Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Cọp trong ký ức dân gian nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.32 KB, 13 trang )

1
CỌP TRONG KÝ ỨC DÂN GIAN NAM BỘ
Bùi Ngọc Diệp
*

1. Dẫn nhập
Nam Bộ là vùng đất mới của phương Nam có quá trình hình thành và phát triển
hơn 3 thế kỷ (1698 - 2004). Trải qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử, Nam Bộ
hôm nay là vùng đất trù phú, nơi dung nạp nhiều dân cư khác nhau từ mọi miền đất
nước đến đây lập nghiệp. Quả là “đất lành chim đậu”.
Ngày nay đến với đồng bằng Nam Bộ, ít người còn hình dung được cái thiên nhiên
còn đầy vẻ hoang sơ của buổi đầu khai phá. Chính những câu truyện kể, truyền
thuyết, các giai thoại còn tồn tại trong ký ức, các địa danh, ca dao dân ca mà các tài
liệu địa chí đã ghi nhận được từ xa xưa truyền lại, giúp ta hình dung được khung
cảnh thiên nhiên ấy.
Trong cái buổi ban đầu đi mở đất, một trong những lực lượng thiên nhiên hoang dã
mà con người phải đối chọi, rùng rợn nhất là hổ (hùm, cọp). Với bộ mặt gân guốc,
quai hàm mở rộng hoác hoạc, lưỡi thè lè đỏ lòm, mắt tròn to sắc lạnh, xảo quyệt,
râu mép rung rinh thính nhạy, thân mình vạm vỡ, nặng từ cả tạ đến vài tạ. Bốn bộ
móng vuốt khoằm khoằm sắc lẻm chộp đâu trúng đó, con người và bất kỳ loài thú
nào khi đối mặt với hổ là đồng nghĩa đối mặt với tử thần. Có một thời con người
đành bó tay sợ hãi, bất lực trước sự hoành hành của hổ, phải gọi chúng bằng Ông,
được đưa vào miếu thờ với sức mạnh chúa sơn lâm để canh giữ bảo vệ đình miếu.
Nhưng con người, với đà ngày càng sinh sôi phát triển, đã đẩy lùi giang sơn của hổ
đến tận những vùng hẻo lán. Tuy vậy, cho đến nay cọp vẫn còn bảo lưu trong ký ức
của nhân dân địa phương, qua những câu chuyện kể, chuyện cổ tích (mà dân Nam
bộ gọi là chuyện đời xưa), truyện cười, thần thoại, ngụ ngôn, trong tín ngưỡng dân
gian bắt nguồn từ hiện thực mà con người phải chứng kiến, đối mặt. Thái độ của
con người đối với cọp chuyển biến từ sợ hãi, đến chiến đấu thắng cọp, rồi thuần
dưỡng, rồi tôn thờ cọp vv biểu hiện những trạng thái tâm lý phức tạp của người
lưu dân mở đất.


Từ những tài liệu đã có và cũng từ những ghi nhận qua lời kể của người dân, bài
viết này nhằm tìm hiểu về loài cọp ở Nam bộ dưới góc độ văn hóa.
2. Cơ sở hình thành ký ức về cọp ở Nam Bộ: (Cọp Nam Bộ qua các sách địa chí)
Khởi thủy mọi ký ức về cọp của người Việt Nam Bộ gắn liền với tiến trình con
người khai phá vùng đất này. Cái buổi ban đầu ấy, những người dân mở đất Nam
Bộ với hành trang thô sơ của mình vừa từ ghe bầu, thuyền buồm đặt chân lên vùng
đất hoang rậm, sông sâu, thú dữ như hiệp sức thử thách người mới đến. Để khai
phá đất, lập làng, lập ấp, người Việt cũng như đồng bào các dân tộc ít người, ngoài
việc gặp những cánh đồng hoang vắng, những đầm lầy heo hút, những rừng rậm bạt
ngàn, họ còn gặp khá nhiều thú dữ. Đáng nói nhất trong loài thú dữ nơi này là cọp.

*
Học viên cao học chuyên ngành Văn hoá học (Khoá 2001 – 2004)
2
Cọp rất nhiều là mối đe dọa thường xuyên làm cản trở công cuộc khẩn hoang lập
ấp, đe dọa thường trực tính mạng của con người sống ở đây:
Đồng Nai xứ sở lạ lùng,
Dưới sông cá lội, trên rừng cọp um.
*Cọp Gia Định:
Sách Đại Nam nhất thống chí ghi mùa xuân năm Canh Dần 1770 đời vua Duệ Tông
có con mãnh hổ vào nhà người ở phía nam chợ Tân Cảnh, hai nhà sư Hồng Aân và
Trí Năng đã diệt được cọp. [2:107]. Trịnh Hoài Đức đã ví loài này ở đất Gia Định
bằng những câu tục ngữ: “Dữ như cọp Vườn Trầu”. “Aùc như sấu Vũng Gấm”.
Viết về “Vườn Phù Lâu”
1
, ông cho biết “chỗ ấy còn nhiều rừng rậm, mãnh hổ
thường hay bắt người, nên có câu “dữ như cọp Vườn Trầu”. [2:48, 72].
Đến cuối thế kỷ XIX, ấy thế mà số người chết vì cọp vẫn còn đáng kể “ cọp, sấu
còn hoành hành ở vùng quê Bến Tre, Gò Công, An Hóa vào khoảng 1900 - 1910,
nào riêng gì vùng sình lầy phía Cà Mau. Bên bờ Hậu Giang ngày nay, vùng Phong

