Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

cơ hội và thách thức của ngành dịch vụ việt nam sau khi gia nhập wto

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.84 KB, 95 trang )


Lời mở đầu
1.Tính tất yếu của đề tài
Trong mấy thập kỷ gần đây, khu vực dịch vụ đã phát triển rất mạnh mẽ,
và đóng góp ngày càng lớn cho các nền kinh tế. ở các nước phát triển giá trị
ngành dịch vụ chiếm tới 70- 80% GDP, còn con số trung bình của các quốc
gia đang phát triển là gần 58% tổng sản lượng. Trong khi đó ngành dịch vụ
của Việt Nam, dù đã có bước tiến vượt bậc những năm vừa qua, hiện chỉ đạt
khoảng 40% GDP.
Nhìn từ các nền kinh tế phát triển và đang nổi, có thể thấy dịch vụ là
một lĩnh vực không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của
một quốc gia mà Việt Nam lại là một thực thể trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam đã là thành viên chính thức Tổ chức Thương mại thế giới-
WTO. Nhưng trong khi đang nỗ lực để quay cùng vòng quay chung của thế
giới, Việt Nam lại phải đối mặt với nguy cơ bị văng khỏi vòng quỹ đạo nếu
không có những bước đi hội nhập thích hợp.
Có thể nói, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đang và sẽ có nhiều cơ
hội hơn nữa để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển
các ngành kinh tế, cải thiện cơ sở hạ tầng và đời sống người dân. Song bên
cạnh đó, Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức lớn không
chỉ cho toàn bộ nền kinh tế mà còn cho cả từng ngành, từng lĩnh vực nền kinh
tế quốc dân, đặc biệt là đối với những ngành và lĩnh vực quan trọng của nền
kinh tế trước đây được sự bảo hộ và trợ cấp của Chính phủ Việt Nam như bảo
hiểm, vận tải, và đặc biệt là ngành viễn thông và ngân hàng. Hai lĩnh vực
dịch vụ này những cơ hội mới gì và phải đối mặt với những thách thức như
thế nào sau khi hội nhập? Chúng ta sẽ phải có những giải pháp như thế nào để
dịch vụ viễn thông và ngân hàng ngày càng mở rộng và trở thành một cơ cấu
năng động của nền kinh tế, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
2
đất nước? Nhằm giải đáp những câu hỏi này, em đã quyết định chọn đề tài
cho khoá luận tốt nghiệp là: “Cơ hội và thách thức của một số ngành dịch


vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi của một khoá luận tốt nghiệp và trong tầm hiểu biết còn
rất nhiều hạn chế, bản thân không thể đánh giá hết tác động của việc gia nhập
WTO đối với tất cả các ngành dịch vụ của Việt Nam hiện nay mà chỉ xin phép
đi sâu vào nghiên cứu, phân tích và đánh giá một phần những tác động của
việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) đến ngành dịch vụ của Việt Nam nói chung và đặc biệt chú trọng
vào việc đánh giá những cơ hội và thách thức đối với hai ngành dịch vụ Viễn
thông và ngân hàng sau khi gia nhập.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Sau khi tìm hiểu thực trạng phát triển của hai ngành dịch vụ viễn thông
và dịch vụ ngân hàng trước và sau khi gia nhập WTO, đánh giá những tác
động của việc gia nhập WTO đối với hai ngành dịch vụ này cũng như nghiên
cứu những nội dung về hội nhập thương mại dịch vụ trong WTO, khoá luận
sẽ đi sâu vào xem xét, đánh giá những cơ hội và thách thức mới đối với hai
ngành dịch vụ này của Việt Nam sau khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế
WTO. Từ đó nêu vấn đề và kiến nghị một số giải pháp hội nhập hữu hiệu
trong lĩnh vực viễn thông và ngân hàng của Việt Nam với hi vọng rằng trong
tương lai Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội đẩy mạnh, phát triển thương mại
dịch vụ, góp phần phát triển nền kinh tế quốc gia.
4. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cơ hội và thách thức đối với ngành dịch vụ Việt Nam quả không phải
là một đề tài mới. Tuy nhiên có thể thấy rằng đây là một đề tài tương đối động
bởi cơ hội và thách thức luôn luôn biến đổi không ngừng. Hôm nay vấn đề
này là cơ hội nhưng ngày mai có thể lại là thách thức. Quan trọng là làm thế
3
nào tận dụng tốt những cơ hội và biến những thách thức thành những cơ hội
cho chính mình.
5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, một số phương pháp nghiên cứu đã
được sử dụng như: phương pháp phân tích và thống kê toán, phương pháp
phân tích tổng hợp …Các phương pháp này được sử dụng kết hợp chặt chẽ
với nhau trong từng phần của đề tài.
6. Kết cấu của đề tài :
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng chữ cái
viết tắt, danh mục bảng biểu, phụ lục , đề tài nghiên cứu gồm 3 phần chính
như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận chung
Chương II: Thực trạng dịch vụ viễn thông và dịch vụ ngân hàng Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương III: Cơ hội và thách thức sau khi gia nhập – giải pháp tận dụng
cơ hội, vượt qua thách thức.
Và để hoàn thành bài khoá luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới Cô giáo hướng dẫn - TS. Đỗ Hương Lan vì những ý kiến đóng góp quý
báu cũng như sự giúp đỡ tận tình của cô cho bài khoá luận. Em cũng chân
thành cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè và gia đình đã giúp đỡ, động viên, tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận.
Do thời gian thực hiện khoá luận hạn hẹp, và do nhận thức của người
viết còn nhiều hạn chế, hơn nữa đây lại là một đề tài tương đối tương đối rộng
, vì vậy khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được
ý kiến đóng góp phê bình của thầy cô và các bạn để bài khoá luận được hoàn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
4
Chương I
Cơ sở lý luận chung
I. Tổng quan về dịch vụ và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ
1. Dịch vụ và vai trò ngày càng tăng của dịch vụ trong nền kinh tế thế giới
1.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại dịch vụ

