Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

dạy học các trích đoạn truyện kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học sinh lớp 10 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.17 KB, 25 trang )

Dạy học các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc
trưng thi pháp thể loại cho học sinh lớp 10 trung
học phổ thông

Đinh Thị Minh Thúy

Trường Đại học Giáo dục
Luận văn Thạc sĩ ngành: Lí luận và phương pháp dạy học; Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thúy Hồng
Năm bảo vệ: 2013

Abstract: Vận dụng lí thuyết dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thi pháp thể
loại vào dạy các trích đoạn Truyện Kiều cho Học sinh (HS) lớp 10, Trung học phổ thông
(THPT) ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Đề xuất phương pháp, biện
pháp cụ thể vận dụng đặc trưng thể loại vào dạy các đoạn trích Truyện Kiều cho HS lớp
10. Thiết kế các giáo án dạy học các đoạn trích Truyện Kiều cho HS lớp 10 theo đặc
trưng thể loại. Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng kết quả nghiên cứu.

Keywords: Phương pháp dạy học; Ngữ văn; Thi pháp thể loại; Lớp 10

Content
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do nghiên cứu
1.1. Chương trình đổi mới giáo dục phổ thông ở Việt Nam đã thực sự được chuẩn bị từ những
năm đầu thập kỉ 90 của thế kỷ XX, đặc biệt là từ sau khi ban hành Nghị quyết số 49/2000/QH10,
ngày 19/12/2000 của Quốc hội khóa X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Xuất phát từ
mục tiêu đổi mới này, các nhà giáo dục cũng xác định rõ: Một trong những trọng tâm của việc
đổi mới đó chính là đổi mới phương pháp dạy học với mục đích tăng cường tính tích cực, chủ
động của HS, hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Với
yêu cầu đổi mới phương pháp, thêm nữa lại có quá nhiều lựa chọn về phương pháp giảng dạy
của các nhà nghiên cứu như Phan Trọng Luận, Đỗ Ngọc Thống, Nguyễn Đức Ân, Nguyễn Thị


Hồng Hà , GV đang đứng trước những khó khăn trong việc lựa chọn cho mình một phương
pháp thích hợp và vận dụng vào công việc dạy học của mình một cách có hiệu quả.
1.2. Môn Ngữ văn chiếm vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống các môn học ở bậc phổ thông.
Muốn đạt hiệu quả giáo dục cao nhất, việc giảng dạy Ngữ văn phải tiến hành sao cho phù hợp
với đặc trưng bộ môn, vừa mang bản chất xã hội, vừa là một hiện tượng thẩm mĩ, hiện tượng
nghệ thuật. Nâng cao chất lượng giảng dạy văn học, nâng cao khả năng tiếp nhận, cảm thụ văn
học cho HS, đổi mới PPDH nhằm tạo hiệu quả giảng dạy cao là việc luôn được người làm công
tác giảng dạy Ngữ văn quan tâm. Trong nhà trường Việt Nam, việc dạy các tác phẩm văn
chương theo đặc trưng thi pháp thể loại là một vấn đề đã và đang được chú trọng. Nắm vững thi
pháp thể loại, người dạy không chỉ hiểu đúng, hiểu sâu hơn tác phẩm văn học mà còn có khả
năng thiết kế có hiệu quả hệ thống hoạt động, thao tác để hướng dẫn học sinh cách thứ đọc – hiểu
tác phẩm, giúp người học có khả năng giải mã những tác phẩm cùng thể loại.
1.3. Theo tinh thần trên, chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn đã hướng tới việc thay đổi
PPDH theo đặc trưng thi pháp thể loại. Trong chương trình, SGK cung cấp cho HS mỗi thể loại
một vài tác phẩm thật tiêu biểu cho thể loại đó (tính mẫu). Yêu cầu đặt ra là dạy một cách kĩ
lưỡng để HS một mặt thấy được vẻ đẹp cụ thể của tác phẩm ấy, mặt khác giúp HS biết cách đọc,
cách phân tích và tiếp nhận một tác phẩm văn học theo thể loại. Từ đó, các em có thể tự mình
đọc, tìm hiểu và khám phá những tác phẩm cùng thể loại. Kết quả là, HS sẽ không còn lúng túng
khi gặp những tác phẩm chưa được học trên lớp, bởi vì cách tiếp cận những thể loại đó HS đã
được học kĩ càng. Chính vì lí do đó mà việc nắm vững đặc trưng thi pháp thể loại và lựa chọn
phương pháp giảng dạy cho phù hợp là yêu cầu cơ bản đối với người GV dạy văn.
1.4. Trong chương trình Ngữ văn lớp 10, nội dung đã hướng vào dạy học nhiều kiểu tác phẩm
văn học theo các thể loại khác nhau. Riêng phần Văn học trung đại đã cho thấy khá đầy đủ diện
mạo văn học thời kì này. Và lẽ dĩ nhiên, nghiên cứu về văn học giai đoạn này, không thể không
nhắc đến kiệt tác văn học của dân tộc là Truyện Kiều. Tác phẩm này được đưa vào chương trình
không chỉ với tư cách là một vật báu của văn học dân tộc mà còn giữ vai trò như một ví dụ tiêu
biểu nhất về một thể loại văn học nội sinh của dân tộc là thể loại truyện thơ. Truyện Kiều được
trích giảng 4 đoạn trích xuất phát từ quan điểm thi pháp học. Các trích đoạn được coi là đỉnh cao
của nghệ thuật Truyện Kiều, những tiêu chí khu biệt Truyện Kiều – Việt Nam với Kim Vân Kiều
truyện – Trung Quốc sẽ là đối tượng trích giảng của phương pháp này.

Trước những yêu cầu mới của chương trình Ngữ văn bậc THPT, với hứng thú giảng dạy
tác phẩm văn học theo đặc trưng thi pháp thể loại và tình yêu với Truyện Kiều, chúng tôi đã lựa
chọn đề tài: Dạy học các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học sinh
lớp 10 trung học phổ thông. Đề tài thực sự là một sự hứng thú đối với chúng tôi vì nó đã chạm
đến vấn đề cốt lõi nhất của việc đổi mới dạy học văn từ mục tiêu, cấu trúc và nội dung chương
trình đến phương pháp dạy học. Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi thiết nghĩ việc
nghiên cứu đề tài trong tình hình hiện nay là cần thiết và hữu ích.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về phƣơng pháp dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thi pháp thể loại
Các tác phẩm Phương pháp dạy học văn do Phan Trọng Luận chủ biên, Phân tích tác
phẩm văn học trong nhà trường của Phan Trọng Luận, Đổi mới phương pháp dạy học Văn -
Tiếng Việt ở trường phổ thông của Nguyễn Trí - Nguyễn Trọng Hoàn đã cung cấp cho GV
những kiến thức lí luận và phương pháp giảng dạy văn học cơ bản. Với cuốn Những ngả đường
vào văn học, Hoàng Ngọc Hiến đi từ những khái luận đến việc đọc tác phẩm và phân tích tác
phẩm. Trong đó có những bài viết hữu ích cho việc dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể
trong nhà trường như: Bàn góp về phương pháp giảng văn, Một ít lí thuyết về trào phúng, Mấy
vấn đề của tiểu thuyết và đặc trưng của thể loại này, Kí và tiểu luận, Đặc điểm của truyện ngắn
hiện đại, Trên cơ sở thi pháp học, tác giả Nguyễn Thị Dư Khánh trong cuốn Thi pháp học và
vấn đề giảng dạy thi pháp trong nhà trường đã có những khám phá sâu sắc về việc vận dụng một
số thi pháp truyện vào việc giảng dạy truyện. Trong đó, các bài viết Hai đứa trẻ, Về một hướng
tiếp cận tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao có những phát hiện mới mẻ ở bình diện sáng tạo nghệ
thuật, có tính chất định hướng cho việc khai thác vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm truyện được
giảng dạy ở trường phổ thông.
Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thi pháp thể loại đã trở thành một xu hướng
và được để cập khá nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học. Tiêu biểu như: Vấn đề
giảng dạy văn học theo loại thể của Trần Thanh Đạm, Phương pháp dạy học văn, Phân tích tác
phẩm văn học trong nhà trường của Phan Trọng Luận, Đổi mới phương pháp dạy học Văn -
Tiếng Việt ở trường phổ thông của Nguyễn Trí - Nguyễn Trọng Hoàn, Những ngả đường vào
văn học của Hoàng Ngọc Hiến, Thi pháp học và vấn đề giảng dạy thi pháp trong nhà trường của
Nguyễn Thị Dư Khánh