Điền nổi danh trù phú với vườn cam quýt - vào khoảng 1900 cọp vẫn còn tại đó”
[11:265]
Năm 1909, tuần báo Nam kỳ địa phận dành để tuyên truyền phổ biến giáo lý đạo
Thiên chúa mà còn đăng tải những tin tức về cọp như chuyện thời sự hàng ngày:
Vùng cầu An Hạ, 3 tháng có 12 người.
Vùng cầu Hóc Môn , trong một vài tuần có 4 người.
Vùng Thủ Dầu Một, trong vài tháng 8 người.
Mãi đến sau năm 1930 mà cọp còn lảng vảng ở vùng Rạch Giá, Cà Mau, Bảy núi.
[10:381]
*Cọp Tây Ninh:
“Ngày xưa Tây Ninh toàn là rừng già cho nên nó là giang sơn của cọp, voi, mang,
mển Thời ấy chúa sơn lâm hay bén mảng gần xóm đông dân cư để rình bắt heo
bò và cõng người về rừng xé xác Năm 1947 - 1948 cọp loạn rừng. Tại xã Ninh
Thanh – ấp Chánh, cọp đã ăn 3 mạng và mỗi đêm thường về ấp này bắt heo mang
vô rừng ăn dần”[4:165].
*Cọp Vũng Tàu:
“Vùng Núi Lớn xã Thắng Nhì gần chợ Bến Đá, có ngôi chùa gọi là Điện Bà do nhà
sư họ Trương sáng lập. Bên cạnh Điện Bà năm 1949 còn dấu tích hai miệng hang
lớn, theo lời của dân chúng kể lại, đó là hai cái hang ông thần Hổ ở tu ngày xưa.
Họ kể rằng, vào thời kỳ này có hai vị chúa sơn lâm chiều chiều khi tới giờ công
phu, thường đến ở ngoài ngồi nghe kinh, và chẳng bao giờ bắt gà vịt, phá khuấy
dân ở quanh vùng, sau đó ở tu luôn tại hai cái hang ấy. Một ông tu tại đó cho tới

1
Phù Lâu viên: 18 thôn Vườn trầu
3
chết, còn một ông bị người Pháp bắn nhầm khi đi kiếm ăn ngoài rừng. Trong chùa
hay tin tới xin xác về chôn tại trong hang ông ở, lấy lại cái đầu phơi khô đem thờ
trong chùa, sau bị đánh cắp mất. Ngôi chùa này trước có tên là Long Nhan điện”.
[5:168]

Một di tích của thời cọp lộng hành Vũng Tàu năm xưa là miếu thờ thần Hổ , về sau
này Hội điện sửa sang và xây cất lớn lên thành Điện thờ Ngũ hành và Quan Thánh.
“Con đường mòn từ trên ngọn hải đăng đi xuống bãi Thùy Vân ngày xưa dây leo
chằng chịt, cây cối rậm rạp rất khó đi, được dân sở tại đặt tên là đường mòn Oâng
Hổ”. (con đường từ núi Nhỏ xuống biển) [5:134,137]
*Cọp Bến Tre:
Trên dải cù lao An Hóa (nay là đất Châu thành, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre), mãi
đến năm 1902, địa phương chí tỉnh Mỹ Tho
2
vẫn chép: “làng Tân Định có rừng
cọp, heo rừng, nai, chồn”, “làng Bình Đại dã thú lớn rất nhiều”, “làng Thới Thuận
lắm cọp, heo rừng”
*Viết về trấn Vĩnh Thanh của Nam Bộ xưa thì: “Xứ này có nhiều sấu và cọp dữ,
nhưng dân cư đã quen thường, nên không sợ hãi, tuy người bé và đàn bà cầm dao
cắt cỏ và đòn xóc cũng bắt được cọp”[3:21]
*Cọp Bạc Liêu - Cà Mau:
Người dân nơi đây còn nhớ
Cà Mau lúc trước thấy mà ghê!
Ai muốn làm ăn đến phải về.
Dưới nước đỉa lềnh, sấu lểnh nghểnh,
Trên bờ cọp rống, muỗi vo ve
Ở Cà Mau còn tương truyền “Cọp Cà Mau hàu Đá Bạc”. Năm 1898, một quan
chức của Pháp khi báo cáo về thị xã Cà Mau vẫn nói: “sau mấy rặng bần, rặng cau
quanh chợ là vùng đất thấp, về đêm nghe rõ từng bầy nai gọi nhau và cọp rống
vang dội từng chặp”[11:68].
“Cọp Cà Mau không dữ tợn như ở miệt núi cao, rừng rậm. Nhiều khi đi rừng ăn
ong, đốn đuôn hay đốn lá, róc lạt hoặc đốn cây, nếu rủi gặp cọp thì nạt lớn vài tiếng
vang dội, cọp hoảng sợ cong đuôi chạy mất. Nhưng đôi khi đói quá cọp cũng vào
tận xóm bắt heo và bắt người ăn thịt. Một lần bắt heo của thím Khiều, hai lần bắt
cháu ông giáo Hậu và ông thân bác hương hào Gố. Vì vậy tại vùng Cà Mau, không

ai dám gọi là “con” mà gọi “ông Thầy”, “ông Hổ”, hoặc “hia Cọp”, “khái”, hoặc
“Hương quản”. Đình nào, miếu nào cũng có thờ cọp, gọi là miếu ông Hổ. Còn
ngay trước sân đình xây một miếng tường bề cao lối 2 thước, có đắp nổi hình con
cọp to, vằn vện thấy rõ”. “ cọp nhiều nhất ở Cái Bát, Trèm Trẹm và Năm Căn. Có
người thuật lại rằng tại Cái bát, một chị vì con khóc lúc ban đêm, dỗ không nín, bèn