1.1.1 Khái niệm dịch vụ
Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Tính vô
hình và khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các loại hình dịch
vụ làm cho việc nêu ra một định nghĩa rõ ràng về dịch vụ trở nên khó khăn.
Hơn nữa, các Quốc gia khác nhau có cách hiểu về dịch vụ không giống nhau,
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi Quốc gia. Ngay cả Hiệp
định chung về thương mại dịch vụ (GATS) cũng không nêu lên một khái
niệm cụ thể về dịch vụ.
Theo điều I, khoản 3b của GATS viết rằng: “Dịch vụ” bao gồm bất kỳ
dịch vụ nào trong bất kỳ lĩnh vực nào, ngoại trừ dịch vụ được cung cấp trong
thi hành thẩm quyền của Chính phủ.
Sau đó khoản 3c cho biết “Dịch vụ được cung cấp trong thi hành thẩm
quyền của Chính phủ” là bất cứ dịch vụ nào được cung cấp không trên cơ sở
thương mại, cũng như không trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều người
cung cấp dịch vụ.
Như vậy, từ quy định của GATS ta chỉ biết được phạm vi dịch vụ điều
chỉnh bởi hiệp định này chứ không hề có được một khái niệm thực sự về dịch
vụ. Vì vậy, để hiểu xem dịch vụ là gì, chúng ta có thể tham khảo một vài khái
niệm dịch vụ khác nhau.
Theo C.Mác, “dịch vụ là một hoạt động mang lại lợi ích và lợi ích đó
có thể là hữu hình hay vô hình”.
5
Còn vào những thập niên 30 của thế kỷ XX, Allan Fisher và Colin
Clark là những người đầu tiên đề xuất việc chia nền kinh tế thành ba ngành:
ngành thứ nhất, ngành thứ hai và ngành thứ ba (trong các tài liệu thống kê
thường được phân loại như là các lĩnh vực 1) nông nghiệp, lâm nghiệp và
thuỷ sản; 2) công nghiệp; 3) dịch vụ). Clark định nghĩa ngành kinh tế thứ ba
này là “các dạng hoạt động kinh tế không được liệt kê vào ngành thứ nhất và
thứ hai”. Định nghĩa này đã phản ánh việc từ lâu ngành thứ ba, tức là ngành
dịch vụ, được coi là phần dôi ra của nền kinh tế, trong khi ngành sản xuất chế

tạo được hiểu như nền tảng của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Cùng với việc vai trò của dịch vụ ngày càng tăng, các học giả đã chú ý
nhiều hơn tới việc nghiên cứu về dịch vụ. Một số người cho rằng dịch vụ thực
chất là “các hoạt động không mang tính đồng nhất, chủ yếu tồn tại dưới hình
thức phi vật chất do các cá nhân hoặc các tổ chức cung cấp, trong đó hoạt
động tiêu thụ và sản xuất diễn ra đồng thời”. Như vậy, định nghĩa này coi
dịch vụ thực chất là một loại sản phẩm vô hình và dựa vào các thuộc tính của
dịch vụ để đưa ra khái niệm. Việc xác định như vậy chưa thể hiện tính bao
quát trong xác định khái niệm rõ ràng về dịch vụ. Chẳng hạn, một số dịch vụ
cũng có thể hữu hình như các dịch vụ cắt tóc hoặc xem ca hát, nhạc kịch.
Định nghĩa về dịch vụ do T.P Hill đưa ra năm 1977 có ảnh hưởng khá
lớn tới các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này. Theo Hill, “dịch vụ là sự thay đổi
về điều kiện hay trạng thái của người hay hàng hoá thuộc sở hữu của một chủ
thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thể kinh tế khác với sự đồng ý
trước của người hay chủ thể kinh tế ban đầu”. Định nghĩa này tập trung vào
sự thay đổi điều kiện hay trạng thái nên tránh được việc định nghĩa dịch vụ
dựa trên tính vô hình. Các tiêu chí như vô hình, có thể lưu trữ trở thành các
yếu tố mà dịch vụ có thể có. Ngoài ra, Hill cũng nhấn mạnh tới sự khác biệt
giữa sản xuất dịch vụ và sản phẩm dịch vụ. Sản phẩm của một hoạt động dịch
vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của người hoặc hàng hoá bị tác
6
động, trong khi quá trình sản xuất dịch vụ là hoạt động tác động tới người
hoặc hàng hoá thuộc sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó.
Tuy nhiên, trên thực tế chưa hề có định nghĩa nào thật chính xác về dịch
vụ. Vậy để có cơ sở phân biệt dịch vụ với hàng hoá có lẽ cần phải dựa vào
những đặc trưng của sản phẩm dịch vụ so với sản phẩm hàng hoá.
1.1.2 Những đặc điểm cơ bản của dịch vụ
- Tính vô hình hay phi vật chất
Dịch vụ có tính vô hình. Người ta không thể nhìn thấy, thử mùi vị,
nghe hay ngửi chúng trước khi tiêu dùng. Khách hàng không thể biết chất

