Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

nhận xét hiệu quả của mó chữ t và móc nally martinet trong phục hình hàm khung điều trị mất răng loại kennedy i ii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.05 KB, 27 trang )

đặt vấn đề

Bệnh răng miệng là loại bệnh rất phổ biến ở nước ta còng nh trên thế giới,
tuy không đe dọa trực tiếp đến sức khỏe người bệnh nhưng thường để lại hậu quả
xấu về chức năng ăn nhai, phát âm và thẩm mỹ. Mất răng sớm và trầm trọng còn
có thể gây tâm lý hoang mang, lo lắng, làm cho người bệnh mất tự tin, ảnh hưởng
tới chất lượng cuộc sống.
Theo điều tra 900 người đại diện cho các vùng miền Việt Nam của Võ Thế
Quang và cộng sự năm 1990: Lứa tuổi 12 có 1, 33 % số người mất răng, lứa tuổi
15 có 7 % số người mất răng và lứa tuổi 35 - 44 có 47, 33 % số người mất răng.
Theo điều tra năm 1999 của Viện Răng Hàm Mặt Quốc Gia, tỷ lệ mất răng ở đối
tượng người lớn là trên 10%[13].Vì tỷ lệ mất răng cao nên nhu cầu điều trị phục
hình rất lớn.
Việc điều trị phục hình cho bệnh nhân mất răng có vai trò rất quan trọng
nhằm phục hồi chức năng ăn nhai, thẩm mỹ, phát âm và phòng bệnh.
Điều trị phục hình cho bệnh nhân mất răng từng phần có nhiều phương pháp
nhưng ở những bệnh nhân mất răng loại I và II Kennedy, hàm giả tháo lắp từng phần
thường được áp dụng do tính chất khoảng mất răng; Mặt khác đây là cách điều trị hợp
lý, đơn giản, kinh tế và an toàn. Trong các loại hàm giả từng phần tháo lắp, hàm khung
luôn được các bác sĩ ưu tiên lựa chọn.
Phục hình bằng hàm khung là một phương pháp được áp dụng khá phổ biến vì
nhiều ưu điểm như: tiết kiệm mô rănghơn phục hình cố định, lực nhai khỏe hơn
hàm giả tháo lắp nền nhựa, truyền lực nhai sinh lý lên hệ thống răng – vùng quanh
răng – xương, phù hợp với nhómbệnh nhân có tình trạng sức khỏe toàn thân không
đủ điều kiện can thiệp phẫu thuật. Ở nước ta, hàm khung ngày càng được sử dụng
rộng rãi và dần dầnthay thế hàm nhựa.
Hàm khung là loại phục hình có thành phần chính là mét khung sườn bằng
kim loại, các móc được đúc liền với khung sườn này. Vị trí và thiết kế

của móc phụ thuộc vào vị trí, hình dạng, độ nghiêng của răng mang móc, đặc biệt
là đường vòng lớn nhất lâm sàng và độ lẹm của nã.


Trong điều trị mất răng loại Kennedy I và II, hàm khung vừa tựa lên mô
răng, vừa tựa lên sống hàm vùng mất răng. Phương tiện lưu giữ quan trọng nhất
trong hàm khung chính là hệ thống móc. Hàm khung, và đặc biệt là các móc được
thiết kế đúng sẽ giúp hàm khung lưu giữ tốt và tránh những chuyển động không
mong muốn lên các cấu trúc trong miệng, đặc biệt là các răng trụ.Ngoài ra, vị trí và
hình dạng của móc còn ảnh hưởng tới thẩm mỹvà chức năng của hàm khung.
Móc chữ T và móc Nally - Martinet là hai móc hay được thiết kế trong
hàm khung điều trị mất răng loại Kennedy I và II. Ở Việt Nam, đã có mét sè
nghiên cứu về hàm khung nhưng các nghiên cứu về móc chữ T và móc Nally -
Martinet dùng trong hàm khung còn chưa nhiều. Vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài “ Nhận xét hiệu quả của móc chữ T và móc Nally- Martinet trong phục
hình hàm khung điều trị mất răng loại Kennedy I, II” với hai mục tiêu:
1. Nhận xét đặc điểm của răng trụ ở các bệnh nhân mất
răng loại Kennedy I và II.
2. Nhận xét hiệu quả của mócchữ T và móc Nally-
Martinet trong phục hình hàm khung điều trị mất
răng loại Kennedy I, II.



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Sù mất răng
1.1.1. Hậu quả của mất răng
* Tại chỗ:
- Tiêu xương ổ răng nơi răng mất.
- Các răng còn lại ở hai bên bị xô lệch, răng đối diện chồi lên và có thể gây
sang chấn khớp cắn .

* Toàn thân
- Có thể gây rối loạn hoạt động của khớp thái dương hàm.
- Chức năng ăn nhai giảm, ảnh hưởng đến tiêu hóa.
- Có thể ảnh hưởng đến phát âm, hô hấp.
- Ảnh hưởng tới thẩm mỹ và giao tiếp của bệnh nhân nếu mất các răng phía
trước.