(3) Monographie de la province de Mỹ Tho.
4
bồng lại sát vách lá, nơi có lỗ trống dưới chân giường, đưa chân ra ngoài lỗ vách
rồi rủa “cọp mà bắt mày”. Rủi cho đứa bé, lúc ấy một con cọp rình ở ngoài từ hồi
nào, thò chân vô chụp đứa bé tha đi mất. Từ đó về sau, xóm này không ai dám rủa
“cọp bắt mày” hay “cọp vật mày” nữa”. [8:107, 108]
Tại tỉnh Cà Mau, hầu hết đồng bào còn tương truyền câu truyện Bà mụ Trời làm
một việc bất đắc dĩ mà cũng là một việc hy hữu, tức là hộ sanh cho cọp. Tương
truyền tại Rạch Bàn, thuộc quận Cái Nước có một bà nhân đức tên là Trần thị Hoa,
tục gọi là bà mụ Tư làm nghề hộ sanh. Thường lệ nơi đây hễ mặt trời lặn thì ai ở
nhà nấy, rồi cửa đóng then cài, vì thú dữ nhiều quá nên họ sợ. Một bữa nọ vì phải
giúp một sản phụ khó sanh, nên bà mụ Tư về muộn. Chủ nhà phải mướn 4 người
trai tráng đưa bà. Về gần tới nhà, bỗng nghe tiếng cọp hộc rất lớn làm mọi người
hốt hoảng tay chân bủn rủn, có người ướt trong quần. Khi hoàn hồn bốn tráng đinh
thấy mất bà mụ Tư, thì quả quyết bà bị ông Thầy
3
bắt ăn thịt. Sáng hôm sau đã thấy
bà ở nhà. Thì ra sau khi đỡ đẻ cho vợ cọp xong , cọp đực cõng bà mụ Tư về. Từ đó
đến sau cọp luôn đến đền ơn bà [6:96.]
Đồng bằng Nam Bộ thế kỷ thứ XVII – XVIII cọp nhiều vô kể. Chúng sinh sống
nhan nhản ở miệt U Minh, ở các cánh rừng ngập mặn tại các cửa sông Tiền, sông
Hậu, kể cả những nơi đã được khai hoang khá sớm như Sài gòn, Mỹ Tho, Vĩnh
Long Dân gian khái quát nỗi kinh sợ của họ về vùng đất mới này như sau:
-Cà Mau khỉ khọt trên cây,

Dưới sông cá lội, trên giồng cọp đua.
-U Minh Rạch Giá thị quá sơn trường,
Dưới sông cá lội, trên rừng cọp đua.
Vị thế địa lý, điều kiện tự nhiên tạo ra tâm thế con người Nam Bộ phải luôn tự vượt
lên, tự mình phải giải quyết những khó khăn gay gắt cấp thiết đặt ra cho công cuộc
định cư sinh sống trên vùng đất mới. Rừng rậm cọp beo và sông sâu sấu đỉa là ấn
tượng sâu sắc trong tâm hồn của những người di dân, nó tồn tại dai dẳng mãi về sau
này.
-Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống sông sợ đĩa, lên rừng sợ ma.
Không còn con đường nào khác, để bám chân được vào vùng đất này, người dân
Nam Bộ buổi đầu đã tốn biết bao công sức, trí tuệ và lòng can đảm, dũng cảm khắc
phục thiên nhiên và đối chọi với thú dữ. Chính đó là điều kiện tạo nên nghị lực đặc
biệt của người Nam Bộ, như nhà văn Trần Hiếu Minh khi nói về người dân Nam
Bộ đã khẳng định: “Đây là sơn thủy cùng tận rồi. Đến đây chỉ còn hai con đường,
một là không đủ nghị lực sống nữa thì đâm đầu xuống biển mà chết, hai là cố bám

3
Vào thời ấy dân chúng rất sợ cọp đến nỗi không dám gọi đích danh ông Hổ hay ông Cọp mà kính cẩn gọi là ông
Thầy.
5
lại đấu tranh để mà sống. Con người đến đây là con người liều, ngang tàng nghĩa
khí” [16:21,22].
Có thể nói, trang sử thứ nhất của vùng Nam Bộ do người Việt, Chăm, Khmer, Hoa,
cũng như Mạ, Mnông, Stiêng, Chơro viết nên bắt đầu từ những ngày đánh cọp để
tồn tại. Thực tế lịch sử ấy là cơ sở hiện thực cho nguồn truyện dân gian về cọp ở
Nam Bộ khởi nguồn cho mọi sáng tác dân gian của người Kinh cũng như người các
dân tộc khác về cọp. Từ hình tượng cọp ngoài đời, cọp trở thành một hình tượng
văn hóa, cọp xuất hiện trong quan niệm, cọp bảo lưu trong ký ức, cọp trong cách
nhìn, cọp trong các thể loại truyện kể dân gian, truyện viết vv