lượng phục vụ ở một khách sạn nếu không đến đó thử đặt phòng hay học viên
không thể biết được chất lượng giảng dạy nếu không trực tiếp tham dự lớp
học Người tiêu dùng chỉ có thể tìm kiếm các dấu hiệu chứng tỏ chất lượng
dịch vụ cung ứng đó như: thương hiệu, danh tiếng người cung ứng, biểu
tượng, giá cả hay qua sự mô tả về dịch vụ đó của các khách hàng khác đã tiêu
dùng dịch vụ hoặc qua thông tin quảng cáo.
- Tính không thể tách rời và không lưu giữ được
Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Một dịch vụ
được tiêu dùng khi nó đang được tạo ra và khi ngừng quá trình sản xuất có
nghĩa là việc tiêu dùng dịch vụ ấy cũng ngừng lại.
Khác với sản xuất vật chất, sản xuất dịch vụ không thể sản xuất sẵn rồi
lưu vào kho chờ tiêu thụ, tức là sản phẩm dịch vụ không có khả năng cất trữ.
Dịch vụ không thể tách rời nguồn gốc, trong khi hàng hoá vật chất tồn tại
không phụ thuộc vào sự vắng mặt hay có mặt nguồn gốc của nó.
- Tính không đồng nhất và khó xác định chất lượng
Chất lượng dịch vụ dao động trong một khoảng rộng, tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh tạo ra dịch vụ như người cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng.
Ví dụ, một ca phẫu thuật thẩm mỹ có thể thành công với khách hàng này
nhưng lại không thành công với một khách hàng khác bởi mức độ thành công
7
của nó không chỉ phụ thuộc vào tay nghề của những người thực hiện ca phẫu
thuật, các phương tiện kỹ thuật trợ giúp mà còn phụ thuộc vào tâm trạng và
các yếu tố tâm lý của họ. Sự không ổn định chất lượng là lý do giải thích tại
sao người mua dịch vụ thường hỏi ý kiến người đã tiêu dùng trước trong khi
lựa chọn người cung cấp dịch vụ.
1.1.3 Phân loại dịch vụ trong GATS
Trên thế giới hiện nay tồn tại rất nhiều các hệ thống phân loại dịch vụ
khác nhau dựa trên các mục đích và tiêu chí khác nhau. Phân loại dịch vụ theo
hiệp định GATS của WTO là hệ thống phân loại khá đơn giản và phục vụ tốt
cho đàm phán thương mại quốc tế.

Về cơ bản phân loại này dựa theo CPC, tức là dựa trên nguồn gốc
ngành kinh tế. Theo GATS, toàn bộ ngành dịch vụ được chia ra 12 ngành.
Mỗi ngành dịch vụ lại được chia ra các phân ngành. Có 155 phân ngành dịch
vụ. Đặc biệt ngành thứ 12 và nhiều nhóm phân ngành đều có mục “các dịch
vụ khác” giúp cho việc sắp xếp phân loại dịch vụ vào các ngành và phân
ngành được dễ dàng. Trên thực tế các nhà đàm phán ít quan tâm đến các dịch
vụ thuộc vào mục “các dịch vụ khác” này và thường tập trung nhiều nhất vào
các dịch vụ mà việc tự do hoá sẽ mang lại nhiều cơ hội kinh doanh nhất.
Mười hai ngành dịch vụ được liệt kê trong GATS gồm:
- Dịch vụ kinh doanh, bao gồm: dịch vụ nghề nghiệp, dịch vụ máy tính
và các lĩnh vực liên quan, dịch vụ nghiên cứu và triển khai, dịch vụ cho thuê
bất động sản, dịch vụ kinh doanh khác.
- Dịch vụ thông tin, bao gồm: dịch vụ bưu điện, dịch vụ chuyển phát
nhanh, dịch vụ viễn thông, dịch vụ nghe nhìn, dịch vụ khác.
- Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật, bao gồm: dịch vụ xây dựng nhà cửa,
dịch vụ xây dựng dân dụng, dịch vụ lắp đặt máy móc, dịch vụ hoàn thiện các
công trình, dịch vụ khác.
8
- Dịch vụ kinh tiêu, bao gồm: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán
buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ đại lý độc quyền, dịch vụ khác.
- Dịch vụ đào tạo, bao gồm: dịch vụ đào tạo tiểu học, dịch vụ đào tạo
trung học, dịch vụ đào tạo đại học, dịch vụ đào tạo trung học cho người lớn,
dịch vụ đào tạo trung học khác.
- Dịch vụ môi trường, bao gồm: dịch vụ thoát nước, dịch vụ xử lý chất
thải, dịch vụ vệ sinh và các hoạt động tương tự, dịch vụ khác.
- Dịch vụ tài chính, bao gồm: dịch vụ bảo hiểm và các lĩnh vực liên
quan tới bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (trừ bảo
hiểm), dịch vụ khác.
- Dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và xã hội, bao gồm: dịch vụ chữa
bệnh, dịch vụ bệnh viện, dịch vụ xã hội, dịch vụ sức khoẻ và xã hội khác.

- Dịch vụ du lịch và liên quan, bao gồm: dịch vụ khách sạn và nhà
hàng, dịch vụ đại lý và điều hành du lịch, dịch vụ hướng dẫn du lịch, dịch vụ
khác.
- Dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao, bao gồm: dịch vụ giải trí (nhà
hát, ca nhạc, xiếc ), dịch vụ báo chí, tin tức, dịch vụ thư viện, kiến trúc, bảo
tàng, dịch vụ thể thao và các dịch vụ giải trí khác.
- Dịch vụ vận tải, bao gồm: dịch vụ vận tải đường biển, dịch vụ vận tải
nội thuỷ, dịch vụ vận tải hàng không, dịch vụ vận tải vũ trụ, dịch vụ vận tải
đường sắt, ô tô, dịch vụ vận tải đường ống, dịch vụ vận tải liên quan tới tất cả
các phương thức vận tải, dịch vụ vận tải khác.
- Các dịch vụ khác.
1.2 Các hình thức cung cấp dịch vụ quy định trong GATS
1.2.1 Cung cấp qua biên giới (Cross border)
Dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước thành viên này vào
trong lãnh thổ của một nước thành viên khác. Trong phương thức này, chỉ có
dịch vụ được chuyển qua biên giới còn người cung cấp dịch vụ thì không dịch
9
chuyển. Ví dụ như việc cung cấp thông tin và tư vấn qua fax hoặc thư điện tử
hoặc việc vận chuyển hàng hoá. Người cung cấp dịch vụ không xuất hiện trên
lãnh thổ của nước thành viên tiêu dùng dịch vụ đó.
10
1.2.2 Tiêu thụ ở nước ngoài (Consumption abroad)
Hình thức này liên quan tới các dịch vụ được tiêu thụ bởi công dân của
một nước thành viên trên lãnh thổ của một nước thành viên khác (nơi mà dịch
vụ được cung cấp). Nói cách khác, dịch vụ được cung cấp cho người tiêu
dùng ở ngoài lãnh thổ mà người tiêu dùng đó cư trú thường xuyên. Điển hình
cho hình thức này là dịch vụ du lịch, hoặc dịch vụ sửa chữa tài sản của người
tiêu dùng như sửa chữa tàu biển ở nước ngoài.
1.2.3 Hiện diện thương mại (Commercial presence)
Trong hình thức này dịch vụ được cung cấp bởi người cung cấp dịch vụ