1.1.2. Tình hình mất răng ở Việt Nam và trên thế giới.
Vấn đề chăm sóc sức khỏe răng miệng ở Việt Nam đang ngày càng được
quan tâm. Tuy vậy, tỷ lệ mất răng còn cao. Theo điều tra cơ bản tình trạng sức khỏe
răng miệng ở miền nam Việt Nam năm 1991 của Vũ Thị Kiều Diễm và cộng sự, tỷ
lệ mất răng ở lứa tuổi 35 - 44 là 68,66% và trung bình số răng mất của một người
là 3,49. Tại các tỉnh phía Bắc, theo điều tra của Nguyễn Đức Thắng, tỷ lệ mất răng
ở lứa tuổi 35 - 44 chỉ là 36,67%, trong đó có 63,33% có nhu cầu làm răng giả và
chỉ có 2% được làm răng giả. Điều đó chứng tỏ chúng ta mới đáp ứng được một
phần rất nhỏ nhu cầu phục hình

răng cho nhân dân. Gần đây, theo điều tra năm 1999 của Viện Răng Hàm Mặt
Quốc Gia thì tỷ lệ mất răng ở đối tượng người lớn là trên 10%.
Trên thế giới, tỷ lệ mất răng ở người trưởng thành và người già vẫn còn
khá cao ở một số nước. Theo kết quả điều tra của WHO được tiến hành ở 48% các
nước châu Âu năm 1998, tỷ lệ mất răng ở lứa tuổi 65 - 74 dao động từ 12,8%-
69,6%, số răng mất trung bình từ 3, 8-15, 1 răng. Trong một nghiên cứu sức khỏe
răng miệng của người già 70 tuổi ở Thụy Điển của Osterberg T, tỷ lệ mất răng là
70% [13].

1. 1. 3. Phân loại mất răng
* Phân loại mất răng theo Kennedy
- Loại I: mất răng sau hai bên không còn răng giới hạn xa.
- Loại II: mất răng sau mét bên không còn răng giới hạn xa.

- Loại III: mất răng sau còn giới hạn xa.
- Loại IV: Mất răng vùng cửa.
* Phân loại mất răng của Kennedy được Applegate bổ sung
- Loại I: Mất răng sau hai bên không còn răng giới hạn xa.
- Loại II: mất răng sau mét bên khôngcòn răng giới hạn xa.
- Loại III: mất răng sau mét bên có giới hạn, nhưng những răng còn lại
không thể gánh được lực nhai tác dụng lên hàm giả.
- Loại IV: Mất nhóm răng trước, đường giữa cắt ngang khoảng mất răng.
- Loại V: Mất răng mét bên có giới hạn, nhưng răng trước kề khoảng mất
răng không thể dùng làm răng trụ được ( ví dụ như răng cửa bên ).

- Loại VI: mất răng mét bên có giới hạn, những răng còn lại có thể gánh
được lực nhai tác dụng lên hàm giả.
Mỗi loại ( trừ loại IV ) có 4 tiểu loại tuỳ theo nú kèm theo một. hai, ba hay
bốn khoảng mất răng phô.
Từ cách phân loại này ta có thể có 3 hướng điều trị
+ Trường hợp mất răng sau không giới hạn, hai bên hay mét bên (loại I, loại
II) thì chúng ta chỉ có thể làm hàm tháo lắp vừa tựa lên răng - nha chu vừa tựa lên
niêm mạc-xương. Loại I, II với khoảng mất răng phía sau càng rộng thi việc tựa lên
niêm mạc - xương càng quan trọng.
+ Trường hợp mất răng có giới hạn với khoảng mất răng hẹp hay vừa phải (Ví
dụ: loại VI) thì chúng ta nên làm loại răng giả chỉ tựa lên răng - nha chu.
+ Trường hợp mất răng loại III, V và loại IV với khoảng mất răng rộng,
chúng ta nên làm loại hàm giả vừa tựa lên răng vừa tựa lên niêm mạc, sự tựa lên
răng là chủ yếu [10].

1.2. Mét sè phương pháp phục hình cho các trường hợp mất răng Kennedy I và II
1.2.1. Cầu răng giả
Đối với mất răng loại Kennedy I và II thì chỉ có thể làm cầu đèo hay cầu
với. Loại phục hình này thường cần sử dụng nhiều răng trụ và các răng trụ phải tốt.

Tuy nhiên, do chỉ có răng trụ ở một đầu nên loại cầu này dễ làm tổn thương răng
trụ bởi lực đòn bẩy. Vì vậy, cầu với không được sử dụng cho mất răng loại Kenndy
I và II.[12]
1.2.2. Hàm giả tháo lắp từng phần nền nhựa
Trước đây, loại phục hình này được chỉ định rộng rãi cho cả mất răng loại
Kennedy I và II vì nhiều ưu điểm so với phục hình cố địnhnhư: tiết kiệm

mô răng thật, dễ vệ sinh, dễ chế tạo và sửa chữa, kinh phí thấp. Nhưng nã còng có
nhiều nhược điểm như: hàm giả có tính xê dịch tạo cảm giác bất ổn, phần lớn hàm
giả tựa lên mô xương - niêm mạc nên không tạo được sự truyền lực sinh lý, hiệu
quả ăn nhai kém và dễ gây tiêu xương…Hiện nay, hàm khung đang dần thay thế
hàm tháo lắp từng phần nền nhựa.
1.2.3. Cấy ghép răng
Phương pháp này có thể thay thế một hoặc nhiều răng mất, gần như không
phụ thuộc và không ảnh hưởng tới các răng thật còn lại trên cung hàm. Tuy nhiên,
phương pháp này lại đòi hỏi cao về kỹ thuật, kinh phí và chỉ định hạn hẹp nên
không phải trường hợp nào cũng có thể làm được.
1.2.4. Hàm khung
So với hàm tháo lắp nền nhựa, hàm khung có thể truyền lực nhai một cách
sinh lý hơn, hạn chế tiêu xương sống hàm vùng mất răng, tăng cường chức năng ăn
nhai. Mặt khác, hàm khung còng có chỉ định rộng rãi hơn cấy ghép răng và cầu
răng, phục hồi được răng mất cho nhiều trường hợp mà cấy ghép răng vàcầu
răng không thể làm được.