2.2. Về giảng dạy Truyện Kiều, các trích đoạn Truyện Kiều từ đặc trƣng thi pháp thể loại
Trong Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể do Trần Thanh Đạm chủ biên, Tài liệu bồi
dưỡng thường xuyên giáo viên trung học phổ thông, Tập bài giảng phương pháp dạy học ngữ
văn của Khoa Sư phạm, Trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội, Phương pháp dạy
học tác phẩm văn chương (theo thể loại) của Nguyễn Viết Chữ tuy có đề cập đến phương pháp
giảng dạy thể loại truyện song mới chỉ là những lí thuyết chung còn khá sơ lược và Truyện Kiều
chưa được quan tâm một cách thích đáng.
Trong bài viết Giảng văn đoạn trích Truyện Kiều, Trần Đình Sử đặt ra yêu cầu mới cho
việc dạy học các trích đoạn Truyện Kiều, tuy nhiên đó mới chỉ là những hướng đi khái quát.
Phạm Thu Thảo trong khóa luận tốt nghiệp Phương pháp dạy học truyện thơ Nôm (Đại học Sư
phạm Hà Nội) có đề cập phương pháp dạy học truyện thơ Nôm trong đó có Truyện Kiều theo
đặc trưng thể loại nhưng đó chỉ là một phương pháp trong nhóm phương pháp tác giả đề ra. Như
vậy phương pháp giảng dạy Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại còn khá nhiều vấn đề bỏ ngỏ.
3. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lí luận về tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm văn chương, về đặc trưng thi pháp thể
loại truyện thơ, đề xuất các phương pháp, quy trình cụ thể dạy học các đoạn trích Truyện Kiều ở
lớp 10 THPT theo đặc trưng thể loại nhằm nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm thuộc thể loại
truyện thơ, góp phần khẳng định ưu điểm và tính khả thi của một hướng dạy học đổi mới: Dạy
học văn theo đặc trưng thi pháp thể loại.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi ứng dụng - áp dụng
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Việc giảng dạy thể loại truyện thơ thông qua các đoạn trích Truyện
Kiều trong chương trình Ngữ văn 10 trung học phổ thông Ban Cơ bản; Phan Trọng Luận (Tổng
chủ biên), NXB Giáo dục; 2007 theo đặc trưng thể loại.
4.2 Phạm vi ứng dụng - áp dụng: HS lớp 10, GV dạy Ngữ văn lớp 10 (tại một số trường THPT
tác giả công tác và có điều kiện trao đổi).
5. Giả thuyết nghiên cứu
Việc hiện thực hóa ý tưởng dạy học thể loại truyện thơ thông qua các đoạn trích Truyện
Kiều trong chương trình Ngữ văn 10 theo đặc trưng thể loại bên cạnh thành công vẫn còn nhiều
bất cập. Nếu tổ chức hoạt động dạy học truyện thơ cho HS lớp 10 trên cơ sở vận dụng những
hiểu biết về đặc trưng thi pháp thể loại và theo hướng HS là bạn đọc sáng tạo thì sẽ giúp HS biết

đọc – hiểu truyện thơ, hình thành và phát triển ở các em phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn
học, giúp các em trở thành những chủ thể tích cực, sáng tạo trong học tập ngữ văn.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Vận dụng lí thuyết dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thi pháp thể loại vào dạy các
trích đoạn Truyện Kiều cho HS lớp 10, THPT ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình.
- Đề xuất phương pháp, biện pháp cụ thể vận dụng đặc trưng thể loại vào dạy các đoạn trích
Truyện Kiều cho HS lớp 10.
- Thiết kế các giáo án dạy học các đoạn trích Truyện Kiều cho HS lớp 10 theo đặc trưng thể loại.
Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng kết quả nghiên cứu.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm, thống kê, phân tích
- Phương pháp khái quát, hệ thống hóa. Phân tích, mô tả kết quả thực nghiệm.
8. Đóng góp của luận văn
- Về lí luận: Khẳng định hướng đổi mới đúng đắn của phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương theo đặc trưng thể loại. Đề xuất những phương pháp, biện pháp dạy các đoạn trích
Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại cho HS lớp 10, THPT.
- Về thực tiễn:
+ Đánh giá thực trạng dạy học các đoạn trích Truyện Kiều cho HS lớp 10 nhằm tìm hiểu kết quả
hiện thực hóa tinh thần dạy học theo đặc trưng thể loại của SGK Ngữ văn 10.
+ Đánh giá tính khả thi của việc dạy học những trích đoạn Truyện Kiều, góp phần hoàn thiện mô
hình giờ dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại, đóng góp thêm tư liệu tham khảo soạn
giảng, góp phẩn nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn 10.
9. Cấu trúc Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học
sinh lớp 10 THPT
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm





CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC
CÁC ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN KIỀU THEO ĐẶC TRƢNG THI PHÁP THỂ LOẠI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1 Thi pháp thể loại và thi pháp Truyện Kiều
1.1.1.1. Khái niệm thi pháp, thể loại và thi pháp Truyện Kiều
1.1.1.1.1. Khái niệm thi pháp, thể loại
Thi pháp học là bộ môn cổ xưa nhất của ngành nghiên cứu văn học. Khái niệm thi pháp
học xuất hiện đầu tiên với công trình Nghệ thuật thi ca của Aistole Trong nền văn hóa phương
Tây, thuật ngữ thi pháp học theo Aistole là chỉ lí luận văn học, đến trung thế kỉ, thuật ngữ này
chỉ kĩ nghệ, kĩ xảo sáng tác thơ ca; từ thế kỉ XIX trở đi, thuật ngữ này được dùng như lí luận văn
học với nghĩa rộng, nó bao gồm sự tổng kết lí luận và nghiên cứu tất cả các thể tài văn học. Ở
phương Đông, nếu hiểu thi pháp như một nghệ thuật thì Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp là công
trình thi pháp học sớm nhất bởi nó dạy cho người ta những tinh túy của phép làm văn. Đến nửa
cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, thi pháp học hiện đại chính thức được dấy lên, hàng loạt các
trường phái thi pháp học hiện đại theo sau xuất hiện.
Chúng tôi thống nhất cách hiểu về thi pháp là khoa học nghiên cứu hệ thống các phương
thức biểu hiện đời sống bằng nghệ thuật trong sáng tác văn học nhằm khám phá các cấu trúc thể
hiện bản chất của nghệ thuật văn học.
Về thể loại văn học, đến nay có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm này, chúng tôi
cùng thống nhất cách hiểu về khái niệm thể loại văn học như sau: Thể loại văn học là phương
thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn bản. Tên gọi thể loại của tác phẩm cho ta biết:
phạm vi và phương thức tái hiện đời sống, hệ thống các phương tiện, phương pháp thể hiện
tương ứng. Từ cách hiểu trên, có thể chia tác phẩm văn học làm ba loại chính: Tự sự, trữ tình và
kịch.
1.1.1.1.2. Thi pháp Truyện Kiều

