đảng nào trên thế giới
cũng có được.Đồng thờiđó cũng là cội nguồn tạo nên sức mạnh củaĐảng.
Và cũngvì vậy mà tư tưởng đa nguyên đa đảng không thể thõm nhập vàođược.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi chúng ta nêu cao tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thì càng cần quán tỉệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc diễn đạt bản chất của
Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cả
dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của nhân dân.

Vì vậy, Văn kiện Đại hội X của Đảng ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc".
4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lờnin “làm cốt”
Chủ nghĩa Mac - Lê Nin là lý luận khoa học về giải phóng giai cấp, giải phóng
con người, giải phóng các dân tộc bị áp bức nên muốn thắng lợi Đảng ta dựa vào lý
luận khoa học này
Lấy chủ nghĩaMac - Lênin “làm cốt”nghĩa là phải nắm vững phương pháp quan

điểm lập trường của CN Macc - Lê Nin để vận dụng sánh tạo vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam từ đó mới có đường lối cách mạng đúng đắn .
HCM lưu ý những điểm sau:
+ Việc học tập nghiên cứu, tuyên truyền CN Mac- Lê Nin phải luôn phù hợp với
hoàn cảnh và phù hợp với từng đối tượng
+ Việc vận dụng CN Mác- Lê Nin phải luôn phù hợp với từng hoàn cảnh.
+ Trong quá trinh hoạt động, Đảng ta phái chú ý học tập kế thừa những kinh
nghiệm tốt của các Đảng Cộng Sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh
nghiệm của mình để bổ sung CN Mac - Lê Nin.
+ Đảng ta phait tăng cường đấu tranh để bảo vệ sù trong sáng của CN Mac - Lê
Nin.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản
Tập trung dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ
chức của Đảng. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc xây dựng Đảng thành
một tổ chức chặt chẽ. Người cho rằng, “tập trung” và “dõn chủ”

có mối quan hệ khăng khít với nhau, là hai vế của một nguyên tắc. Dân chủ để đi
đến tập trung, là cơ sở của tập trung chứ không phải là dân chủ theo kiểu phân tán,
tuỳ tiện, vụ tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ chứ không phải là
tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán, chuyên quyền.
Về tập trung, Người nhấn mạnh: phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành
động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng
viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta
tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”. Còn dân chủ, Người
khẳng định, đó là “của quý báu nhất của nhân dõn”, là thành quả của cách mạng.
Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế
nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra
chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi

người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra
quyền tự do phục tùng chân lý”.
Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Theo Hồ Chí Minh đây là nguyên tắc
lãnh đạo của Đảng. Người khẳng định lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ
bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân thì
sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Thể lãnh
đạo và cá nhân phụ trách phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
Tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này.
Người coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng. Người
khẳng định đây vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn,
tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn. Đó cũng là vũ khí để nâng cao
trình độ lãnh đạo của Đảng, giúp Đảng làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân
tộc.

Để rèn luyện đảng viên và toàn Đảng một cách hiệu quả, Hồ Chí Minh yêu cầu
mỗi đảng viên, mỗi cấp bộ đảng phải thực hiện tự phê bình và phê bình một cách
thường xuyên, liên tục, thẳng thắn, chân thành và “cú tình đồng chí yêu thương lẫn
nhau”.
Kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Người rất coi trọng việc xây dựng một kỷ
luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng.
Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi mọi tổ chức đảng, mọi đảng viên đều
phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết
định của Đảng. Đồng thời, đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện
phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc
đối với mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Người viết: “Kỷ luật này là do lòng tự giác
của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”.
Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của
Đảng, Điều lệ Đảng, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng,
các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc

xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người khẳng định: “Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương
đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mỡnh”.
Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Người thường nêu những yêu
cầu như: phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lờnin, Cương lĩnh, Điều
lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp; mở
rộng dân chủ nội bộ, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình; thường
xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng.
6. Tăng cường và củng cố mối quan hệ bền chặt giữa Đảng với dân

Trong di chúc HCM có viết : “Đảng ta phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tí trung thành của nhân dân”.
Sau khi giành được độc lập chính quyền trở thành Đảng cầm quyền thì Đảng cần
phải nhận thức rõ: Đảng cầm quyền, nhân vẫn làm chủ nên càng phải quan tâm hơn
nữa mối quan hệ máu thịt này.
Các yêu cầu về tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân:
• Đảng phải thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu rõ tâm tư
nguyện vọng của nhân dân, kiên quyết khắc phục bệnh quan lưu trong tổ chức
Đảng và Đảng viên
• Thường xuyên vận động nhân dân tham giãay dựng Đảng bằng mọi hình
thức tích cực thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, đóng góp ý kiến cho tính
chất và đặc điểm với tinh thần xây dựng, giơi thiệu những người ưu tú cho Đảng,
kiểm tra, kiểm soát tổ chức Đảng, cán bộ Đảng viên.
• Đảng có trách nhiệm nâng cao dân trí. Không thể có một Đảng trí tuệ nếu
dân trí thấp.
Trong quan hệ với dân, Đảng không được theo đuôi quần chúng
7. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới
Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới vì đó
chính là quy luật tồn và phát triển của Đảng, là yêu cầu của bản thân sự nghiệp

cách mạng trong tất cả các thời kì. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi
mới để ngăn chặn những thoái hoá, biến chất, để theo kịp với những yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao.
Người khẳng định: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi
người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa
cá nhõn”.

Tự chỉnh đốn, tự đổi mới Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải làm cho
Đảng trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; Làm cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước
những yêu cầu cách mạng ngày càng cao.
Tóm lại, những luận điểm trên của HCM về sự ra đời của Đảng Cộng sản VN
và vai trò của nú trong tiến trình cách mạng vừa quán triệt đầy đủ học thuyết Mac-
Lờnin về ĐCS vừa phù hợp với hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, có
truyền thống yêu nước lâu đời, nơi mà số lượng công nhân còn ít nhưng có mối
quan hệ chặt chẽ với phong trào yêu nước ngay từ khi mới ra đời. Đó là kết quả
của sự vận dụng sáng tạo quan điểm xây dựng Đảng kiểu mới của Lờnin vào điều
kiện lịch sử cụ thể của VN. Luận điểm đó của HCM không những có ý nghĩa quan
trọng đối với quá trình CMVN mà nú còn có ý nghĩa quốc tế to lớn, nhất là với
những nước có hoàn cảnh tương đồng.










DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.
2. Tạp chí cộng sảnđiện tử: http://www. tapchicongsan. org. vn

3. Thời báo kinh tế ViệtNam: http://vneconomy. vn
4. Báo Vietnamnet: http://vietnamnet. vn
5. Giáo trình lịch sửĐảng Cộng sản ViệtNam– Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà
Nội.






×