1.3. Phục hình hàm khung
1.3.1. Lịch sử phát triển hàm khung
Đầu thế kỷ XX, người ta mới tìm cách đúc liền một khối bộ phận mang
răng giả, móc và cầu nối. Akers (1918) được coi là người đầu tiên đề ra phương
pháp đúc cả khối như vậy. Cùng với những tiến bộ trong kỹ thuật đúc, người ta đã
tìm được những hợp kim đáp ứng được yêu cầu của ngành điều trị răng miệng.

Năm 1907 Haynes đã phát minh ra hợp kim coban-chrom. Đến năm 1929, Erdle và
Prange đã tìm ra những kỹ thuật ứng dụng

cho hợp kim. Năm 1930, hợp kim Vitallium ( gồm coban-chrom- molypden) được
đưa ra thị trường, tiếp đó, hợp kim thép không rỉ của hãng Krupp (Đức, năm
1936) được dùng rộng rói trong kỹ thuật răng giả. Tuy nhiên, chỉ sau khi
phương pháp đúc hàm khung trực tiếp trên mẫu hàm của Ney được giới thiệu
với những nguyên tắc chặt chẽ ở Mỹ, hàm khung mới thực sự phát triển mạnh.

1.3.2. §Æc ®iÓm cña hµm khung
Ngày nay, hàm khung đã dần thay thế hàm tháo lắp nhựa do nền kim loại có
nhiều ưu điểm hơn.Ngoại trừ trường hợp mào xương ổ răng mới nhổ, kim loại
được ưa thích hơn nhựa để nâng đỡ răng. Nhược điểm cơ bản của nú là khó sửa
chữa, tuy nhiên, nú lại có thể giúp mô bên dưới hạn chế sự tiêu xương ổ răng hơn
nền nhựa và do đó duy trì tình trạng khỏe mạnh cho mô tiếp xúc bên dưới.
Theo McCracken [36 ], so với hàm tháo lắp nền nhựa, hàm khung vớinền
kim loại có những ưu điểm như:
- Cấu trúc chính xác và bền vững:
Nền kim loại đúc không chỉ đạt độ chính xác cao hơn mà còn duy trì được
độ chính xác đó trong môi trường miệng. Mô càng có nhiều đường cong, nền nhựa
càng dễ biến dạng nhưng nền kim loại có thể hạn chế tối đa sự biến dạng này. Do
có tính chính xác nên nền kim loại có thể tạo sự sát khít cao cho các thành phần
lưu giữ, hàm nhựa không thể đáp ứng được yêu cầu sát khít này.
- So sánh sự đáp ứng của mô:
Đánh giá lâm sàng cho thấy khả năng làm sạch tốt của nền kim loại giúp mô
khỏe mạnh hơn khi dùng nền nhựa. Có thể do nền kim loại có khả

năng kìm hãm hoạt động của vi khuẩn do sự ion và oxit húa của nền kim
loại. Nền nhựa có xu hướng tích tụ cặn bẩn và chất vôi. Thật không may, mô sẽ
phản ứng với những chất này nếu hàm giả không được vệ sinh kỹ. Mặc dù chất vôi

có thể lắng đọng ở nền kim loại, những chất lắng đọng khác không tích tụ như đối
với nền nhựa. Vì lý do này, nền kim loại có khả năng vệ sinh tự nhiên tốt hơn nền
nhựa.
- Tính dẫn nhiệt:
Sự thay đổi nhiệt độ được truyền qua nền kim loại xuống mô bên dưới, nhờ vậy
giúp mô khỏe mạnh. Sự trao đổi nhiệt giữa phần niêm mạc bị che phủ và môi
trường xung quanh giúp bệnh nhân có cảm giác thật hơn. Ngược lại, hàm nhựa
ngăn cản sự truyền nhiệt giữa phía trong và ngoài nền hàm.
- Trọng lượng và kích thước:
Nền kim loại mỏng hơn nền nhựa nhưng vẫn đáp ứng được độ cứng chắc
cần thiết.
Các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu để tìm ra nhiều kiểu hàm tháo
lắp với các ưu điểm vượt trội về thẩm mỹ, độ vững ổn, tính nâng đỡ và tạo cảm
giác thoải mái cho bệnh nhân như hàm với hệ thống mắc cài chính xác, hàm tháo
lắp kết hợp với implant. Ngoài ra, vật liệu làm hàm khung mới như hợp kim vàng,
hợp kim titan ra đời cũng cải thiện độ tương thích với mô và tăng độ đàn hồi của
tay móc.
So với phục hình bằng cầu răng, hàm khung tiết kiệm mô răng hơn cho
bệnh nhân. Hơn nữa, với trường hợp mất răng loại Kennedy I, II, không thể dùng
cầu răng để phục hồi răng mất vì cầu với sẽ gây hại cho răng trụ.
So với phương pháp sử dụng implant để phục hình, hàm khung cũng có
những ưu điểm nhất định như ưu thế về tính kinh tế, có thể làm được trong

trường hợp bệnh nhân quá nhát, sợ phẫu thuật. Một số trường hợp bệnh nhân có
bệnh về máu, tim mạch, tiểu đường…khụng thể chỉ định làm implant, lúc này chỉ
định phục hình bằng hàm khung sẽ có lợi cho bệnh nhân.