Truyện Nôm là thể loại truyện vừa trung đại, có xu hướng tiểu thuyết hóa. Thi pháp
Truyện Kiều từ góc nhìn thể loại được nghiên cứu trên các phương diện: Tư tưởng nghệ thuật,
mô hình tự sự của Truyện Kiều; Cái nhìn nghệ thuật về con người; Không gian nghệ thuật của
Truyện Kiều; Thời gian nghệ thuật của Truyện Kiều. Qua nghiên cứu cho thấy: xét về nội dung,
Truyện Kiều tiếp tục những vấn đề của ngâm khúc và truyện Nôm trước đó để thực sự đạt được
đỉnh cao của thể loại này; xét về hình thức, Truyện Kiều đã phát triển những nét mới trong thi
pháp truyện Nôm và ngâm khúc lên một trình độ cao chưa từng có biến văn học trung đại thành
văn học nghệ thuật, biến tiếng Việt thành tiếng Việt văn học đích thực, biến truyện Nôm thành
thể loại mang tính “hàn lâm” hơn.
1.1.1.2. Ý nghĩa của vấn đề thi pháp thể loại với việc dạy – học văn học trong nhà trường nói
chung và Truyện Kiều nói riêng
1.1.1.2.1. Ý nghĩa của thi pháp học đối với việc đổi mới cách tiếp nhận, phân tích văn học ở Việt
Nam
Thi pháp học mặc dù mới được áp dụng những đã nhanh chóng khẳng định những ưu
điểm và ý nghĩa to lớn của mình trong việc hiện đại hóa nền lí luận văn học nước nhà. Với một
loại công trình nghiên cứu về thi pháp trong đó đi đầu là GS Trần Đình Sử đã thực sự khẳng định
vai trò to lớn của thi pháp học trong việc đổi mới cách tiếp nhận, phê bình văn học ở Việt Nam,
khai thông những bế tắc trong nghiên cứu phê bình văn học ở Việt Nam về vấn đề hình thức.
Nhờ có một hệ thống khái niệm đã được hình thức hóa, một hệ thống lí luận phong phú,
toàn diện, thi pháp học đã trả lời được một loạt những câu hỏi về văn bản, hình thức hóa được
những nội dung vốn trừu tượng, khám phá được những mối quan hệ nội tại trong chiều sâu văn
bản. Tiếp cận bằng thi pháp học đã đưa nền lí luận văn học nước nhà vào quỹ đạo hiện đại hóa,
bắt kịp sự phát triển hiện đại của thế giới.
1.1.1.2.2. Ý nghĩa của vấn đề thi pháp thể loại với việc dạy – học các trích đoạn Truyện Kiều
trong trường THPT
Bằng việc hướng dẫn HS khai thác đối đa các yếu tố cấu thành văn bản, khai thác vẻ đẹp,
giá trị về nội dung và nghệ thuật GV sẽ hình thành cho HS những năng lực cảm thụ văn chương,
biết áp dụng những hiểu biết về ngôn ngữ học vào tiếp nhận văn chương. Xuất phát từ quan niệm
dạy học dựa trên những hiểu biết của HS về văn hóa, văn học và ngôn ngữ vào những tình huống
cụ thể để vận dụng từ văn học vào cuộc sống và từ đó hình thành những giá trị về nhân cách cho

HS.
1.1.2. Khả năng tiếp nhận Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại của học sinh lớp 10 THPT
1.1.2.1. Tâm lí lứa tuổi của học sinh THPT
Tâm lí học lứa tuổi xác định lứa tuổi HS THPT là tuổi đang bước vào giai đoạn dậy thì,
cần được nghiên cứu một cách phức hợp, phải kết hợp quan điểm tâm lí học xã hội với việc tính
đến những quy luật bên trong của sự phát triển. Hoạt động của HS trong độ tuổi thanh niên này
ngày càng phong phú và phức tạp nên vai trò xã hội và hứng thú xã hội của thanh niên không chỉ
mở rộng về số lượng và phạm vi mà còn biến đổi cả về chất lượng.
1.1.2.2. Tâm lí tiếp nhận văn chương của học sinh THPT
Tiếp nhận văn chương là một hoạt động của tư duy mang sắc thái cá nhân và đặc điểm
tâm lí của người tiếp nhận.
Quá trình tiếp nhận là một quá trình tâm lí phức tạp vừa mang tính chủ quan vừa mang
tính khách quan. Tính chủ quan trong tiếp nhận là một thuộc tính vì quá trình tiếp nhận là quá
trình diễn ra trong tư duy, tình cảm, tâm sinh lí của bạn đọc. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào thị hiếu
của bạn đọc.
1.1.2.3. Tâm lí tiếp nhận Truyện Kiều của học sinh THPT
Quá trình tiếp nhận văn học trung đại nói chung và Truyện Kiều nói riêng phải vượt qua
rất nhiều rào cản: về phương diện ngôn ngữ, về kiểu tư duy riêng, một hệ thống thi pháp riêng
đòi hỏi người tiếp nhận phải am hiểu nhiểu lĩnh vực kiến thức, nhất là về lịch sử, văn hóa, tư
tưởng. Hơn nữa, quỹ thời gian cho học tập của HS không nhiều trong khi đó phải học nhiều lĩnh
vực kiến thức. Tâm lí tuổi trẻ cộng với cơ chế thị trường đã tạo cho con người thời hiện đại nói
chung tính nóng vội, thực dụng, thích những cái mới lạ.
Tuy nhiên, tâm lí tiếp nhận Truyện Kiều của HS THPT cũng có khá nhiều yếu tố thuận
lợi. Nhìn chung HS đã có sự chuẩn bị về tâm lí nên khá quen thuộc và hứng thú với những trích
đoạn. HS THPT có sự trưởng thành về vốn ngôn ngữ và khả năng tư duy để hình thành phương
pháp tiếp nhận và khả năng cảm thụ. Hơn nữa, trong thời đại bùng nổ khoa học công nghệ như
hiện nay, HS bậc THPT đã có khả năng truy cập nhiều kênh thông tin từ báo chí, tài liệu tham
khảo, đặc biệt là internet nhằm tiếp nhận, trao đổi và tích lũy kiến thức.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, chúng tôi cho rằng việc tiếp nhận Truyện Kiều ở
HS trung học phổ thông có thể khắc phục được nếu GV có phương pháp khắc phục khoảng cách