của một thành viên, qua sự “hiện diện thương mại” trong lãnh thổ của bất cứ
thành viên nước nào khác. Để cung cấp dịch vụ theo hình thức này người
cung cấp dịch vụ phải thành lập một công ty, một chi nhánh, một văn phòng
đại diện, hay là một liên doanh, v.v. tại nước tiêu thụ dịch vụ để cung cấp dịch
vụ.
1.2.4 Hiện diện của các thể nhân (Presence of natural persons)
Hình thức này chỉ áp dụng với nhà cung cấp dịch vụ là các thể nhân,
trong đó các thể nhân này sẽ hiện diện trực tiếp ở nước tiêu thụ để cung cấp
dịch vụ. Đây là trường hợp cung cấp dịch vụ của những người tự kinh doanh
hay những người làm việc cho các nhà cung cấp dịch vụ
Cách phân loại trên được thực hiện dựa trên cơ sở xuất xứ của người
cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng và dựa trên vị trí địa lý lãnh thổ của họ
khi dịch vụ được cung ứng.
Mục tiêu chính của việc phân loại này là để tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xem xét các quy định của mỗi nước thành viên ảnh hưởng tới các loại
hình cung cấp dịch vụ này.
1.3 Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế quốc gia và thế giới
Theo C.Mác, “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế SXHH, khi mà kinh tế
hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên
11
tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển”.
Như vậy, bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, C. Mác đã chỉ ra nguồn gốc
ra đời và động lực phát triển của dịch vụ. Quả thật, dịch vụ có vai trò rất quan
trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như đối với nền kinh tế thế
giới.
- Dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hoá,
thúc đẩy thương mại hàng hoá phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như
quốc tế.
Dịch vụ chính là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong
quá trình sản xuất hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm. Buôn bán quốc tế, đặc biệt là

buôn bán hàng hoá sẽ vận hành như thế nào nếu không có các dịch vụ vận tải,
dịch vụ thanh toán,…? Dịch vụ góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng
hoá, rút ngắn thời gian lưu thông, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi
vốn để tái đầu tư…
- Dịch vụ cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất
Nhu cầu về dịch vụ xuất phát ở chính các nhà sản xuất khi họ nhận thấy
rằng, để tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị
trường nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình
sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng. Giấ trị dịch vụ trong một
sản phẩm chiếm tới 60% giá trị hàng hoá và tỷ lệ này ngày càng có xu hướng
gia tăng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự xuất hiện các phương
thức kinh doanh mới.
- Dịch vụ có tác động tích cực đối với phân công lao động xã hội
Dịch vụ hình thành và phát triển gắn liền với phân công lao động xã
hội Sự phát triển của dịch vụ góp phần làm phân công lao động trở nên sâu
rộng hơn. Các nhà sản xuất tận dụng được lợi thế nhờ quy mô bằng việc
chuyên môn hoá trong một lĩnh vực sản xuất cụ thể và sử dụng một cách hiệu
quả các dịch vụ thương mại do các nhà cung ứng dịch vụ cung cấp. Ngay
12
trong các hoạt động cung cấp dịch vụ cũng diễn ra sự chuyên môn hoá nhằm
phục vụ nhu cầu về dịch vụ ngày càng đa dạng của các nhà sản xuất, các
thương nhân,…
- Sự tăng trưởng của ngành dịch vụ là động lực cho phát triển kinh tế
Một thực tế được các nhà kinh tế các nước thừa nhận là ở các nước
đang phát triển các giải pháp kinh tế trở nên khó khăn nhiều hơn khi các dịch
vụ như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ tài chính, dịch vụ viễn thông,… còn yếu
kém. Ngược lại, ở các nước phát triển, sự hoàn thiện của hệ thống dịch vụ là
một trong những tiền đề đẩy nhanh quá trình phát triển thương mại và kinh tế.
2. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ
2.1 Tính tất yếu của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ

Dịch vụ có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế
giới cũng như nền kinh tế quốc dân của mỗi quôc gia. Có thể thấy trong
những năm gần đây, tỷ trọng ngành dịch vụ trong thương mại quốc tế ngày
càng tăng, chiếm hơn 22% tổng giá trị thương mại thế giới. Tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm của xuất khẩu dich vụ thương mại luôn vượt tốc
độ phát triển bình quân hàng năm của xuất khẩu hàng hoá. Dịch vụ còn góp
phần làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế, tạo ra nhiều cơ hội việc làm
cho người lao động.
Việt Nam nói riêng là thành viên của tổ chức WTO và là quốc gia đang
trong quá trình hội nhập kinh tế thì việc tham gia và mở cửa thị trường dịch
vụ là một tất yếu khách quan.
Thật vậy, dịch vụ chiếm một vị trí quan trọng trong WTO, và ngày
càng tỏ rõ ưu thế của nó, thu hút sự quan tâm của WTO nói chung và của mỗi
quốc gia nói riêng. Dịch vụ là lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến mọi mặt, mọi
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và động chạm đến tất cả các lĩnh vực trong đời
sống xã hội. Bởi vậy, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ chính là một
chiến lược rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hội
13
nhập trong lĩnh vực dịch vụ bên cạnh những thách thức tất yếu phải đối mặt
thì những cơ hội phát triển mang lại là vô cùng lớn. Trong xu thế toàn cầu hoá
hiện nay, khi mà dịch vụ đóng vai trò ngày càng tăng trong thương mại quốc
tế thì hội nhập kinh tế cũng đồng nghĩa với việc hội nhập quốc tế trong lĩnh
vực dịch vụ.
Nhận thức được vai trò ngay càng quan trọng trong thương mại quốc tế,
dịch vụ được các nước thành viên của GATT chính thức đưa vào nội dung
đàm phán tại vòng đàm phán Uruguoay. Và kết thúc vòng đàm phán này, các
nước thành viên đã ký một Hiệp định đa biên dành riêng cho thương mại dịch
vụ, đó là Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS. Hiệp định đưa ra các
nguyên tắc, chế độ, chuẩn mực pháp lý quốc tế để điều chỉnh những khía cạnh
thương mại trong việc cung ứng các dịch vụ giữa các nước thành viên của

WTO và đặt nền tảng cho việc xây dựng hệ thống văn bản pháp lý toàn diện
hơn trong tương lai để điều chỉnh lĩnh vực còn rất mới, rất phức tạp nhưng
đầy triển vọng của thương mại quốc tế, đó là thương mại dịch vụ.
2.2 GATS và tự do hoá thương mại
2.2.1 Phạm vi áp dụng và đối tượng điều chỉnh của GATS
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) áp dụng cho tất cả các
loại dịch vụ được mua bán trên thế giới (
Các dịch vụ được cung ứng nhằm
mục đích thu lợi nhuận
). Nó bao gồm tất cả các hình thức cung cấp dịch
vụ. GATS xác định 4 hình thức cung cấp dịch vụ như sau:
- Phương thức 1: Cung ứng qua biên giới - dịch vụ được cung cấp từ
một nước sang một nước khác.
- Phương thức 2: Tiêu thụ tại nước ngoài - người tiêu dùng dịch vụ tại
một nước khác, ví dụ như đi du lịch nước ngoài.
- Phương thức 3: Hiện diện thương mại - một công ty nước ngoài thành
lập chi nhánh hoặc công ty con để cung cấp dịch vụ tại một nước khác.
14
- Phương thức 4: Hiện diện của các cá nhân trực tiếp cung cấp dịch vụ
(hay còn gọi là hiện diện của các thể nhân). Tức là công dân nước này trực
tiếp cung ứng dịch vụ ở nước khác.
Bốn phương thức cung cấp dịch vụ này là yếu tố chủ yếu trong cam kết
của các thành viên WTO liên quan đến tiếp cận thị trường và chế độ đãi ngộ
quốc gia.
Những lĩnh vực dịch vụ không thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS:
GATS không điều tiết toàn bộ các loại hình dịch vụ. Những loại hình
dịch vụ sau đây không thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS :
- Những quy định về di trú;
- Những dịch vụ thực hiện quyền lực nhà nước;
- Chính sách ngân sách và các biện pháp thuế;

- Hệ thống thuế quan;
- Một số mặt trong bảo hộ các nhà đầu tư liên quan đến di chuyển tư bản;
- Quản lý tỷ giá ngoại hối.
2.2.2 Các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế trong GATS
* Bình đẳng, không phân biệt đối xử
Sự bình đẳng và không phân biệt đối xử được thể hiện ở hai nguyên
tắc: đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT).
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được quy định trong điều 2 của GATS, theo
đó, “đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS, mỗi
thành viên phải ngay lập tức và không điều kiện dành cho dịch vụ và người
cung cấp của bất cứ thành viên nào khác, sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn
sự đãi ngộ mà thành viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ
tương tự của bất cứ nước nào khác”.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được áp dụng với tất cả các nước thành
viên của WTO và với tất cả các lĩnh vực của dịch vụ bất kể các quốc gia đó có
tham gia vào các cam kết cụ thể về tự do hoá thương mại hay không. Tuy vậy,
15
GATS cũng quy định một số ngoại lệ cho các thành viên khi áp dụng Nguyên
tắc đối xử tối huệ quốc nhưng các ngoại lệ ấy phải do chính các thành viên
đưa ra và đáp ứng tất cả các điều kiện của Phụ lục về miễn trừ của điều 2. Hội
đồng Thương mại dịch vụ thực hiện việc rà soát lại các miễn trừ được áp
dụng sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực để quyết
định xem các ngoại lệ có được tiếp tục tồn tại hay không và định ra thời hạn
rà soát tiếp theo. Nói chung các ngoại lệ không kéo dài quá 10 năm kể từ ngày
Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực và phụ thuộc vào các vòng đàm phán
thương mại dịch vụ sau này. Ngoài các ngoại lệ mà một thành viên đã đưa
vào danh sách miễn trừ, thành viên còn được tạm thời chưa phải thực hiện
nguyên tắc tối huệ quốc khi tham gia vào mậu dịch đường biên (khoản 3, điều
2), hay một Hiệp định thương mại khu vực (điều 5), miễn là Hiệp định đó
phải bao trùm đáng kể và xoá bỏ những biện pháp phân biệt đối xử đối với