1. 3. 3. Cấu tạo hàm khung
Hàm khung là loại hàm giả tháo lắp từng phần có phần chính là mét khung
sườn. Toàn bộ cấu trúc bằng hợp kim của khung ( thanh nối, móc, yên) được đúc

chung một lần, cùng mét khối. Răng giả được gắn vào yên nhờ nhựa Acrylic. Hàm
khung truyền lực lên vùng quanh răng qua răng trụ hoặc vừa lên răng vừa lên niêm
mạc vùng mất răng.
Hình 1: Các thành phần cấu tạo hàm khung

1.3.3.1. Thanh nối chính
Thanh nối chính là thành phần cơ bản của hàm khung, các thành phần khác
được nối trực tiếp hoặc gián tiếp vào thanh nối chính. Thanh nối chính được thiết kế tùy
từng loại mất răng, tình trạng các răng và mô nha chu còn lại.[9]
* Thanh nối chính hàm trên: thường có các dạng:
- Thanh khẩu cái đơn phía sau.

- Thanh khẩu cái kép hay thanh trước sau.
- Bản khẩu cái.
- Bản khẩu cái kép.
- Bản khẩu cái hình chữ U hay hình móng ngựa.
- Bản khẩu cái toàn diện.
* Thanh nối chính hàm dưới:
- Thanh lưỡi.
- Thanh lưỡi kép.
- Bản lưỡi.
- Thanh môi.
1. 3. 3.2. Thanh nối phô
Thanh nối phụ là thanh nối các bộ phận khác của hàm khung nh móc, tựa
và vật giữ gián tiếp với thanh nối chính.
1. 3. 3.3. Yên hàm khung
Là phần khung kim loại tương ứng với vùng mất răng và là nơi nền hàm
cùng răng giả gắn vào.

1. 3. 3.4. Tựa

- Có bốn dạng chính: Tựa mặt nhai ở các răng hàm, tựa gót răng, tựa rìa cắn
và tựa onlay.
- Tác dụng của tựa:
+ Làm ổn định vị trí phần lưu giữ của móc.
+ Truyền lực từ hàm khung theo trục của răng xuống mô quanh răng.

+ Dùng làm vật giữ gián tiếp cho hàm khung ở bệnh nhân mất răng phía
sau không còn răng giới hạn xa.
1. 3. 3.5. Móc răng
Móc là thành phần giữ dính có nhiều hình dạng khác nhau ôm vòng quanh
răng trụ hơn 180 độ. Móc dùng những vùng lẹm của răng để đảm bảo sự giữ dính
cho phục hình.
Thành phầncủa móc:
* Phần nâng đỡ (support):
Gồm thân móc và tựa, đây là phần dầy nhất.
* Phần ôm (bracing):
Nhá và mảnh hơn, nhất là khi tới gần phần tận cùng.
Nằm trên đường vòng lớn nhất.
* Phần giữ (retention):
Là phần tận cùng của móc có tác dụng giữ hàm giả không bị tuột ra
khái ổ đỡ, nằm dưới đường vòng lớn nhất.

Hình 2: Các thành phần của móc
1. Tựa
2. Tay đối kháng
3. Tay lưu giữ
1. 3. 4. Các loại móc thường dùng trong hàm khung

Hình 15: Vị trí tay đối kháng thích hợp sẽ loại trừ tác động ngang của tay lưu
giữ lên răng

Vị trí tương ứng của cánh tay đối kháng với cánh tay lưu giữ trong giai
đoạn lắp hàm. Khi đầu tận cùng của cánh tay lưu giữ bị biến dạng thì cánh tay đối
kháng hóa giải lực tác động ngang.
1.3.6.2. Tác động lên mô sợi- niêm mạc
Nếu phục hình thực hiện tốt, các mô sợi- niêm mạc khi chịu lực chức năng
sẽ ở dạng sừng hóa. Các trường hợp kém thuận lợi do lực nhai phân bố không tốt
sẽ làm mất đi lớp sừng hóa. Mô sợi- niêm mạc khi đó sẽ mất đi sự đàn hồi và trở
thành một lớp đệm mềm giữa phục hình và mô xương bên dưới. Khi đó, mô sợi-
niêm mạc sẽ tiếp nhận các kích thích cơ học và chuyển chuyển chúng xuống bên
dưới gây tiêu xương [11].
1. 3. 6.3. Tác động lên mô xương nâng đỡ phục hình
Phòng ngừa sự tiêu xương bên dưới phụ thuộc vào hai yếu tố:
- Sù toàn vẹn của cấu trúc sợi và collagen của mô sợi - niêm mạc trên xương
với vai trò truyền tải các kích thích cơ học.
- Các mô trên tiếp nhận lực nén chức năng do phục hình gây ra một cách
sinh lý Ýt hay nhiều.

Hình 18: (a). Tựa được chuẩn bị sao cho góc giữa nền ổ tựa và thanh
nối phụ nhỏ hơn 90 độ, khi hàm dưới hoạt động chức năng sẽ tạo lực tác động
dọc theo chiều dài răng trụ. (b). Tựa được chuẩn bị có góc giữa nền ổ tựa và
thanh nối phụ lớn hơn 90 độ, khi hàm dưới hoạt động chức năng sẽ tạo lực tác
động dọc theo chiều dài răng trụ nhưng đồng thời cũng xuất hiện lực tác động
ngang lên răng trụ.
* Lấy khuôn và đổ mẫu làm việc
2.2.7. Thiết kế hàm khung
* Sử dụng song song kế xác định hướng tháo lắp, vẽ ĐVLN và độ lẹm.
* Thiết kế thanh nối chính: đối với trường hợp mất răng loại Kennedy I, II,các kiểu
nối chính thường sử dụng:
- Cho hàm trên: bản khẩu cái kép, bản khẩu cái toàn diện, bản khẩu cái hình
chữ U,

- Cho hàm dưới: Bản lưỡi, thanh lưỡi kép, thanh lưỡi.
* Thiết kế móc phục hình.
- Móc chữ T:
Móc chữ T đặt trên răng có vùng lẹmlưu giữ ở gần khoảng mất răng. Móc
này bao gồm mét tay móc bắt nguồn từ yên, đi dọc theo nghỏch lợi và bắc cầu
ngang qua đường viền lợi. Phần đứng của chữ T tiếp xúc với mặt

Ở nhóm tuổi 35 - 60, hàm có số lượng răng mất từ 3 đến 4 răng chiếm tỷ lệ
cao nhất(47,4%).
Ở độ tuổi trên 60, tỷ lệ hàm mất từ 7 răng trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất
(41,2%). Trong khi ở độ tuổi 35 - 60, tỷ lệ hàm mất từ 3 - 4 răng chiếm tỷ lệ cao
nhất (47,4%).