thẩm mĩ, kích thích hứng thú của HS để các em chủ động, tích cực trong việc tiếp nhận Truyện
Kiều một cách hiệu quả.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vấn đề tích cực hóa hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn chương của học sinh THPT
1.2.1.1. Tích cực và tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh THPT
Tinh thần cơ bản của đổi mới phương pháp môn Ngữ văn nói riêng và các môn học khác
nói chung trong nhà trường phổ thông hiện nay là tích cực hóa hoạt động học tập của HS và các
hoạt động dạy của GV.
“Tích cực hóa hoạt động học tập của người học được hiểu là PPDH lấy HS làm trung
tâm, trong đó thầy cô đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của HS, mỗi HS đều được hoạt
động, mỗi HS đều được bộc lộ mình và phát triển”. (Nguyễn Minh Thuyết chủ biên, SGV Tiếng
Việt 5, tập 1, NXBGD, Tr11)
1.2.1.2. Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh THPT trong giờ học Ngữ văn
Trong PPDH truyền thống, quan hệ GV – HS chủ yếu là quan hệ một chiều: GV thuyết
trình, diễn giảng, - HS lắng nghe. Còn trong PPDH hiện đại, quan hệ GV – HS là quan hệ tương
tác: GV giữ vai trò chủ đạo (lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của HS); HS có
vai trò chủ động (tích cực, sáng tạo, tiếp thu tri thức). Vận dụng PPDH theo hướng đổi mới, GV
phải thực sự là nhà sư phạm mới tạo ra được quan hệ tương tác hai chiều với nỗ lực hợp tác từ
phía HS, và chỉ có như vậy GV mới hoàn thành được mục tiêu dạy học.
1.2.1.3. Tích cực hóa hoạt động của học sinh THPT trong giờ học các trích đoạn Truyện Kiều
Trong giờ học các đoạn trích Truyện Kiều, để tích cực hóa hoạt động của người học, GV
không đóng vai trò thuyết trình, diễn giảng, GV không làm thay cho HS mà tổ chức cho HS tác
động vào đối tượng học tập nhằm chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng tương ứng.
Để dạy các đoạn trích Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại, các biện pháp “đọc” văn bản
cần được vận dụng đúng mức trong mỗi công đoạn của quy trình dạy học.
Tích cực hóa hoạt động của HS trong giờ dạy Truyện Kiều nhằm hướng cho HS chủ
động, tích cực tìm hiểu văn bản dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV. GV phải biết khích thích
hứng thú, khơi dậy những điểm ì trong tiếp nhận của HS để khắc phục khoảng cách thẩm mĩ giữa
bạn đọc HS và văn bản truyện thơ Nôm, giữa thế hệ hiện đại với văn bản từ thời trung đại.
1.2.2. Thực trạng dạy các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn 10

1.2.2.1. Các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn
Các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn hiện nay được dạy theo hướng
đồng tâm, nâng cao. Các trích đoạn được coi là đỉnh cao của nghệ thuật Truyện Kiều, những tiêu
chí khu biệt Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện sẽ là đối tượng trích giảng.
1.2.2.2. Thực trạng dạy các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn 10
Về phía HS, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy HS lớp 10 đã từng được làm quen với
Truyện Kiều, có những tiền đề tâm lí để tiếp nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại nhưng việc
hiện thực hóa tinh thần đổi mới về dạy Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại ở những địa bàn khảo
sát cho thấy vẫn còn nhiều HS hiểu về thể loại một cách mơ hồ, không mấy hứng thú.
Về phía GV, GV đã thực hiện khá nghiêm túc quy trình giảng dạy nên đã ít nhiều thực
hiện được ý tưởng của tác giả SGK. Tuy nhiên đa số GV coi trọng hoạt động phân tích văn bản
mà chưa chú trọng đến đặc trưng của thể loại.
CHƢƠNG 2
DẠY ĐỌC HIỂU CÁC TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN KIỀU THEO ĐẶC TRƢNG
THI PHÁP THỂ LOẠI CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT
2.1. Những yêu cầu của việc dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trƣng thi
pháp thể loại
2.1.1. Dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại
Việc dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại cần đáp
ứng những yêu cầu sau:
- Người dạy và người học cần khai thác các yếu tố ngôn từ trong chức năng xây dựng thế giới
nghệ thuật, trong việc thể hiện cái nhìn, trong xác định hình tượng không gian, thời gian, trong
hình thành các biểu trưng, trong biểu hiện cảm giác.
- Người dạy không được nhầm lẫn áp dụng thi pháp là hoàn toàn chỉ dựa vào hình thức của tác
phẩm một cách cực đoan mà đoạn tuyệt với bối cảnh văn hóa thời đại.
- GV hướng dẫn HS đọc và hiểu được các đặc điểm của ngôn ngữ Truyện Kiều, đặt nó vào bối
cảnh văn hóa thời đại, lí giải những quan niệm và hành động của nhân vật từ đó biến việc hiểu
biết về văn bản thành những giá trị nhận thức để áp dụng vào đời sống.
- Áp dụng thi pháp học không có nghĩa là người thầy sẽ rơi vào hình thức chủ nghĩa, ngâm vịnh,
thưởng ngoạn văn chương một cách cực đoan một chiều.

Từ những yêu cầu trên, có thể khái quát cấp độ của năng lực đọc hiểu được đánh giá theo 5
mức cụ thể:
- Lấy thông tin
- Hình thành một sự hiểu biết chung về văn bản
- Phân tích, giải thích văn bản
- Phản ánh và đánh giá nội dung của văn bản
- Phản ánh và đánh giá hình thức của văn bản
2.1.2. Những nguyên tắc của việc dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi
pháp thể loại
Dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp học không chỉ ảnh hưởng sâu rộng làm thay đổi bộ
mặt lí luận của văn học nước nhà, thi pháp học còn đang góp phần to lớn vào việc đổi mới cách
dạy và học văn học trong nhà trường ở nước ta.
Khi tiến hành triển khai dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp học, phải tuân theo những
nguyên tắc như sau:
- Nguyên tắc thứ nhất là: Dạy học tác phẩm theo hướng tiếp cận thi pháp học phải đi từ văn bản
- Nguyên tắc thứ hai là: dạy học tác phẩm theo hướng tiếp cận thi pháp học phải tuân theo các
đặc trưng thể loại.
- Nguyên tắc thứ ba là: Dạy học tác phẩm theo hướng tiếp cận thi pháp học phải đặt HS vào
trung tâm của quá trình dạy học
- Nguyên tắc thứ tư là: dạy học tác phẩm theo hướng tiếp cận thi pháp học phải tích hợp các cách
tiếp cận, các phương pháp, biện pháp và công cụ dạy học một cách thích hợp.
2.2. Một số giải pháp dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trƣng thi pháp thể
loại
2.2.1. Biện pháp đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều từ đặc trưng ngôn ngữ thể loại
2.2.1.1. Ngôn ngữ thể loại của Truyện Kiều
Ngôn ngữ trong Truyện Kiều là một thành tựu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử văn học
dân tộc. Trong môi trường đặc thù là học đường, chúng tôi không nhằm nghiên cứu trên bình
diện khái quát những thành công về ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm cũng như cấu trúc ngôn
ngữ tác phẩm mà xuất phát từ những chỗ HS còn vướng khi tiếp nhận tác phẩm.
Trong Truyện Kiều có hai thành phần ngôn ngữ với hai nguồn gốc khác nhau là từ ngữ