các nhà cung cấp dịch vụ của các nước khác tham gia hiệp định và cấm áp
dụng các biện pháp phân biệt đối xử mới.
Điều 17 của GATS về đối xử quốc gia ghi rõ: “mỗi thành viên phải
dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất cứ thành viên nào khác
sự đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ được thành viên đó dành
cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của chính mình”.
Tuy vậy, khác với nguyên tắc tối huệ quốc phải thực hiện ngay tức
khắc và trên toàn bộ lĩnh vực dịch vụ, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia được thực
hiện dần dần theo Danh mục cam kết của từng thành viên, dựa vào khả năng
của thành viên đó trong việc tự do hoá thương mại dịch vụ.
* Thương mại ngày càng tự do, cởi mở hơn
Tôn chỉ và mục đích của GATS chính là làm cho thương mại dịch vụ
quốc tế ngày càng tự do, cởi mở, thông thoáng hơn, dỡ bỏ các hàng rào cản
trở tự do hoá thương mại dịch vụ thông qua các vòng đàm phán thương mại
dịch vụ đa biên.
16
Điều 21 quy định “Phù hợp với mục tiêu của GATS, các thành viên sẽ
tiến hành các vòng đàm phán liên tiếp, bắt đầu không chậm hơn 5 năm kể từ
ngày Hiệp định WTO có hiệu lực và định kỳ sau đó, nhằm đạt được mức độ
tự do hoá ngày càng cao hơn”
17
* Thương mại dịch vụ có thể dự đoán trước được
Khi các nước thành viên đồng ý mở cửa thị trường cho dịch vụ, các
nước phải đưa ra một bảng cam kết. Một nước chỉ được thay đổi những ràng
buộc trong bảng cam kết sau khi đã đàm phán với các bạn hàng của mình, và
phải bồi thường cho phần thương mại có liên quan mà nước đó bị mất đi do
việc thay đổi cam kết gây ra (Điều 21). Một biện pháp nữa làm cho môi
trường kinh doanh dịch vụ ổn định và có thể dự đoán được là do các quy tắc,
luật lệ, chính sách về thương mại dịch vụ phải rõ ràng, minh bạch. Mọi thay
đổi về chính sách luật lệ phải được thông báo trước một cách thích hợp để các

nhà đầu tư và thương nhân biết, từ đó có kế hoạch kinh doanh phù hợp.
*Thúc đẩy cạnh tranh công bằng
GATS là một hệ thống các quy tắc bảo đảm cạnh tranh rộng mở, công
bằng và không bị sai lệch. Các quy định về MFN, NT, trợ cấp, mua sắm của
Chính phủ đều nhằm tạo điều kiện cho cạnh tranh công bằng.
Ngoài ra, theo Điều 6, “các thành viên phải đảm bảo rằng các biện pháp
áp dụng chung tác động đến thương mại dịch vụ được quản lý một cách hợp
lý, khách quan và bình đẳng”
* Minh bạch hoá các chính sách luật lệ
Điều 3 của GATS về sự minh bạch nêu rõ: “Các thành viên phải công
bố mọi biện pháp liên quan ảnh hưởng tới việc thi hành GATS chậm nhất là
trước khi các biện pháp đó có hiệu lực thi hành, trừ những trường hợp khẩn
cấp”. Trong Điều 5, GATS còn quy định rằng các thoả thuận quốc tế có tác
động đến thương mại dịch vụ mà một bên tham gia ký kết cũng phải được
công bố.
Mỗi thành viên phải ngay lập tức, mỗi năm một lần thông báo cho Hội
đồng Thương mại dịch vụ, việc ban hành mới hoặc thay đổi các luật lệ, quy
tắc, chính sách hiện hành có tác động tới thương mại dịch vụ thuộc các cam
kết cụ thể của mình, cũng như phải báo cáo về tình hình thực hiện các Hiệp
18
định song phương hoặc đa phương khác mà mình tham gia, nếu có. Mỗi thành
viên phải đáp ứng ngay tất cả những yêu cầu của bất cứ thành viên nào đối
với các thông tin cụ thể về bất cứ một biện pháp nào được áp dụng hay bất cứ
thỏa thuận quốc tế nào khác mà thành viên ấy đã tham gia. Trong vòng 2 năm
kể từ khi Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực, các thành viên phải thiết lập
các đầu mối giải đáp thông tin để trả lời ngay lập tức tất cả các thông tin chi
tiết liên quan đến thương mại dịch vụ cho các thành viên khác theo yêu cầu.
Bên cạnh đó, bất cứ thành viên nào cũng có thể thông báo cho Hội đồng
Thương mại dịch vụ về bất cứ biện pháp nào do một nước thành viên bất kỳ
áp dụng mà nước đó cho rằng có ảnh hưởng tới việc thi hành Hiệp định này.

II. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực viễn thông và ngân hàng
1. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực viễn thông
1.1.Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ viễn thông
1.1.1 Khái niệm
Viễn thông là sự liên lạc điện thoại, điện báo theo dây cáp hoặc theo
đường chuyển tiếp radio giữa hai điểm cách xa nhau, có khoảng cách thực tế
không giới hạn. Thuật ngữ viễn thông nảy sinh trong kĩ thuật truyền tín hiệu
điện theo đường dây liên lạc. Trên các đường dây viễn thông người ta truyền
đi theo nhiều kênh những số liệu, tin tức điện thoại, điện báo, điện báo ảnh,
truyền mã, truyền hình.
Dịch vụ viễn thông là gì?
Là dịch vụ truyền kí hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh
hoặc các dạng khác của thông tin giữa các điểm kết cuối của mạng viễn
thông. Dịch vụ viễn thông bao gồm:
- Dịch vụ cơ bản là dịch vụ truyền đưa tức thời dịch vụ viễn thông qua
mạng viễn thông hoặc Internet mà không làm thay đổi loại hình hoặc nội
dung thông tin;
19
- Dịch vụ giá trị gia tăng là dịch vụ làm tăng thêm giá trị thông tin của
người sử dụng dịch vụ bằng cách hoàn thiện loại hình, nội dung thông tin
hoặc cung cấp khả năng lưu trữ, khôi phục thông tin đó trên cơ sở sử dụng
mạng viễn thông hoặc Internet;
- Dịch vụ kết nối Internet là dịch vụ cung cấp cho các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet khả năng kết nối với nhau và với
Internet quốc tế;
- Dịch vụ truy nhập Internet là dịch vụ cung cấp cho người sử dụng khả
năng truy nhập Internet;
- Dịch vụ ứng dụng Internet trong bưu chính, viễn thông là dịch vụ sử
dụng Internet để cung cấp dịch vụ bưu chính, viễn thông cho người sử dụng.
Dịch vụ ứng dụng Internet trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác phải tuân