3.1.4. Phân bố răng trô theotuổi,giới
Bảng 3.4. Phân bố răng trô theo tuổi, giới

Giới
Tuổi
Nam Nữ Tổng số
số lượng Tỷ lệ % số lượng Tỷ lệ % số lượng Tỷ lệ %
<60 16 66, 7 8 33, 3 24 48, 0
≥60 12 46, 2 14 53, 8 26 52, 0
Tổng sè 28 58, 1 22 41, 9 50 100

Nhận xét:
Ở độ tuổi từ 60 trở lên, số lượng răng trụ cạnh khoảng mất răng chính của

nam chiếm 66,7%, nhiều hơn nữ (33,3%).Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
với p>0,05.
Ở độ tuổi dưới 60, số lượng răng trụ của nam chiếm 46,2%, ít hơn nữ
(53,8%).

Nhóm răng trụcó ĐVLN giải phẫu mặt xa nằm ở 1/ 3 phía mặt nhai chiếm
18,0%, ít hơn so với nhóm răng trụcó ĐVLN giải phẫu mặt xa nằm ở 2/ 3 phía cổ
răng.


3.1.7. Nhu cầu mài chỉnh mặt trong răng trụ
Bảng 3.8. Nhu cầu mài chỉnh mặt trong răng trụ
Nhu cầuCần mài chỉnh Không cần mài chỉnh
Số lượng 21 29
Tỷ lệ % 42, 0 58, 0

Biểu đồ 3.3. Nhu cầu mài chỉnh mặt trong răng trụ


Sau khi lắp hàm sáu tháng, tình trạng lưu giữ trung bình xuất hiện ở nhóm
1(chiếm 10,5%) và tăng ở nhóm 2 (chiếm 23,5).
Không có tình trạng lưu giữ kém.

Bảng 3. 16. Tình trạng lưu giữ theo vị trí hàm

Lưu giữ
Hàm
Tốt Trung bình Kém
Sau lắp 1
tháng

Hàm trên - n
-%
12
85, 7
2
14, 3
0
0, 0
Hàm dưới : - n
-%
22
100, 0
0
0, 0
0
0, 0
Sau lắp 6
tháng
Hàm trên - n
-%
10
71, 4
4
28, 6
0
0, 0
Hàm dưới : - n
-%
20
90, 9

2
9, 1
0
0, 0

Nhận xét:


-%


Nhận xét:
Sau lắp hàm một tháng và sáu tháng, khả năng ăn nhai tốt chiếm tỷ lệ cao
hơn, không có trường hợp nào bệnh nhân không ăn nhai được khi sử dụng hàm
khung.






3. 3. 2. Tình trạng răng trô sau lắp hàm một tháng, sáu tháng
3. 3. 2.1. Tổ chức cứng
Bảng 3. 18. Tình trạng tổ chức cứng theo loại móc

Tổ chức cứng
Móc
Giữ nguyên
Sõu và/ hoặc nứt,
mẻ thêm

Sau lắp 1
tháng
T: - n
-%
28
100, 0
0
0, 0
Nally-Martinet: - n
-%
20
100, 0
0
0, 0


nằm gần phía trước hơn. Nhóm răng trụ là răng hàm lớn thứ nhất chiếm
22,0%. Khi đặt móc lên nhóm răng trụ này, thường đạt mức độ thẩm mỹ tốt do
nhóm răng này nằm ở phía sau, ít bị lộ móc khi bệnh nhân cười nói.

Theo bảng 3.7, các răng trụ có ĐVLN giải phẫu mặt xa nằm ở vị trí 1/ 3 phía
mặt nhai chiếm 18%. Đối với nhóm răng trụ này, khi tìm hướng tháo lắp trên song
song kế, cần hạ thấp ĐVLN phục hình để có thể thiết kế tay móc được thuận lợi và
không cản trở khớp cắn. Trong một số trường hợp, phải hạ thấp ĐVLN phục hình ở
phía xa bằng cách mài chỉnh răng trụ.

Theo bảng 3.8, số răng trụ cần mài chỉnh mặt trong chiếm 42,0%. Những
trường hợp cần mài chỉnh nhằm:
- Tạo mặt phẳng hướng dẫn thuận lợi, giúp thiết kế khung
sườn không quá cách xa sống hàm, tránh gây vướng cho

bệnh nhân. Trường hợp này thường gặp khi ĐVLN phục
hình quá gần mặt nhai.


trên (28,6%) cao hơn nhóm hàm dưới (9,1%). Tỷ lệ lưu giữ tốt của hàm trên thấp
hơn nhóm hàm dưới tại thời điểm ngay sau lắp hàm, sau lắp hàm một tháng và sáu
tháng. Đó là do tác dụng của trọng lực gây giảm lưu giữ của hàm trên nhưng lại
giúp hàm dưới lưu giữ tốt hơn.
Trong nghiên cứu của John Appl, tỷ lệ lưu giữ tốt của hàm khung là 66%,
trung bình là 32% và kém là 2%.