Việt và từ ngữ Hán Việt. Sự xuất hiện từ ngữ Việt thể hiện tính dân tộc sâu sắc của ngôn ngữ
Truyện Kiều khiến tác phẩm gần gũi với thiên nhiên và tâm hồn Việt Nam. Ngôn ngữ Truyện
Kiều đạt đến đỉnh cao của trình độ nghệ thuật và đưa ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ ngữ văn học
dân gian trở thành ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn chương bác học. Đồng thời Nguyễn
Du cũng đã vận dụng các yếu tố ngôn ngữ Hán Việt và sử dụng các điển cố thi liệu của Trung
Quốc đạt tới mức hoàn hảo và toàn diện thể hiện sự am hiểu và trình độ ngôn ngữ bậc thầy của
mình trong Truyện Kiều.
2.2. 1.2. Quy trình đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều từ đặc trưng ngôn ngữ thể loại
* Bước 1: GV hướng dẫn HS tự đọc hiểu văn bản
Hướng dẫn HS tự đọc hiểu văn bản là những hoạt động trước tiết học. Hoạt động đó
thường diễn ra ở nhà nhằm chuẩn bị cho tiết học sau với mục đích đảm bảo sự thành công ở mức
độ cao cho bài học tới. Trước mỗi tiết học GV cần yêu cầu và hướng dẫn HS:
- Đọc kĩ văn bản, các tài liệu tham khảo và trả lời các câu hỏi ở phần Hướng dẫn Đọc - hiểu văn
bản.
- Ghi chép các từ khó, điển tích, điển cố. Ở mỗi văn bản cần có sự rà soát chi tiết về các từ khó
- Tìm nghĩa của các từ khó.
- Viết những nhận thức ban đầu về ý nghĩa các từ khó.
* Bước 2: GV huớng dẫn HS đọc diễn cảm văn bản và học thuộc văn bản.
- HS nghe đọc mẫu
- HS đọc diễn cảm
- Yêu cầu HS thuộc văn bản
* Bước 3: GV tổ chức trao đổi về các từ khó trong các trích đoạn
- Phân nhóm để HS thảo luận
- Tổ chức các trò chơi ô chữ, điền từ thích hợp
* Bước 4: GV hướng dẫn HS đọc hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích qua tìm hiểu
đặc trưng ngôn ngữ thể loại.
2.2.2. Biện pháp đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp cốt truyện
2.2.2.1. Thi pháp cốt truyện Truyện Kiều
Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều trên cơ sở vay mượn cốt truyện của một tiểu thuyết
chương hồi Trung Quốc ra đời khoảng cuối Minh đầu Thanh - Kim Vân Kiều truyện. Nhưng các

nhà nghiên cứu đã khẳng định hết sức đúng đắn rằng đây không phải là hiện tượng dịch văn học
mà là sự sáng tạo mới, đây là hiện tượng hoán cốt đoạt thai để tạo thành một tác phẩm hoàn toàn
mới. Ngoài ra, Nguyễn Du đã thêm bớt và xử lý khác cốt truyện của nguyên truyện ở các phương
diện: hệ thống nhân vật, thứ tự trình bày các sự kiện, những vấn đề luân lý, triết lý và đôi khi cả
các chi tiết.
Truyện Kiều là cuốn tiểu thuyết trường thiên, trong đó lại chứa đựng rất nhiều câu
chuyện nhỏ. Mỗi trích đoạn Truyện Kiều được coi là một lát cắt chứa đựng một cốt truyện nhỏ
nằm trong cốt truyện lớn của tiểu thuyết trường thiên ấy. Có thể nói, Nguyễn Du đã rất khéo léo
sắp xếp các sự kiện để chúng vừa có thể đóng vai trò chính trong cốt truyện nhỏ lại vừa giữ
những vai trò khác nhau trong cốt truyện lớn khiến người đọc dễ dàng tìm hiểu văn bản qua từng
trích đoạn. Do vậy, muốn tìm hiểu các trích đoạn từ đặc trưng thi pháp cốt truyện, chúng ta cần
đặt cốt truyện nhỏ của mỗi trích đoạn trong quan hệ với cốt truyện lớn để từ đó có các biện pháp
tiếp nhận văn bản hiệu quả.
2.2.2.2. Quy trình đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều từ đặc trưng thi pháp cốt truyện
* Bước 1: GV cung cấp tài liệu và hướng dẫn cho HS tìm hiểu cốt truyện lớn.
- GV cung cấp nguồn tài liệu để HS tìm hiểu, thấy rõ điểm chênh giữa cốt truyện của tiểu thuyết
chương hồi Kim Vân Kiều truyện và Truyện Kiều.
- HS chứng minh được sự sáng tạo của Nguyễn Du khi viết Đoạn trường tân thanh.
* Bước 2: GV hướng dẫn HS tìm hiểu vị trí của đoạn trích trong tác phẩm.
- HS tìm những sự kiện, chi tiết tiết biểu trước và sau đoạn trích.
- Xác định vị trí của đoạn trích trong tác phẩm.
* Bước 3: GV hướng dẫn HS tìm hiểu cốt truyện của đoạn trích từ sự sắp xếp các sự việc, sự
kiện trong văn bản.
- GV yêu cầu HS đọc lại và kể lại được cốt truyện với những sự kiện, tình tiết cơ bản.
- GV tích hợp nội dung kiến thức phân môn Làm văn về thể loại văn tự sự để nhập vai nhân vật
trong tác phẩm kể lại câu chuyện.
- GV yêu cầu HS phát hiện những sự kiện có ý nghĩa quan trọng được coi như những tình huống
truyện có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thể hiện tính cách, số phận nhân vật.
- Bước 4: GV huớng dẫn HS lí giải trình tự sắp xếp các sự việc, sự kiện trong văn bản. Trong
Truyện Kiều, các dòng, sự kiện, sự việc được sắp xếp linh hoạt phụ thuộc vào mục đích phản

ánh. Có thể thấy rằng, khi phản ánh sự việc thật với mục đích trình bày hoặc tố cáo, Nguyễn Du
sắp xếp các chi tiết, sự việc theo trật tự thông thường. Khi hướng tới phản ánh tâm trạng của
nhân vật Nguyễn Du không đặt trọng tâm ở việc, ông tước bỏ các chi tiết, biến con người đạo lí
thành con người tâm lí nên lúc này trật tự sắp xếp sự việc, sự kiện theo trật tự của cảm xúc nhân
vật trữ tình.
2.2.3. Biện pháp dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều từ đặc trưng thi pháp nhân vật
2.2.3.1. Đặc trưng thi pháp nhân vật trong Truyện Kiều
- Bút pháp tương trưng, ước lệ: Nguyễn Du sử dụng thành công bút pháp ước lệ tượng trưng –
một đặc điểm lớn về nghệ thuật của văn học trung đại để miêu tả ngoại hình nhân vật, chủ yếu là
nhân vật chính diện.
- Bút pháp hiện thực: Nguyễn Du dùng bút pháp hiện thực để miêu tả nhân vật qua cử chỉ, hành
động đặc biệt là đối với các nhân vật phản diện.
- Ngôn ngữ độc thoại của nhân vật: Nguyễn Du thành công khi sử dụng loại ngôn ngữ độc thoại
nội tâm để khám phá chiều sâu tư tưởng, tình cảm con người, hiểu được tâm trạng nỗi niềm của
Kiều.
- Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật : Để nhân vật của mình được hiện lên đầy đủ, toàn diện,
Nguyễn Du đã miêu tả họ với cái nhìn nhiều chiều, có khi là miêu tả ngoại hình, có khi miêu tả
nội tâm, có khi lại thông qua ngôn ngữ đối thoại của họ để thấy được tính cách sống động của
mỗi nhân vật.
2.2.3.2. Quy trình dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều từ góc độ thi pháp nhân vật
Nhân vật là nơi tập trung biểu hiện tư tưởng, tình cảm của tác phẩm và tác giả. Tuy nhiên
phân tích nhân vật dễ sa vào tình trạng bình giá chung chung, trừu tượng. Phân tích nhân vật
không phải đơn thuần dùng một số từ xác đáng nào đó để đánh giá, khen hay chê nhân vật mà
cần tìm trong lai lịch, diện mạo, hình dung, ý nghĩ, cảm xúc, lời nói, cử chỉ, hành động, thái độ
của nhân vật đó những căn cứ dẫn ta đi đến sự đánh giá. Hơn nữa, cần phát hiện ở mỗi nhân vật
một vấn đề, một bài học. Yêu cầu chủ yếu đối với phân tích nhân vật về mặt phương pháp phải
đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ riêng biệt đến khái quát. Trong khi phân tích cần tiến hành như
sau:
* Bước 1: Yêu cầu HS lưu ý đến các chi tiết miêu tả, tự sự, nhận xét về nhân vật
Những chi tiết này có lúc được bộc lộ rõ ràng, nhưng thường khi rất kín đáo, ẩn trong lời