theo các quy định pháp luật về bưu chính, viễn thông và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.
1.1.2 Đặc điểm của dịch vụ viễn thông
-Viễn thông là ngành kinh tế, kỹ thuật, dịch vụ quan trọng thuộc kết
cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển bưu chính, viễn thông nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân và đảm bảo an ninh, quốc phòng.
- Ngành viễn thông là một công cụ quan trọng để phát triển nền kinh tế
tri thức và để thực hiện vai trò của quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế tri
thức nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
- Đồng thời đây cũng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, là lĩnh vực có
ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia, là nơi rất dễ bị tấn công mà đặc biệt
là tấn công vào ý thức hệ, vào tư tưởng vào lối sống của người dân.
- Ngành viễn thông là ngành đòi hỏi sự phát triển phải có lượng vốn
đầu tư rất cao cả về tài chính lẫn con người.
20
- Viễn thông có ảnh hưởng mạnh và là cơ sở của hầu hết các ngành
kinh tế khác của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò là mũi nhọn phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia.
- Môi trường kinh doanh viễn thông trên toàn thế giới đang chuyển từ
độc quyền sang cạnh tranh
1.2. Kết quả vòng đàm phán Urugoay về dịch vụ viễn thông
Trong vòng đàm phán Uruguay các dịch vụ viễn thông cơ bản là một
lĩnh vực các chính phủ không đưa ra đàm phán, chủ yếu bởi vì một loạt các
vấn đề phức tạp của quá trình tư nhân hoá các công ty độc quyền Nhà nước
đang phát sinh ở nhiều quốc gia trong giai đoạn này. Lĩnh vực viễn thông
được đưa vào phần Phụ lục của Hiệp định GATS trong vòng đàm phán này.
Phụ lục về viễn thông công nhận vai trò của lĩnh vực này như là một lĩnh vực
khác biệt trong hoạt động kinh tế và là phương tiện cung cấp cơ sở cho các
hoạt động kinh tế khác. Nó đòi hỏi Chính phủ cung cấp cho các nhà cung cấp

nước ngoài sự thâm nhập vào hệ thống viễn thông công cộng với sự không
phân biệt đối xử. Tuy nhiên, dịch vụ viễn thông đem lại giá trị gia tăng phức
tạp thường được cung cấp trên cơ sở tư nhân. Tại thời điểm cuối của vòng
đàm phán Uruguay các Chính phủ nhất trí tiếp tục thương lượng lĩnh vực viễn
thông trong các vòng đàm phán sau đó.
Ngày 15 tháng 2 năm 1997, qua 3 năm đàm phán căng thẳng, WTO
cuối cùng cũng đã thành công trong việc kết thúc các vòng đàm phán về việc
chấp nhận cho thị trường thông tin liên lạc cơ sở đi vào hoạt động. Tất cả bao
gồm 71 quốc gia đưa ra thư cắt giảm, trong đó 69 chính phủ quốc gia và khu
vực đã đưa ra 55 biểu thuế cắt giảm được quy định trong Nghị định thư thứ 4
của “Hiệp định chung về dịch vụ mậu dịch”. Trên 40 quốc gia đang phát triển
trên thế giới đã tham gia vào vòng đàm phán này. Năm 1995, các quốc gia
thành viên tham gia đàm phán chiếm tới trên 91% thu nhập dịch vụ thông tin
viễn thông liên lạc của toàn cầu.
21
Các quốc gia thành viên đã đưa ra những thoả thuận được coi là một bộ
phận cấu thành của hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS). Cũng
như những vấn đề được đưa ra thảo luận đối với hiệp định GATT, hiệp định
về thông tin liên lạc cơ sở khi bắt đầu có hiệu lực đối với các quốc gia thành
viên sẽ trở thành một văn bản có tính chất bắt buộc và có tính ràng buộc pháp
lý và đây là một kết quả thực tế của quá trình đàm phán. Trải qua 3 năm với
nhiều vòng đàm phán đây được coi là một bước tiến lớn của quá trình đàm
phán quốc tế
Nội dung chủ yếu được thống nhất thông qua là vấn đề thị trường tự do
và quy chế đối xử, ngoài ra còn bao gồm một số điều khoản kèm theo. Nội
dung của phê chuẩn hiệp định thị trường tự do là đưa ra các quy định về hạn
chế số lượng, đồng thời cũng bao gồm một số các hạn chế khác như nước
ngoài tham gia vào tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp viễn thông trong
nước. Quy chế đối xử quy định, dịch vụ thông tin liên lạc nước ngoài cũng
như các nhà cung cấp dịch vụ thông tin liên lạc nước ngoài phải được đối xử