* Thẩm mỹ
Trong nhóm móc chữ T, tỷ lệ đạt thẩm mỹ tốt chiếm 96,4%. Trong nhóm
móc Nally-Martinet, tỷ lệ đạt thẩm mỹ tốt chỉ chiếm 63,6%.Tỷ lệ đạt thẩm mỹ tốt
chung là 82%. Chỉ có một trường hợp đạt thẩm mỹ kém xuất hiện ở nhóm dùng
móc Nally-Martinet, chiếm 2%, và ở trường hợp này, răng trụ mang móc là răng
nanh. Có thể do tay móc chữ T có khả năng đặt sát đường viền lợi hơn nên ít lộ,
còn móc Nally - Martinet che phủ bề mặt răng nhiều hơn nên thẩm mỹ kém hơn.
Nói chung, những hàm khung có sử dụng móc T cho răng trụ chính đạt mức thẩm
mỹ tốt hơn so với móc Nally-Martinet. Tuy nhiên, thẩm mỹ còn phụ thuộc vào vị
trí của răng đặt móc. Nếu răng mang móc nằm càng về phía gần, mức độ thẩm mỹ
tốt càng khó đạt được, đặc biệt là với các trường hợp cười hở lợi. Với các trường
hợp răng trụ mang móc nằm phía sau, tình trạng thẩm mỹ thường là tốt. Ngoài ra,
để tăng cường thẩm mỹ, đôi khi cần mài chỉnh răng trụ để đạt được vị trí đặt móc
đạt yêu cầu về thẩm mỹ.
Trong nghiên cứu của tác giả Tống Minh Sơn, tỷ lệ hàm khung đạt thẩm mỹ
tốt ngay sau lắp hàm là 87,18%.

Trong nghiên cứu về móc Akers và RPI của Phạm Thỳy Anh, tác giả chủ yếu
đánh giá mức độ thẩm mỹ qua màu sắc, hình dạng của răng giả và đạt kết quả

tốt chung là 92,86%.
Theo nghiên cứu của John Appl [17], tác giả chia làm bốn mức độ đánh giá
về thẩm mỹ: tuyệt vời (54%), tốt (24%), trung bình (18%), kém (4%).

* Khớp cắn
Hàm giả có khớp cắn tốt sẽ phân phối lực hài hũa lên cung răng,giúp bệnh
nhân ăn nhai tốt hơn và giảm ảnh hưởng xấu đến tổ chức răng miệng còn lại. Theo
kết quả ở bảng 3.15, tỷ lệ hàm khung đạt khớp cắn tốt chiếm 80, 6%, tỷ lệ khớp
cắn trung bình là 19, 4%, không có tình trạng khớp cắn kém. Trong nghiên cứu của
Tống Minh Sơn, tỷ lệ khớp cắn tốt là 89,3%, khớp cắn trung bình là 10,7%, không
có tình trạng khớp cắn kém. Tình trạng khớp cắn trung bình thường ở những
trường hợp mất răng lâu ngày không được điều trị phục hình gây ra hiện tượng
chồi răng thật đối diện khoảng mất răng. Đối với những trường hợp khoảng mất
răng quá dài, các răng giả thay thế răng mất được thu nhỏ mặt nhai để giảm lực nén
quá lớn lên sống hàm vùng mất răng.



* Ăn nhai
Theo bảng 3.17, khả năng ăn nhai tốt chiếm 88,9% sau khi bệnh nhân
mang hàm khung một tháng. Sau sáu tháng, tỷ lệ này giảm xuống còn 80,1%. Có
thể do khả năng lưu giữ của hàm khung giảm, kéo theo khả năng ăn nhai giảm do
bệnh nhân khó ăn được các thức ăn dính, là nguyên nhân chính gây

bật hàm khung. Ngoài ra, với hàm khung trên,đặc biệt là các trường hợp có khoảng
mất răng quá dài, tác dụng của trọng lực cũng dễ gây bật hàm khung, làm bệnh
nhân gặp nhiều khó khăn hơn trong quá trình ăn nhai.

Bảng so sánh kết quả chức năng ăn nhai với các tác giả khác:


Ăn nhai

Người nghiên cứu
Tốt Trung bình Kém
Số
lượng
Tỷ lệ Số
lượng
Tỷ lệ Số
lượng
Tỷ lệ
Phạm Lê hương 13 65 7 35 0 0
Nguyễn Thị Minh Tâm 21 65, 6 11 34, 4 0 0
Tống Minh Sơn 59 86, 76 09 13, 24 0 0
Nghiên cứu này 32 88, 9 04 11, 1 0 0

Kết quả đánh giá chức năng ăn nhai trong nghiên cứu của tôi không có sự
khác biệt so với tác giả Tống Minh Sơn với p>0,05, nhưng có tỷ lệ ăn nhai tốt cao
hơn so với tác giả Phạm Lê Hương và Nguyễn Thị Minh Tõm với P<0,05.
4. 2.2. Ảnh hưởng móc chữ T và Nally - Martinet lên răng trụ và vùng
quanh răng
Kết quả cho thấy sau sáu tháng theo dõi, các răng trụ đều ở tình trạng ban
đầu, không có răng nào bị sâu ổ tựa, lung lay hoặc tiêu thêm xương ổ răng.