văn, HS đọc qua thường ít khi chú ý. GV yêu cầu HS đọc kĩ văn bản, tìm và tập hợp các chi tiết
tiêu biểu miêu tả về nhân vật về tất cả các phương diện như nguồn gốc, hành động, tính cách,
tâm trạng,
Nhiệm vụ này nhằm hướng HS đến kĩ năng lấy thông tin của HS từ văn bản để - hình thành
một sự hiểu biết chung về văn bản: Nhận ra được đặc điểm nổi bật của nhân vật và hiểu biết về
văn bản. Kết hợp thông tin trong văn bản đang tìm hiểu với những thông tin có liên quan về nhân
vật ở các trích đoạn văn bản khác, thông tin giữa hai văn bản không liền mạch với nhau.
* Bước 2: GV hướng dẫn HS phát hiện, lựa chọn và cắt nghĩa các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp phân
loại chung theo trình tự hợp lí nhằm làm sáng tỏ tính cách nhân vật
Trong tác phẩm, cần phát hiện và lựa chọn những chi tiết tiêu biểu, có ý nghĩa nhất, có
tác dụng làm sáng tỏ nhân vật. Khi phân tích các nhân vật đó, chúng ta phải sắp xếp, phân loại
các chi tiết về họ theo từng mặt một để có một nhận thức và đánh giá đúng đắn, sâu sắc về họ.
Tùy theo việc miêu tả và tự sự về nhân vật của tác phẩm như thế nào mà ta có thể nêu ra một số
mặt cần phân tích. Đi vào từng mặt một, vừa nhắc lại các chi tiết liên quan chúng ta vừa bình
luận các chi tiết đó từ nhiều phía làm sáng tỏ tính cách nhân vật.
Đối với các nhân vật tiêu biểu trong các trích đoạn Truyện Kiều, để hiểu về các nhân vật
chúng ta cũng cần phát hiện và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp, phân loại chúng theo trình
tự hợp lí về các mặt. Trong khi phân tích nhân vật trong đoạn trích, cần có sự kết hợp giữa các
chi tiết có mặt trong đoạn trích và các chi tiết về nhân vật trong tác phẩm để có sự đánh giá toàn
diện.
* Bước 3: Tổng hợp các mặt phân tích về nhân vật thành một nhận định khái quát, nêu bật được
ý nghĩa và tác dụng nhận thức cũng như giáo dục của nhân vật, gợi ra những vẫn đề liên hệ, suy
nghĩa, thảo luận, tranh luận về nhân vật
Sau khi đã phát hiện, lựa chọn và phân tích những chi tiết có liên quan đến các mặt của
nhân vật, GV cần hướng cho HS đưa ra suy nghĩ, nhận xét về các nhân vật đó. Việc liên hệ, thảo
luận, tranh luận về nhân vật có thể thông qua hình thức vấn đáp hoặc thảo luận nhóm.
Ở mỗi giải pháp chúng tôi đã đưa ra những biện pháp với quy trình thực hiện để cụ thể
hóa cho giải pháp dạy các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại. Chúng tôi đã thiết kế
giáo án thử nghiệm dạy trích đoạn “Trao duyên” cho HS lớp 10, THPT.



















CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM DẠY HỌC CÁC ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN KIỀU
THEO ĐẶC TRƢNG THI PHÁP THỂ LOẠI
3.1. Những vấn đề chung
Trong chương này, dựa trên nền tảng lí luận và thực tiễn đã được xây dựng ở chương 1
và chương 2 làm căn cứ cho việc thiết kế giáo án tổ chức dạy các trích đoạn Truyện Kiều theo
đặc trưng thể loại, chúng tôi tiến hành dạy thực nghiệm trên đối tượng HS lớp 10 tại địa bàn tỉnh
Ninh Bình.
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
Việc dạy thực nghiệm các trích đoạn Truyện Kiều tập trung vào trích đoạn trong chương
trình học chính khóa là Trao duyên trong chương trình Ngữ văn 10 theo đặc trưng thể loại
hướng đến những mục đích sau:
- Kiểm chứng, xác nhận tính đúng đắn và tính khả thi của việc dạy HS lớp 10 tiếp nhận các trích

đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại. Kết quả thực nghiệm sẽ xác nhận giá trị khoa học và
thực tiễn của những đè xuất đổi mới cách khai thác tác phẩm và phương pháp dạy học Truyện
Kiều trong chương trình Ngữ văn 10 theo đặc trưng thể loại.
- Kiếm chứng, xác nhận tính đúng đắn của giả thuyết khoa học đã đề xuất: việc tổ chức hoạt
động học tập tác phẩm văn học trung đại như Truyện Kiều cho HS lớp 10 trên cơ sở vận dụng
những hiểu biết về đặc trưng thi pháp thể loại sẽ hình thành và phát triển ở HS phương pháp tiếp
nhận tác phẩm văn học trung đại nói chung và Truyện Kiều nói riêng; giúp các em trở thành
những chủ thể tích cực, sáng tạo trong học tập, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tác
phẩm văn học trong nhà trường.
- Tiếp thu ý kiến phản hồi từ phía GV và HS trong quá trình thực nghiệm để điều chỉnh, sửa
chữa, bổ sung, hoàn thiện những đề xuất đổi mới về cách khai thác tác phẩm, cách tổ chức hoạt
động dạy học cho HS.
- Đi đến những kết luận có căn cứ về kết quả nghiên cứu, là gợi ý để người nghiên cứu có thể
tiếp tục suy nghĩ về phương pháp dạy học các tác phẩm thuộc những thể loại khác theo đặc trưng
thi pháp thể loại.
3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
* Đối tượng và địa bàn thực nghiệm: HS lớp 10, GV dạy Ngữ văn 10 ở trường THPT Gia Viễn
A, huyện Gia Viễn, Ninh Bình.
* Thời gian thực nghiệm:
- 1/8/2012-25/8/2012: Biên soạn tài liệu
- 10/9/2012-20/9/2012: Tổ chức dạy thực nghiệm
- 25/9/2-12-10/10/2012: Đánh giá kết quả thực nghiệm
3.1.3. Nội dung thực nghiệm
– Nội dung thực nghiệm là hoạt động dạy và học Truyện Kiều qua trích đoạn Trao duyên,
chương trình Ngữ văn 10.
– Việc thực hiện các giáo án đi đến những mục tiêu chung như sau:
Giúp HS:
* Về kiến thức:
- Hiểu được nội dung và ý nghĩa của trích đoạn Trao duyên nói riêng và Truyện Kiều nói chung.
- Hiểu được đặc sắc ngôn ngữ Truyện Kiều và ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tài tình của