Cọp qua truyện kể
Truyện dân gian về cọp có nhiều hay ít tùy thuộc vào mật độ cư trú nhiều ít, tùy
thuộc vào mức độ mà con người đối mặt với chúng. Những câu chuyện kể về cọp
còn phản ánh những thái cực khác nhau trong tâm lý tình cảm của con người đối
với loài này. Thái độ của người dân hồi đó đối với cọp cũng rất lạ. Với người lưu
dân đi khai khẩn đất hoang lập làng ấp, phum sóc, cọp là một kẻ thù nguy hiểm
đáng sợ, vì thế để có được địa bàn sinh sống yên ổn để lao động sản xuất thì họ
phải đánh bại cọp, chinh phục cọp, thuần hóa cọp; nhưng mặt khác họ vừa sợ hãi
lại vừa tôn kính cọp. Cả hai điều ấy ghi nhận một hiện thực phức tạp trong tâm lý
con người mở đất, vì thế trong những truyện dân gian về cọp phản ánh những xu
hướng hiện thực hoặc thần thành hóa, nhân cách hóa cọp và cả những con người
đánh cọp hoặc thuần hóa cọp.
-Truyện đánh cọp, diệt cọp:
Bến Tre là xứ sở nổi tiếng lắm cọp, nhiều sấu. Truyện kể về việc đánh cọp, diệt sấu
đã đi vào truyền thuyết dân gian phổ biến với mức độ đậm đặc nhất so với các địa
phương khác ở Nam Bộ. “Đến Bến Tre, từ vùng đất nhiễm mặn đến vùng nước
ngọt, đâu đâu ta cũng có thể nghe kể chuyện về cọp, những giai thoại bắt cọp, diệt
cọp đầy tính chất can trường và dũng cảm, những chuyện thuần hóa cọp để cưỡi đi
chơi, đi ăn giỗ, từ chuyện Bà Mụ đỡ đẻ cho cọp đến chuyện “Nghĩa hổ” mang tính
ngụ ngôn. Dù được người đời thêm thắt ít nhiều nhằm ly kỳ hóa sự việc, cái lõi của
sự thật vẫn là: nơi đây đã có một thời không hiếm những loài thú dữ bốn chân
con người đã phải chống trả lại chúng vô cùng vất vả để tồn tại”[13:154].
Truyện về hai anh em Bảy Giao, Chín Quỳ lưu truyền khắp vùng Cồn Tàu (Bến
Tre) và cả Mỹ Tho, Vĩnh Long. Truyện kể: vùng Cồn Tàu (Bình Đại) lúc còn
hoang vu, là giang sơn của một vị hung thần rất thiêng, có hai bộ hạ là hổ và lợn
trấn giữ, ai muốn khai phá phải nộp mạng người. Hai anh em Bảy Giao và Chín
Quỳ nghe tin đó liền đến đây xin được phá rừng và hẹn ba năm sau sẽ nộp mạng,
thần đồng ý. Đến kỳ hạn nộp mạng, hai anh em nhờ thợ rèn, rèn cho hai côn sắt to,
rồi quyết tử với hai bộ hạ của hung thần. Hai anh em giao đấu khá vất vả, cuối cùng
cũng hạ được đối thủ. Từ đó thần hết thiêng, không còn đòi nạp mạng và dân làng

đã đổ xô tới lập nghiệp ở Cồn Tàu.
6
Truyện hai thầy trò nhà sư Hồng Aân và Trí Năng, sử chép rằng: vào giữa ngày tết
năm 1771, cọp từ rừng Sác, có lẽ từ phía Cần Giuộc kéo về chợ Tân Kiểng trên
đường vào Chợ Lớn, bà con cấp báo cho quân sĩ ở đồn Dinh. Lúc bấy giờ có hai
thầy trò nhà sư rất giỏi võ nghệ là sư Hồng Aân và Trí Năng xung phong dùng côn
giết cọp. Mãnh thú bị hạ, nhưng sư Hồng Ân cũng bị thương rồi chết.
-Trong nhiều truyện không những kể về việc đánh cọp mà còn thuần dưỡng được
chúng, như truyện về Ông Yến ở Tân Hưng (Ba Tri, Bến Tre): đêm nọ có con cọp
bạch thò đuôi vào chuồng gia súc, ông Yến ra xem, nắm được đuôi cọp. Sợ nắm
không chặt, ông dùng răng cắn giữ chót đuôi phụ với hai tay. Bà Yến thấy vậy,
xách mác chạy ra đâm chết cọp. Con cọp “xuất tướng tinh” nhập vào ông Yến, từ
đó trở về sau ông Yến trở thành chúa cọp, tất cả cọp lớn nhỏ trong vùng đều phải
vâng lời ông và chúng ngoan ngoãn chở ông đi chợ, đi ăn giỗ, đi cúng đình Khi
ông chết, cọp tụ họp đến bên mộ kêu rống thảm thiết, rồi cào đất đắp mộ cho ông.
Thú vị hơn, dân gian Bến Tre còn lưu truyền câu chuyện về ông Vệ Thạnh có tài
thuần dưỡng được cọp, thường cưỡi cọp đi ăn giỗ.
Truyện Bà Mụ Trời đỡ đẻ cho vợ cọp, được chúng trả ơn vv Truyện “hổ có
nghĩa” như thế này hầu như có ở khắp nước ta, như ở huyện Đông Triều là truyện
bà đỡ Trần. Dân gian kể, hổ đực đền ơn cho bà cục bạc, về nhà cân được hơn 10
lạng. Truyện “hổ mắc xương” cũng được kể ở phía Bắc, người cứu hổ là một ông
tiều phu ở huyện Lạng Giang, khi ông mất hổ vẫn mang de,â lợn đến cúng trước
mồ.
Còn có hàng loạt truyện nói dối, nói xạo nôm na như truyện Ông Ó ở Bến Tre và
truyện Ba Phi ở Minh Hải. Ông Ó quê ở Bến Tre là một cây “nói xạo”, những
“pha” phóng đại đến ngoa ngoắt hóm hỉnh về cọp như sau: một lần có con cọp từ
rừng chạy ra ăn dừa, bị ông Ó bắt gặp. Ông bèn nắm lấy đuôi cọp, đá một cú song
phi vào bụng nó, làm cho cọp ỉa vãi ra một loạt trái dừa. Nơi ấy về sau mọc lên
một hàng dừa thẳng băng như kẻ chỉ. (Truyện Hàng dừa của Bà Huyện).
Hãy nghe Ba Phi kể truyện Cọp xay lúa: “có một đêm tôi đang ngủ trên sàn gác,