Móc chữ T có phần lưu giữ nằm ở vùng lẹm phía gần khoảng mất răng
(ngược với móc Nally - Martinet có đầu lưu giữ đi vào vùng lẹm phía xa khoảng
mất răng). Móc này thường đặt trên răng hàm nhỏ. Khi hoạt động chức năng, lực
nhai truyền từ tựa mặt nhai qua răng đến vùng quanh răng. Tựa mặt nhai được đặt
sao cho lực truyền gần với trục của răng nhất để hạn chế các hướng lực có hại cho
răng trụ.

Móc chữ T có đầu tay móc lưu giữ được đặt ở vùng lẹm phía gần so với
khoảng mất răng. Khi lực tác động nén lên phần răng giả ở đoạn mất răng chính,
phần đầu móc lưu giữ sẽ di chuyển xuống vùng lẹm lớn hơn phía cổ răng, do đó sẽ
giảm lực xoay lên răng trụ. Tuy nhiên, khi có lực làm bật hàm giả, phần đầu tay
móc lưu giữ sẽ tạo lực hướng về phía mặt nhai lên răng trụ. Ngược lại, đầu lưu giữ
của móc Nally - Martinet được đặt ở vùng lẹm phía xa khoảng mất răng, do đó sẽ
tạo lực lên răng trụ khi có lực nhai nén xuống khoảng mất răng chính. Vật giữ gián
tiếp được đặt để hạn chế những lực có hại này lên răng trụ. Tình trạng răng trụ
mang móc chữ T và Nally - Martinet không có sự thay đổi sau một tháng và sáu
tháng mang hàm khung. Có thể do thời gian theo dõi chưa lâu, khoảng mất răng
chính không quá dài.
Ngoài ra, hàm khung được thiết kế để hạn chế các lực tác dụng ngang lên
răng trụ: Cánh tay đối kháng chống lại lực đẩy ngang của tay lưu giữ, vật giữ gián
tiếp giúp hàm khung không bị xoay quanh trục nối các tựa, các thành phần khác
của móc cũng giúp hạn chế sự di chuyển ngang của hàm khung. Những lực tác
dụng theo chiều ngang là nguyên nhân chính gây nên sự tiêu xương ổ răng của
răng trụ. Các lực tác dụng theo chiều dọc sẽ được truyền xuống tổ chức nâng đỡ
răng một cách sinh lý và ít gây ảnh hưởng xấu lên răng trụ. Do đó, hàm khung
được thiết kế sao cho chỉ có tác dụng lực theo chiều dọc lên răng trụ và hạn chế tối
đa lực tác dụng ngang.

Trong nghiên cứu của C. Vanzevern và cộng sự [34],tác giả đánh giá tác
động của hàm khung nói chung lên răng trụ sau 6 đến 10 năm thấy tỷ lệ mất răng
trụ là 9,8%.
Phục hình nên được thiết kế để duy trì sự khỏe mạnh cho vùng quanh răng.
Những lực truyền qua răng trụ và ảnh hưởng của chúng phụ thuộc vào thiết kế của
hàm khung. Nghiên cứu củaJorge JH và cộng sự [26], theo dõi trong 6 tháng đánh
giá độ di chuyển của răng trụ và răng cạnh khoảng mất răng phía xa của hàm có
yên mở rộng phía sau. Hai loại móc được chọn để đánh giá. Trong trường hợp hàm
có yên mở rộng phía sau một hoặc hai bên, móc được sử dụng là móc T, tay móc

tương hỗ cứng chắc và tựa phía gần. Đối với hàm nõng đỡ trên răng, loại móc thứ
hai được sử dụng là móc đúc có tay lưu giữ ôm vòng tròn ở phía má, cánh tay
tương hỗ cứng chắc và tựa nằm cạnh khoảng mất răng. Mẫu nghiên cứu gồm 68
răng. Đánh giá ở thời điểm ngay sau lắp hàm, sau lắp hàm 1, 3 và 6 tháng. Sử dụng
thuật toán phân tích Friedman. Các phân tích được đánh giá với độ tin cậy
95%. Kết quả cho thấy không có sự di chuyển răng đáng kể nào trong vòng 6 tháng
theo dõi (p>0,05).
Sau một tháng dùng hàm khung, không có trường hợp nào có hiện tượng
tăng chỉ số lợi vùng răng trụ. Sau sáu tháng lắp hàm, xuất hiện 2 trường hợp tăng
GI thêm 1 độ ở nhóm dùng móc T. Có thể do cánh tay móc chữ T dài, dễ gây mắc
thức ăn hơn móc Nally-Martinet. Hơn nữa, móc Nally - Martinet có khoảng hở rất
rộng vùng cổ răng, tránh ảnh hưởng đến niêm mạc. Tuy nhiên, ở hai trường hợp có
hiện tượng tăng GI vùng răng trụ, bệnh nhân vệ sinh răng miệng và vệ sinh hàm
khung không được tốt, do đó cũng tạo nguy cơ làm tăng GI cao.








kết luận

Qua nhận xét hiệu quả của móc T và móc Nally - Martinet trong phục hình
hàm khung điều trị mất răng loại Kennedy I, II cho 31 bệnh nhân (với tổng số hàm
khung là 36) tại khoa phục hình - bệnh viện Răng Hàm mặt trung ương từ tháng 1
đến tháng 10 năm 2010, tôi rút ra các kết luận sau:

1. Đặc điểm nhóm bệnh nhân mất răng loại Kennedy I, II được điều trị bằng

hàm khung có sử dụng móc T và Nally - Martinet và tình trạng các răng trụ
cạnh khoảng mất răng chính.
- Tuụi: Nếu chỉ lựa chọn bệnh nhân có tình trạng răng trụ khá tốt, lứa tuổi 35
- 64 chiếm tỷ lệ cao hơn lứa tuổi trên 64 và chiếm 52,8%.
- Phân loại mất răng: Tỷ lệ hàm mất răng loại Kennedy II là 61,1% và
nhiều hơn mất răng loại Kennedy I (38,9%).
- Số lượng răng mất trên một hàm: 61,1% trường hợp mất từ 3 đến 6 răng
trên một hàm.
- Tình trạng răng trụ cạnh khoảng mất răng chính:

+ Các răng trụ có tình trạng tổ chức cứng tốt chiếm
đa số (86,0%).
+ Lợi vùng răng trụ có GI = 0 tập trung chủ yếu ở
lứa tuổi 35 - 64 (chiếm 70,8%).
+ Tỷ lệ thân - chân răng từ trên 1/ 2 -2/ 3 tập trung
chủ yếu ở lứa tuổi 35 - 64 (chiếm 95,7%)
2. Hiệu quả của móc T và móc Nally- Martinet trong phục hình hàm khung
điều trị mất răng loại Kennedy I, II.
* Hiệu quả chung của hàm khung có sử dụng móc T và Nally - Martinet
- Khớp cắn: Tình trạng khớp cắn tốt chiếm đa số (80,6%).
- Lưu giữ: Tình trạng lưu giữ tốt của nhóm hàm khung có sử dụng móc T sau
một tháng và sáu tháng là 100% và 89,5%, cao hơn so với nhóm có dùng móc
Nally - Martinet (89,2% và 76,5%).
- Thẩm mỹ: Tình trạng thẩm mỹ tốt của nhóm móc T chiếm 96,4%, trong khi
nhóm dùng móc Nally- Martinet chỉ đạt 63,6% thẩm mỹ tốt.
* Sự ảnh hưởng lên các răng trụ mang móc T và Nally - Martinet
- Sau sáu tháng mang hàm khung, các răng trụ mang móc không có thay
đổi đáng kể. về tổ chức cứng, độ lung lay và tỷ lệ thân - chân răng.
- GI của vùng lợi xung quanh. răng trụ mang móc T xuỏt hiện thêm 7,1%
trường hợp GI =1, trong khi nhóm răng tru mang móc Nally - Martinet không xuất

hiện sự thay đổi nào về GI của vùng lợi xung quanh.





MỤC LỤC
đặt vấn đề 1
CHƯƠNG 1 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2
1.1. Sù mất răng 3
1.1.1. Hậu quả của mất răng 3
1.1.2. Tình hình mất răng ở Việt Nam và trên thế giới. 3
1. 1. 3. Phân loại mất răng 4
1.2. Mét sè phương pháp phục hình cho các trường hợp mất răng Kennedy I
và II 5
1.2.1. Cầu răng giả 5
1.2.2. Hàm giả tháo lắp từng phần nền nhựa 5
1.2.3. Cấy ghép răng 6
1.2.4. Hàm khung 6
1.3. Phục hình hàm khung 6
1.3.1. Lịch sử phát triển hàm khung 6
1.3.2. §Æc ®iÓm cña hµm khung 7
1. 3. 3. Cấu tạo hàm khung 9
1. 3. 4. Các loại móc thường dùng trong hàm khung 11
1. 3. 5. Các chuyển động của hàm khung trong điều trị mất răng loại
Kennedy I và II. 15
1. 3. 6. Tác động của phục hình hàm khung lên các cấu tróc sinh
học 18
CHƯƠNG 2 21

đối tượng và phương pháp nghiên cứu 21
2.1. Đối tượng nghiên cứu 21
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 21
2.1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân 21
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ 22
2.1.4. Địa điểm nghiên cứu 22
2.2. Phương pháp nghiên cứu: 22
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu: mô tả có can thiệp. 22
2.2.2. Cỡ mẫu: 22
Được tính theo công thức: 22
2.2.3. Phương pháp thu thập thông tin 23
Tổ chức cứng 25
2.2.4. Các giai đoạn thực hiện hàm khung 26
2.2.5. Kĩ thuật sử dụng song song kế 27
2.2.6. Chuẩn bị trên miệng bệnh nhân 29
* Mài chỉnh khớp cắn trong trường hợp các răng đối diện khoảng mất
răng trồi,gây trở ngại cho phục hình. 29
* Mài chỉnh ĐVLN trong trường hợp ĐVLN cao, cần hạ thấp để đặt
tay móc đối kháng, hoặc trường hợp cần thay đổi vùng lẹm
của răng trụ. 29
* Mài các điểm vướng. 29
2.2.7. Thiết kế hàm khung 30
2.2.7. Đánh giá kết quả 32
2. 2. 8. Xử lý số liệu 35
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
3.1. Đánh giá đặc điểm mẫu nghiên cứu trước điều trị phục hình 36
3.1.1. Phân bố hàm mất răng theo tuổi, giới 36
3.1.2. Phân bố hàm mất răng củabệnh nhân theo loại mất
răng 36
3. 1. 3. Phân bè số lượng răng mất trên một hàm 37

3.1.4. Phân bố răng trô theotuổi,giới 38
3.1.5. Tình trạng tổ chức cứng của răng trụ trước phục
hình 41
Tỷ lệ răng trụ có tổ chức cứng tốt ở nhóm tuổi dưới 60 (95,8%) cao
hơn so với tỷ lệ răng trụ có tổ chức tốt ở nhóm tuổi từ 60 trở
lên (76,9%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. 41
3.1.6. Đường vòng lớn nhất (ĐVLN) giải phẫu của răng
trụ 42
Vị trí 42
1/ 3 phía mặt nhai 42
2/ 3 phía cổ răng 42
Tổng 42
Số lượng 42
9 42
41 42
50 42

×