Nguyễn Du thông qua diễn biến nội tâm nhân vật Thúy Kiều từ đó hiểu được những đặc trưng cơ
bản của Truyện Kiều, một kiệt tác văn học của nước ta.
* Về kĩ năng:
- Biết đọc hiểu một trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại và theo hướng tích cực hóa
hoạt động học tập của người học.
* Về tư tưởng, thái độ:
- Biết cách nhìn nhận và nắm bắt được diễn biến tâm lí của con người, bồi dưỡng tâm hồn, cảm
nhận được nỗi đau đớn trước hoàn cảnh trái ngang của con người, nâng cao lòng nhân ái, đồng
cảm, vị tha.
- Có thái độ trân trọng đối với Truyện Kiều và các trước tác của cha ông.
3.2. Tiến trình thực nghiệm
3.2.1. Lên kế hoạch thực nghiệm
- Liên hệ với nhà trường để chọn GV thực nghiệm, các lớp thực nghiệm và đối chứng.
- Chọn hai lớp 10 của trường THPT Gia Viễn A là lớp 10A1 và 10A2 để tiến hành thực nghiệm.
Trong đó, lớp 10A1 là lớp thực nghiệm, lớp 10A2 là lớp đối chứng.
3.2.2. Làm việc với GV dạy thực nghiệm
- GV của các lớp dạy thực nghiệm được nhận trước giáo án để nghiên cứu và hình dung cách tổ
chức giờ học.
- Tác giả bài soạn làm việc trực tiếp với GV để giới thiệu ý tưởng và những điểm mới của giáo
án. Hai bên trao đổi, đi đến thống nhất về những vấn đề cơ bản.
3.2.3. Tổ chức thực nghiệm
- Dự giờ dạy thực nghiệm. Theo dõi việc tổ chức dạy học trên lớp của GV. Quan sát và cảm nhận
về không khí lớp học, về khả năng tiếp nhận, lĩnh hội của HS.
- Tổ chức trao đổi, rút kinh nghiệm với GV
- Điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung giáo án thực nghiệm.
3.2.4. Đánh giá quá trình thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm sư phạm sẽ được nhận xét, kiểm tra, đánh giá qua:
- Hoạt động dự giờ dạy trên lớp của GV, trao đổi, làm việc với GV.
- Hoạt động dự giờ, quan sát HS, nghe HS phát biểu ý kiến, trò chuyện với HS.
- Sử dụng công cụ đánh giá là các câu hỏi, bài tập trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận

để kiểm tram đánh giá kết quả học tập của HS sau bài học.
- Mô tả và phân tích kết quả giờ dạy trên lớp, dùng phương pháp thống kê toán học, các phương
pháp so sánh, đối chiếu để xử lí số liệu thu thập được qua thực nghiệm, đi tới những kết luận
đánh giá kết quả học tập của HS, xác nhận tính khả thi và hiệu quả của giờ dạy.
3.3. Kết quả thực nghiệm
3.3.1. Tiến hành kiểm tra
Sau khi GV và HS hoàn thành việc dạy học trích đoạn Trao duyên, chúng tôi tiến hành
hai giờ kiểm tra (kiểm tra 15 phút theo hình thức trắc nghiệm khách quan và kiểm tra 60 phút
theo hình thức tự luận) ở cả hai lớp đối chứng và lớp thực nghiệm với cùng một đề bài.
3.3.2. Kết quả kiểm tra
Kết quả kiểm tra được thống kê và lập bảng số liệu tính ra phần trăm và lập biểu đồ so
sánh giữa hai lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
3.3.3 Đánh giá kết quả thực nghiệm
Sau khi dạy thực nghiệm và kiểm tra kết quả học tập của HS, chúng tôi có những đánh
giá như sau:
- HS qua các giờ học thực nghiệm đã nắm được kiến thức thể loại của Truyện Kiều, rèn luyện kĩ
năng đọc – hiểu tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại.
- Việc tổ chức dạy học theo tinh thần tích cực hóa hoạt động của người học, sự đa dạng hóa các
hình thức tổ chức dạy học, các kiểu bài học đã tạo cơ hội cho HS trở thành những chủ thể tích
cực, sáng tạo. Các em tỏ ra hứng thú, chủ động hơn trong học tập, mạnh dạn hơn khi phát biểu ý
kiến, trình bày những phát hiện, suy nghĩ, cảm nhận của bản thân, khi trao đổi, đổi thoại, thảo
luận giữa các nhóm, tạo không khí học tập tích cực, sôi nổi trong lớp học.
- Dạy trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục về
nhận thức, tư tưởng, thái độ cho HS.
- Kết quả dạy thực nghiệm cho thấy, dạy tác phẩm văn học văn chương nói chung, dạy trích đoạn
Truyện Kiều nói riêng theo đặc trưng thể loại là một hướng dạy học tiến bộ, hiệu quả, đáp ứng
được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.







KẾT LUẬN
1. Truyện Kiều, kiệt tác văn học của dân tộc được đưa vào giảng dạy ở bậc học phổ thông từ rất
lâu dưới những góc độ tiếp cận khác nhau trong đó có hướng tiếp cận từ đặc trưng thi pháp thể
loại. Có thể nhận thấy, các đoạn trích trong chương trình, đặc biệt là chương trình Ngữ Văn 10
được lựa chọn theo quan điểm lựa chọn của thi pháp học với các đặc điểm nghệ thuật đặc trưng.
Nghiên cứu thi pháp thực chất là nghiên cứu thế giới nghệ thuật, hệ thống nghệ thuật của tác
phẩm. Xuất phát từ đó, chúng tôi đề ra các biện pháp dạy học dựa trên sự tìm tòi, khám phá cái
hay cái đẹp của tác phẩm trên cơ sở dẫn dắt học sinh tìm hiểu thế giới nghệ thuật Truyện Kiều.
Đó là các biện pháp: Dạy học các trích đoạn Truyện Kiều trên phương diện ngôn ngữ nghệ thuật;
Dạy học các đoạn trích Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại từ góc nhìn của mô hình tự
sự và Dạy học các đoạn trích Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại trên phương diện chất
thơ trữ tình. Trong mỗi biện pháp, chúng tôi trình bày những đặc trưng cơ bản của tác phẩm ở
mỗi phương diện từ đó đưa ra các nhóm giải pháp để áp dụng vào giảng dạy.
2. Trong chương trình Ngữ văn hiện nay, ý tưởng cấu trúc tác phẩm văn học theo thể loại khá rõ.
Tuy nhiên, khi triển khai, có thể thấy việc hiện thực hóa tư tưởng dạy tác phẩm văn học nói
chung và Truyện Kiều nói riêng theo đặc trưng thể loại bên cạnh những thành công vẫn tồn tại
không ít những bất cập cần đi tìm trong thực tế giảng dạy của HS: Cách tìm hiểu tác phẩm đã đi
theo hướng khai thác các đặc trưng thể loại chưa? GV đã hiểu bản chất của phương pháp dạy học
đổi mới hay chưa? Sự vận dụng các phương pháp dạy học đã giúp tích cực hóa hoạt động của HS
để các em thực sự là những chủ thể của quá trình cảm thụ, sáng tạo, khám phá tác phẩm chưa?
Bên cạnh đó, cũng cần đi tìm hiểu nguyên nhân nằm ngay trong những câu hỏi khai thác bài học
SGK Ngữ văn 10 trong tiến trình tổ chức dạy học.
3. Đề tài dạy các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại cho học sinh lớp 10 được chọn
như một thể nghiệm làm rõ hơn cách thức tổ chức dạy học Ngữ văn theo hướng xuất phát từ đặc
trưng thể loại nhằm giúp HS trên cơ sở nắm được đặc trưng thi pháp Truyện Kiều các em thêm
yêu mến kiệt tác văn học của dân tộc.
4. Từ thực tế thực nghiệm dạy trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thể loại, chúng tôi nhận