khoảng gà gáy hiệp ba bỗng nghe con heo tạ ngoài chuồng kêu éc éc tôi liền vác
cây mác thong dong phóng xuống rượt, đến sáng mới giựt lại được xác con heo vác
về Không ăn được thịt heo, con cọp chửa đâm ra thù tôi. Trưa bữa sau, hai vợ
chồng tôi khiêng cối xay ra xay lúa, đang xay ồ ồ thì tôi lại nghe phía sau bụi ráng
có tiếng động rọt rẹt tôi nói trong bụng: “Bữa nay tao bắt mày xay lúa một trận
cho biết tay!”. Tôi kêu vợ tôi xúc sẵn hai chục giạ lúa để kế bên, chờ lúc con cọp
nhảy ra chụp phủ đầu, tôi hụp xuống, lách ngang, hai bàn tay cọp bấu tám móng
cứng ngắt vào cán giằng xay. Sẵn trớn cái cối đang quay, con cọp rị lui hết vòng thì
bị cái cối quay tới cứ như vậy mà con cọp theo đà cối quay, đẩy tới kéo lui hoài
Tôi đứng một bên, cứ xúc lúa châm vô cối. Đến lúc con cọp xay hết hai chục giạ
lúa, tôi kêu vợ tôi vô bồ xúc thêm lúa nữa. Thấy con cọp có chửa nên cũng động
lòng thương, vợ tôi bảo tha. Tôi nắm tay cối xay chập mạnh lại cho dừng trớn quay,
con cọp bị hụt đà, tám móng rời ra khỏi cán giằng xay, té cắm đầu. Nó lồm cồm
7
ngồi dậy, mệt thở hết muốn ra hơi, bỏ đi vô rừng một nước không tin, cứ hỏi bà
nhà tôi coi!” [1:27].
Ngoài những truyện kể về người đánh cọp - những bậc tiền hiền khai quốc, hậu
hiền khai cơ, những người có công khai phá và bảo vệ thành quả lao động, bảo vệ
cuộc sống nói chung - là những câu truyện kể về người thật việc thật có tính chất
ký sự; còn dạng tồn tại nữa là những địa danh dân gian liên quan đến cọp.
Địa danh gắn với cọp
Dấu ấn cọp còn để lại qua nhiều địa danh, những địa danh này được hình thành trên
cơ sở những sự kiện có thật ở địa phương, gắn bó hữu cơ với quá trình khai khẩn
đất đai và tạo lập làng xã.
-Tổng Aên Thịt ở vùng Cần Giờ, nơi cọp hay ăn thịt người, phải nói gọn lại vì kiêng
cử là An Thịt. [10: 54].
-Đìa Cứt Cọp ởÛ huyện Giồng Trôm, tương truyền ngày xưa ở đây có nhiều cọp,
chúng tụ tập săn mồi, phóng uế bừa bãi. Do vậy mà dân gian gọi đìa này là Đìa Cứt
Cọp.
-Địa danh mang tên Đồn Cọp ởÛ huyện Chợ Lách (Bến Tre), được kể như sau: nơi

đây trước kia cọp thường về phá hoại, dân chúng thường tổ chức lấy thân cau làm
rào vây cọp lại, rồi báo cho tỉnh mang súng về bắn chết. Do vậy mà nơi đây có tên
này.
-Địa danh Mỏ Cày cũng được dân gian Bến Tre giải thích liên quan đến sự tích về
cọp: ngày xưa ở đây có rất nhiều cọp, do đó khi đi làm, người dân phải mang theo
mõ, để vừa cày vừa đánh mõ làm cho cọp sợ trốn không dám ra làm hại người. Do
đó người ta gọi xứ này là Mỏ Cày (chữ mõ biến thành Mỏ). Ở Bến Tre còn có
những địa danh như Giồng Oâng Hổ, Giồng Rọ (một loại bẫy cọp), bưng Hai Hổ,
miếu Oâng Hổ [13:154].
-Ở Sa Đéc còn tên đất gọi là Hổ cứ [10: 54].
-Bãi Hoàng Dung
4
(ở phía tây bắc hạ lưu sông Hậu), do ởÛ đây có nhiều cọp nên
dân gian cũng gọi nơi này là Hổ châu (cù lao Ông Hổ) . [3:29]& [14:84,85]. Đây
cũng là quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng (xã Mỹ Hòa Hưng – thuộc thành
phố Long Xuyên), hiện nay có Đền thờ Bác Tôn ở đây và là nơi du lịch của An
Giang.
-Đồi ngũ Hổ ở Hà Tiên, hình dạng như dáng cọp ngồi khum lưng cúi đầu, biểu
tượng phong cách Hổ phục là vị thế “tượng chầu hổ phục” - chỉ nơi có hệ thống
phòng thủ thiên nhiên kiên cố, chính là nơi cứ điểm trọng yếu [7].
Thờ cọp:
Ở Nam Bộ còn có dạng tồn tại khác về cọp là Miếu thờ Cọp.
Phần lớn các đình làng ở Nam Bộ đều có miếu thờ, tượng thờ ông Hổ.