ngang bằng với các nhà cung cấp dịch vụ thông tin trong nước. Trong các bản
ghi nhớ các quốc gia thành viên có thể đưa ra quy chuẩn của thị trường tự do
và quy chế đối xử hoặc các biện pháp hạn chế song không được yêu cầu các
biện pháp hạ thấp trình độ quy chuẩn của thị trường tự do. Bản ghi nhớ của
Hiệp định về thông tin liên lạc trong khuôn khổ hiệp định GATS bao gồm
một số nội dung sau:
- Mức độ rõ ràng của các quy định pháp quy
Phần lớn thời gian đàm phán là dành cho phân tích và đánh giá về môi
trường pháp quy của các quốc gia thành viên. Các quy định pháp quy chủ yếu
gồm chế độ cấp phép, liên kết, bảo hộ, cạnh tranh, phân bố tài nguyên tín hiệu
tần số vô tuyến, thông qua quyền lợi của mạng lưới thông tin liên lạc của
quốc gia đó Trong quá trình đàm phán các bên đều lo ngại việc môi trường
22
pháp quy sẽ ảnh hưởng tới việc thực thi các chuẩn mực của thị trường tự do
và các nguyên tắc đối xử khác
- Chế tối huệ quốc và miễn trừ
Một vấn đề được đặt ra trong quá trình đàm phán về hiệp định thông tin
liên lạc giữa các quốc gia là trong GATT có quy chế tối huệ quốc và quy chế
miễn trừ, vì vậy các quốc gia thành viên có quyền đơn phương quyết định sử
dụng quy chế tối huệ quốc và miễn trừ đối với dịch vụ thông tin liên lạc hay
không. Năm 1997, sau khi Nghị định thư được kí kết, 9 quốc gia thành viên
đã đề xuất việc sử dụng quy chế tối huệ quốc và miễn trừ. Do quy chế này có
đề cập đến trình tự pháp luật, vì thế việc quyết định có sử dụng quy chế này
hay không phụ thuộc vào việc có nhất trí với phương án mà quốc gia khác
đưa ra trong quá trình đàm phán hay không. Nếu không đưa ra quy chế miễn
trừ đối với tối huệ quốc, các quốc gia thành viên này nếu sử dụng quy chế tối
huệ quốc đối với dịch vụ thông tin liên lạc và người cung cấp dịch vụ này của
các quốc gia thành viên cũng không được khác biệt so với các nhà cung cấp
dịch vụ tại các quốc gia và khu vực khác( bất kể quốc gia đó có phải là thành
viên của WTO hay không). Nhưng nếu các quốc gia đó đưa ra yêu cầu miễn

trừ thì các quy định như trên chỉ có hiệu lực đối với các quốc gia không chấp
thuận phương án do các quốc gia thành viên khác nêu ra mà thôi.
- Thể hiện cụ thể của các quy chuẩn của thị trường tự do
Việc đạt được Hiệp định về thông tin liên lạc cơ sở đã xoá bỏ sự lũng
đoạn của Chính phủ đối với lĩnh vực này. Với mục đích là mở cửa thị trường
dịch vụ thông tin liên lạc cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ nước ngoài
thâm nhập vào thị trường trong nước, thoả thuận đạt được giữa các quốc gia
là chấp nhận hoạt động của các chủ thể nước ngoài ở thị trường trong nước.
Đối với ngành dịch vụ điện thoại(âm thanh) đa số các quốc gia đều lựa
chọn mở cửa ngay hoặc mở cửa dần dần, nhưng trong lĩnh vực viễn thông đa
phần các quốc gia còn khá dè dặt trong việc mở cửa và đa phần các quốc gia
23
đề chấp nhận việc cạnh tranh trong một mức độ nhất định đối với dịch vụ viễn
thông công cộng.
Khi xuất hiện các biện pháp có tính thay thế ví dụ như những hệ thống
cáp viễn thông vượt biển của tư nhân hoặc hệ thống vệ tinh viễn thông, đồng
thời khi xuất hiện một bên thứ 3 cung cấp dịch vụ thông tin liên lạc hoặc
thông qua mạng dịch vụ của Nhà nước hoặc tư nhân thì hình thức cung cấp
dịch vụ này được coi là dịch vụ thương mại đặc biệt là loại hình mang tính
cạnh tranh.
- Sự chấp thuận cụ thể đối với môi trường pháp quy
Một trong những trọng tâm của vòng đàm phán về thông tin liên lạc cơ
sở là kiểm tra giám sát các quy định pháp quy và chính sách có thể gây trở
ngại đối với việc thực hiện thương mại hoá dịch vụ thông tin liên lạc. Đa phần
các quốc gia đàm phán đều đồng ý với các điều mục trong Hiệp định này.
2.Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
2.1 Khái niệm và chức năng dịch vụ ngân hàng
2.1.1 Khái niệm
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Theo Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực vào năm 1998 của Việt

Nam thì Ngân hàng được gọi là các tổ chức tín dụng, tức là các doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật
để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận
tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
2.1.2 Chức năng của ngân hàng
- Chức năng trung gian tài chính
Trong quá trình tuần hoàn vốn phục vụ cho tái sản xuất xã hội đã phát
sinh mâu thuẫn giữa hiện tượng một số chủ thể kinh tế có vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi, trong khi đó ở một số chủ thể khác lại có nhu cầu về vốn cần được
bổ sung. Ngân hàng thương mại với tư cách là một tổ chức tín dụng có khả
24
năng giải quyết mâu thuẫn này bằng cách huy động mọi nguồn vốn chưa sử
dụng của các chủ thể kinh tế trong xã hội để hình thành quỹ cho vay tập
trung. Thông qua việc huy động vốn và sau đó cho vay lại các thành phần
kinh tế, Ngân hàng đã đóng vai trò người trung gian môi giới giữa người đi
vay và người cho vay mà thực chất chính là ngân hàng đang thực hiện chức
năng trung gian tín dụng.
25

×