thấy việc dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại hoàn toàn có thể thực hiện được.
Kết quả khảo sát trrong quá trình thực nghiệm đã khẳng định tính khả thi của cách dạy học này
cũng như những phương pháp, biện pháp dạy học theo hướng học sinh là bạn đọc sáng tạo.
Hoàn thành luận văn này, chúng tôi mong muốn đề tài nghiên cứu khoa học này sẽ được
đưa vào áp dụng trong nhà trường phổ thông để giáo viên được tiếp cận với một hướng giảng dạy
mới đổi với những tác phẩm văn chương nói chung và Truyện Kiều nói riêng.
Một số kiến nghị và đề xuất:
Để việc vận dụng phương pháp dạy dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương theo đặc trưng thi
pháp thể loại phát huy tối đa hiệu quả, chúng tôi xin kiến nghị và đề xuất:
1. Tiếp thục tiến hành cải cách chương trình, đổi mới phương pháp theo từng cấp học. Mục tiêu
đề ra là phải tiến hành cải cách nhằm mục đích phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo
của HS, đào tạo ra những người chủ tương lai thực sự của đất nước.
2. Tăng cường hơn nữa công tác tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên cho GV. Cung cấp nguồn
thông tin đầy đủ, thường xuyên, tạo điều kiện cho GV được học hỏi, trao đổi với các chuyên gia
và đồng nghiệp về công tác đổi mới phương pháp giảng dạy.
3. GV cần nhận thức việc dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại là một trong
những hướng khoa học nhất, hiệu quả nhất, vừa có ý nghĩa khoa học cơ bản, vừa thiết thực về
khoa học sư phạm. Nắm vững thi pháp thể loại, người dạy không chỉ hiểu đúng, hiểu sâu hơn tác
phẩm văn học mà còn có khả năng thiết kế có hiệu quả hệ thống hoạt động, thao tác để hướng
dẫn HS cách thức đọc – hiểu tác phẩm.
4. HS cần nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong học tập, đặc biệt là trong tiếp nhận văn bản văn
học. Tăng cường thực hành, nâng cao vai trò người học sẽ giúp HS tiếp nhận kiến thức hứng thú
và hiệu quả.

References
1. Đào Duy Anh (1955): Khảo luận Truyện Kiều, NXB Văn hóa.
2. Đào Duy Anh (1992): Từ điển Truyện Kiều, NXB Khoa học xã hội.
3. Dƣ Quán Anh (1990): Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 1; NXB ĐHTHCN.
4. Nguyễn Viết Chữ (2004): Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể,
NXB ĐHQG Hà Nội.

5. Nguyễn Viết Chữ(2010): Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường,
NXB Giáo dục.
6. Nguyễn Quang Cƣơng (2002): Câu hỏi và bài tập với việc dạy học tác phẩm văn
chương trong nhà trường, NXB ĐHQG Hà Nội.
7. Nguyễn Nghĩa Dân (1997): Thiết kế bài học tác phẩm văn chương và mô hình dạy học
tích cực lấy người học làm trung tâm, TC Nghiên cứu giáo dục.
8. Xuân Diệu (1981): Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Văn học.
9. Xuân Diệu (1979): Chung quanh từ ngữ Truyện Kiều, NXB Văn học.
10. Trần Thanh Đạm (1976): Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể, Sách bồi
dưỡng giáo viên văn học, NXB Giáo dục.
11. Trần Thanh Đạm, Hoàng Nhƣ Mai, Huỳnh Lý (1970): Vấn đề giảng dạy văn học theo
loại thể, NXB Giáo dục.
12. Bùi Minh Đức (2009): Dạy học tác phẩm văn chương theo hướng học sinh là bạn đọc
sáng tạo, Luận án TSKHGD, ĐHSP Hà Nội.
13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1998): Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb
Giáo dục.
14. Nguyễn Thúy Hồng, Nguyễn Quang Ninh (2008): Một số vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học môn Ngữ văn trung học cơ sở, NXB Giáo dục,
15. Nguyễn Thúy Hồng (1995): Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
16. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2007): Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí
học sư phạm, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
17. Kiều Thu Hoạch (1993): Truyện Nôm, nguồn gốc và bản chất thể loại, NXB Khoa học
xã hội.
18. Nguyễn Thị Bích Hƣờng (2010): Dạy học truyền thuyết và cổ tích theo đặc trưng thể
loại cho học sinh lớp 6, Luận án tiến sĩ giáo dục, Viện khoa học giáo dục Việt Nam.
19. Hoàng Xuân Hãn (1989): Kim Vân Kiều, TC Sông Hương.
20. Đỗ Đức Hiểu (2000): Thi pháp hiện đại. NXB Hội nhà văn.
21. Đỗ Đức Hiểu (1992): Một số vấn đề thi pháp học- Thi pháp là gì?, Báo Văn nghệ.
22. Nguyễn Thái Hòa (2004): Vấn đề đọc – hiểu và dạy đọc – hiểu, Thông tin KHSP.

23. Nguyễn Thái Hòa (2000): Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục.
24. Nguyễn Trung Hiếu (1986): Truyện Kiều trong yêu cầu đổi mới của khoa nghiên cứu
văn học, TC Văn học.
25. Nguyễn Bách Khoa (1951): Văn chương Truyện Kiều, Hàn Thuyên.
26. Lê Đình Kị (1967): Tính khái quát của việc thể hiện nhân vật trong Truyện Kiều, TC
Văn học.
27. Đinh Gia Khánh (1977), Điển cố văn học, NXB Khoa học xã hội.
28. Phan Trọng Luận (2007) Ngữ văn 10 (tập 2), NXB Giáo dục.
29. Đặng Thanh Lê (1979): Truyện Kiều và thể loại truyện nôm, NXB Khoa học xã hội.
30. Đặng Thanh Lê (1977): Về ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều; TCVH, số 3.
31. Trần Đình Sử (2003): Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục.
32. Trần Đình Sử (1998): Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
33. Trần Đình Sử (2001): Giảng văn đoạn trích Truyện Kiều. Trong sách Đọc văn văn học,
NXB Giáo dục.
34. Trần Đình Sử (1995): Mấy chặng đuờng nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều. Trong sách
Những thế giới nghệ thuật thơ. NXB Giáo dục.
35. Trần Đình Sử (1995): Không gian nghệ thuật trong Truyện Kiều. Trong sách Những thế
giới nghệ thuật thơ. NXB Giáo dục.
36. Trần Đình Sử (2001), Điển cố trong Truyện Kiều. TC Văn học, số 5.
37. Bùi Duy Tân (1992: Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt
Nam trung đại: tiếp nhận, cách tân, sáng tạo; TCVH, số 4.


×