4
Cù lao Dung ở vàm sông Hậu, diện tích gồm 3 xã.
8
“Ở Long An cọp được thờ ở đình làng như một vị thần, nhưng không phải với ý
nghĩa siêu hình, cọp thờ ở
Long An là biểu thị một

sức mạnh thiên nhiên có
thể hại người mà cũng
có thể giúp người, cụ
thể hóa thành con thú có
vằn đen xưa kia sống
quanh xóm làng”
[18:64-68].
-Đình làng Quới Sơn
(Châu thành, Bến Tre)
còn thờ cả cái sọ cọp.
-Miễu thờ Cọp Bạch (ở trại ruộng Phước Điền - xã Thới Sơn - huyện Tịnh Biên -
An Giang) là một ngôi miếu thờ Sơn quân thường thấy ở đình làng Nam Bộ. Tuy
nhiên, việc thờ cọp bạch ở đây gắn liền với công đức của Phật thầy Tây An và ông
Tăng chủ Bùi thiền sư (người được Phật Thầy Tây An giao cho coi sóc trại ruộng
Thới Sơn - đất hương hỏa của chùa Tây An). Truyện kể: thuở đó vùng Thới Sơn là
sơn địa hoang vu, trong vùng núi Két có rất nhiều cọp dữ. Một hôm Phật Thầy Tây
An đi xa về thấy con cọp bạch bị ốm ngồi cú xụ gần bàn thông thiên, bèn gọi ông
Tăng chủ ra xem bệnh. Tăng chủ xem qua biết cọp bị mắc xương ở cổ, ông bèn bảo
cọp cúi đầu xuống và đấm vào cổ nó một cú đấm, cục xương vọt ra ngoài. Cọp
bạch ngước mắt nhìn ông Tăng chủ tỏ ý biết ơn rồi rón rén bước chậm rãi vào rừng.
Cách vài hôm, cọp bạch cõng lại một con heo rừng đặt trước cửa để đền ơn ông
Tăng chủ. Cũng từ đó, lũ cọp trong rừng không còn bén mảng tới phá quấy dân
chúng ở đây nữa. Mỗi khi ông Tăng chủ vào rừng thì lũ cọp đều bỏ chạy hoặc theo
ông như chó nhà theo chủ đi rừng vậy. Về sau cọp bạch già chết, ông Tăng chủ và
ông Đình Tây cất một cái miễu nhỏ tại đình làng gần chùa Thới Sơn để thờ, nay
miễu vẫn còn, khói nhang không dứt [9:117, 388].
-Đình Ông Hổ (ở xóm 1, Cửa Lấp, xã Dương Tơ, huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang) theo lời truyền khẩu, ở hòn này có mấy ông Hổ thường bơi vượt biển qua
đảo Phú Quốc để tìm mồi. Một hôm có một ông bơi qua biển, bị cá mập táp cụt mất
một chân, nên ở luôn tại Phú Quốc, từ đó rất hiền lành, không bắt gia súc, gia cầm

hay hại dân làng. Dân chúng cho rằng cọp đã tu, nên lập đình để thờ [9:377].
-Dinh Ông “Ởû xã An Thạnh, huyện Bến Lức còn dấu tích việc bầu cọp làm Cả, đó
là cái am nhỏ bằng lá mà người ta gọi là Dinh Ông nằm bên bờ con rạch tên là rạch
Dinh”. [18: 64, 68].
-Chùa Ông Ngộ (ở Cần Giuộc - Long An), thờ ông Tăng Ngộ là người có công diệt
trừ cọp dữ vào những năm đầu đời Gia Long ở đất Gia Định.
Tất cả dạng truyện kể về cọp nêu trên đã cung cấp cho chúng ta những nhận thức
về lịch sử của buổi ban đầu khai sơn phá thạch vùng đất Gia Định (gồm cả Nam
9
Bộ) - công cuộc chinh phục thiên nhiên đầy gian lao nguy hiểm, cùng với phong
tục tập quán của người dân trên vùng đất mới. Nhưng điều quan trọng hơn hết là nó
đã giúp chúng ta hiểu được những bí ẩn trong tình cảm và tâm hồn của người dân ở
đây; một mặt họ vừa sợ vừa kiêng nể cọp và phải thờ cọp làm “sơn quân chi thần”
và mặt khác là phải đánh cọp để tự vệ, để bảo vệ cuộc sống. Rõ ràng, trong thực tế
ở vùng đất mới, yêu cầu bảo vệ cuộc sống, phát triển sản xuất và mở rộng địa bàn
lân - ấp - làng - xã là rất bức thiết; việc đánh cọp, giết sấu là việc to lớn của thời kỳ
đó. Đó là những việc làm và những thành tích của tập thể mà nổi bật là những cá
nhân xuất sắc đại biểu cho lòng can đảm và ý chí chiến thắng của người dân Nam
Bộ và nó trở thành những truyền thuyết phổ biến sâu rộng và bền bĩ trong ký ức
người dân.
Truyện kể về cọp bên cạnh những yếu tố hiện thực lại có cả yếu tố hoang đường.
Các yếu tố hiện thực thể hiện ở tính chất chỉ định về tên người, tên đất và thời gian
xảy ra câu chuyện. Những tên đất, tên người gắn liền với sự việc, chi tiết của mỗi
truyện thường là những tên đất, tên người có thực, có địa chỉ. Còn yếu tố hoang
đường là cơ sở hình thức, tức là phương thức nhận thức hiện thực và phản ánh hiện
thực. Dù hiện thực hay pha chút ít truyền thuyết hoang đường, những câu truyện về
cọp cũng bộc lộ những mơ ước, những ẩn chứa sâu sắc về sự ngoan cường, quả
cảm, mưu trí và tinh thần nhân nghĩa của người đi mở đất. Đánh cọp là thành tích
to lớn của thời kỳ ấy, do đó những người đánh cọp phải được khắc họa là những
con người có khả năng võ nghệ đặc biệt, hay một thần lực nào đó khiến cọp phải nễ

phục. Điều đáng lưu ý là yếu tố hoang đường bắt nguồn từ quan niệm đạo đức , đức
độ của con người khiến cọp phải khuất phục. Chẳng hạn Tăng Ngộ là bậc chân tu,
giàu lòng vì nghĩa; các bà Mụ tài giỏi hăng hái cứu đời, truyện Nghĩa Hổ kể về việc
nuôi hổ được hổ trả ơn, khi chủ chết hổ đập đầu chết theo chủ vì đức độ như vậy
đã cảm hóa được cọp.
Nét chủ đạo của truyện đánh cọp, diệt sấu là tính chất hào hùng của cuộc chiến đấu
chống lại những thế lực hắc ám của tự nhiên. Có thể xem những nhân vật đánh cọp
trong các truyện dân gian về cọp chính là sự tiếp nối những nhân vật văn hóa thuở
xưa. Những truyện này có nét gần gũi với chiến công của Lạc Long Quân diệt Mộc
tinh ở rừng núi, diệt Hồ tinh ở đồng bằng, diệt Ngư tinh ở biển trong thời dựng
nước. Ý nghĩa lớn lao của truyện đánh cọp và giết sấu ở chỗ nó khẳng định quyền
làm chủ chân chính của người Việt trên mảnh đất mới. Những người đã chiến đấu
và chiến thắng cọp, sấu nơi rừng rậm, sông rạch sình lầy để biến đổi vùng đất
hoang vu này thành ruộng thành làng trở thành chủ nhân của những thành quả ấy.
Ởû tất cả các loại truyện, đã xuất hiện những nét cơ bản làm tiền đề cho tính cách
và tâm lý của người Việt ở Nam Bộ, đó là tinh thần trọng nghĩa: hai thầy trò nhà sư
Hồng Aân và Trí Năng thấy cọp ở chợ Tân Kiểng liền xin vào đánh cọp giúp dân;
Tăng Ngộ thấy rừng rậm hùm beo cản trở công việc làm ăn của dân làng thì nghỉ
cách chặt cây, đắp lộ cho dân giống như tinh thần nhân nghĩa thời Nguyễn Trãi
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” vậy. Truyện bà Mụ đỡ đẻ cho cọp đề cập đến ba
vấn đề lớn: tài hộ sản của bà Mụ, đức tính vì nghĩa không phân biệt đối tượng cứu
10
giúp của bà Mụ, tinh thần trọng ơn nghĩa của loài thú dữ (cọp đem heo rừng đền ơn
cho bà Mụ). Cả ba vấn đề ấy đều có những yếu tố tiềm ẩn đằng sau là tập trung đề
cao tinh thần vì nghĩa, cụ thể là y đức của bà Mụ - người thầy thuốc có vai trò quan
trọng và cần thiết ở bất cứ làng xã nào trong thời kỳ khai hoang lập ấp lúc bấy giờ.
Ở đây nghĩa nhân và đạo lý xử thế ở đời quyện lại thành chủ đề lớn của câu truyện
có phần hư cấu, nhưng được truyền tụng như một sự kiện có thật. Đây cũng là một
nét văn hóa lớn của người Việt nói chung và người Nam Bộ nói riêng. Chính những
nguồn truyện này chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hóa dân gian Việt Nam ở

vùng đất mới.
Hình tượng và biểu tượng cọp
Đối với cư dân Nam Bộ thời xa xưa, cọp không có nghĩa dữ dằn mà chỉ là con vật
hiền lành như mọi thú nuôi khác, cọp gần gũi với người nông dân, nên đồng dao có
câu:
“Cọp rừng Sác moi ốc bắt cua
Cọp rừng thưa săn rùa ví thỏ
Cọp đồng cỏ đuổi chó rình chim
Cọp rừng sim ăn ong hút mật”
Cọp ngoài đời trở thành con vật gần gũi, nhưng khi trở thể hiện qua hình tượng
nghệ thuật, cọp còn mang cả yếu tố tâm linh, được thần thánh hóa, vẽ thành tranh
thờ cúng. Tượng hổ làm bằng đá vôi ở lăng Trần Thủ Độ dài 1,40 mét, phô diễn
một sức mạnh kiêu dũng, như bừng lên chất sử thi bi tráng của người có công tạo
dựng triều Trần. Phù điêu hổ ở nước ta có từ thời Trần, Lê trên nhang án đá chùa
Đại Bi (Hà Tây, năm 1361) như hiện thân của thần một biểu tượng văn hóa tâm
linh.
Người Nam Bộ hãy còn tôn thờ cọp, hoặc kiêng kỵ cọp, như gọi cọp là Ông để
tránh xưng danh cọp: cọp ưa đi đêm gọi là Ông Ba mươi, cọp ba chân gọi là Ông
Ba cụt, cọp ba móng gọi là Ông Ba ngoe, cọp thành tinh gọi là Ông Chằng hay Ông
Kẹ. Cọp còn được thờ phượng như Chúa sơn lâm hay Sơn thần. Dân gian có tục lệ
là vào ngày mồng ba tết nguyên đán, sau khi cúng đưa ông bà xong, thường dán
trước cửa nhà mảnh giấy hồng điều có hình cọp với lòng tin là Ông Ba mươi sẽ trấn
giữ không cho những thứ hiểm độc vào nhà. Ôâng già, bà cả còn truyền dạy: nếu
trẻ con khóc đêm thì người mẹ phải lén “ăn trộm” hình vẽ Chúa sơn lâm để trong
gối nằm của trẻ thì chúng sẽ hết khóc. Trong tín ngưỡng có tranh thờ hổ như: Hắc
hổ, Bạch hổ, Ngũ hổ. Tranh Ngũ hổ còn gọi là tranh Ôâng Năm Dinh tượng trưng
cho năm vị thần tướng ngự trị ngũ phương, dân gian vẽ thành năm màu: Hoàng hổ
tướng quân màu vàng trấn nhậm trung tâm, Hắc hổ tướng quân màu đen trấn nhậm
phương bắc, Bạch hổ tướng quân màu trắng trấn nhậm phương tây, Xích hổ tướng
quân màu đỏ trấn nhậm phương nam, Thanh hổ tướng quân màu xanh trấn nhậm

phương đông.
11


4. Kết luận
Cơ sở hình thành ký ức về cọp Nam Bộ gắn liền với tiến trình con người khai phá
vùng đất này, thực ra không hơn 3 thế kỷ. Nhưng con người đến lập nghiệp ở vùng
đất mới thời ấy có cội nguồn văn hóa dân tộc từ đồng bằng sông Hồng, khi di cư
đến vùng đất mới đã phải ứng xử với một hoàn cảnh thiên nhiên mới cùng với quá
trình giao lưu với các nền văn hóa khác và những vốn văn hóa cội nguồn mang theo
như đã được nảy lộc đâm chồi. Những câu truyện dân gian, những tín ngưỡng về
cọp đã thể hiện điều đó.
Đối với nhân dân miền Nam, cọp trong ký ức của họ tuy kinh khủng nhưng chỉ tồn
tại trong ký ức xa xưa, còn trong tình cảm cọp vẫn có sự gần gũi, thân thương như
chính sự gắn bó giữa thiên nhiên với con người. Cọp vẫn mãi là hình tượng đẹp để
trang trí, để tôn thờ, để ngợi ca về sự dũng mãnh, về sức mạnh kiêu hùng và đôi khi
cũng để sẻ chia nỗi lòng của hổ:
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trong ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm
Ta sống mãi trong tình thương nổi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây gia,ø
Với tiếng gió gào, với giọng nguồn hét núi
Mỗi khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng,
12
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc”

(Nhớ rừng, Thế Lữ)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Mạnh Nhị, Truyện cười dân gian Nam Bộ NXB TP. HCM. ,1989.
2. Đại Nam nhất thống chí. Lục tỉnh Nam Việt: Tập thượng: Biên Hòa – Gia
Định PQVKĐTVH tái bản, 1973.
3. Đại Nam nhất thống chí. Lục tỉnh Nam Việt: Tập hạ: Định Tường – Vĩnh
Long PQVKĐTVH tái bản, 1973.
4. Huỳnh Minh, Tây Ninh xưa H: Thanh niên,
5. Huỳnh Minh, Vũng Tàu xưa H: Thanh niên, 2001 250 tr
6. Huỳnh Minh, Bạc Liêu xưa H: Thanh niên, 2002 245tr.
7. Monographie de la province de Hà Tiên Imprimerie L. Ménard Sài gòn,
1901
8. Nghê Văn Lương, Huỳnh Minh, Cà Mau xưa H: Thanh niên, 2003 215
tr.
9. Sổ tay hành hương Đất phương Nam / Viện nghiên cứu Văn hóa - Nghệ
thuật Việt Nam NXB Thành Phố Hồ Chí Minh, 2002 446tr.
10. Sơn Nam, Đất Gia Định - Bến Nghé xưa & người Sài gòn TP HCM: Trẻ,
2004 511tr
11. Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa NXB TP. Hồ Chí
Minh, 1985
12. Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long – nét sinh hoạt xưa & văn minh miệt
vườn TP HCM: Trẻ, 2004 423 tr.
13. Thạch Phương, Đoàn TưÙ (chủ biên, Địa chí Bến Tre H.: KHXH, 1991
818tr.
14. Thanh Phương, Những trang về An Giang: Sách địa chí An Giang: Văn
nghệ An Giang, 1984 286tr.
15. Từ điển bách khoa Việt Nam: T.2 H.: NXB Từ điển Bách khoa, 2002
1035tr.
16. Trần Hiếu Minh, Bút ký miền Nam H.: Văn học, 1966 197tr.
17. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí / Tu Trai Nguyễn Tạo dịch

PQVKĐTVH xb, 1972.
18. Văn Đình Hy, Đình làng ở Long An // Tạp chí VHDG, [3+4 /1985] Tr.64 –
68.

13
SUMMARY

TIGERS IN THE SOUTHERNER'S MIND
Bùi Ngọc Diệp
Southern land is new one which has a developing process of more than 3
centuries (1698 – 2004). Its history was attached closely to a process of southward
roadening. During initial time of cultivating land, tigers are one of the most fierce
animals that Southerners had to confront with. At present, Southern people are no
longer meet or face with tigers but tiger’s image still remain deeply in memory,
concept, custom religion etc of the Southerner.
Basing on existing documents as well as records which are written from folk
stories of Southern people, this paper try to study the tiger image in the
Southerner’s mind in the angel of culture.


×