Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà nho ở việt nam từ trần nhân tông qua nguyễn trãi đến lê thánh tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.58 KB, 41 trang )

Quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của
văn học nhà Nho ở Việt Nam từ Trần Nhân
Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông

Đỗ Thu Hiền

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận án Tiến sĩ. Văn học Việt Nam; Mã số: 62 22 01 21
Nghd: PGS. TS. Nguyễn Kim Sơn, GS. TS. Trần Ngọc Vương
Năm bảo vệ: 2014

Keywords: Văn học Việt Nam; Phê bình văn học; Văn học
Contents:
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học nhà Nho chiếm một phần rất quan trọng trong lịch sử văn học trung đại Việt
Nam. Sự ảnh hưởng của Nho giáo tới xã hội đã tạo ra một nền văn học nhà Nho kéo dài suốt
nhiều thế kỷ. Nho giáo ở Việt Nam cũng được hiểu là Nho gia, theo Từ điển Nho- Phật- Đạo:
“Học phái tư tưởng quan trọng ở Trung Quốc do Khổng Tử sáng lập” [170, tr. 1063], Nho sĩ là:
“Chỉ các phần tử trí thức thời xưa tin tưởng vào học thuyết của Khổng Tử” [170, tr. 1068]. Nhà
Nho được Dương Quảng Hàm định nghĩa: “Nho nghĩa đen là học giả. Nhà Nho là người đã theo
Nho học, hiểu đạo lý của thánh hiền đời xưa, có thể dạy bảo người đời cư xử cho phải đạo và,
nếu được đắc dụng, thì đem tài đức của mình mà giúp dân giúp nước.” [30, tr. 80]. Khái niệm
“văn học nhà Nho” được chúng tôi sử dụng theo nghĩa là loại hình tác phẩm văn học được
sáng tác theo khuynh hướng mỹ học Nho gia, chịu sự chi phối của tư tưởng Nho giáo, được
coi là thứ văn chương lý tưởng của nhà Nho về mặt lý thuyết. Chủ thể sáng tác của văn học
nhà Nho là nhà Nho hoặc những tác giả chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Đương nhiên, trong hiện
thực, nhà Nho vẫn có thể sáng tác những thứ ngoài Nho giáo, và văn chương Nho giáo vẫn có
thể được viết ra bởi những tác giả chịu ảnh hưởng ít nhiều của Nho giáo nhưng không phải là
nhà Nho, nhất là ở những giai đoạn hình thành của văn học nhà Nho như thế kỷ XIII- nửa đầu
thế kỷ XV. Định nghĩa này của chúng tôi đã chủ ý phân biệt rõ ràng hai bộ phận “văn học có


thuộc tính nhà Nho” và “văn học do nhà Nho sáng tác”. Với quan niệm có sự tồn tại thực tế của
một loại hình tác phẩm văn học nhà Nho như thế trong lịch sử trung đại Việt Nam, chúng tôi
đặt vấn đề nghiên cứu quá trình điển phạm hóa của bộ phận văn chương này.
Quá trình vận động từ khi mới manh nha cuối thế kỷ XIII cho đến lúc trở thành điển
phạm ở nửa cuối thể kỷ XV là giai đoạn có ý nghĩa quyết định cho diện mạo và những định
hướng phát triển sau này của nền văn học nhà Nho ở Việt Nam. Đây là lúc xã hội chuyển từ đa
nguyên về văn hóa sang giai đoạn Nho giáo nổi trội và áp đảo, văn học Việt Nam chuyển từ
trạng thái chịu ảnh hưởng của Tam giáo sang trọng tâm là Nho giáo. Chúng tôi cho rằng nghiên
cứu quá trình điển phạm hóa của văn học nhà Nho khả dĩ có thể giải quyết những vấn đề mang
tính lý thuyết có ý nghĩa nền tảng trong việc tìm hiểu nền văn học trung đại.
Những hướng nghiên cứu văn học nhà Nho ở Việt Nam giai đoạn từ cuối thế kỷ XIII đến
hết thế kỷ XV đã được triển khai chủ yếu tập trung ở các phương diện văn học như là sản phẩm
của một hệ tư tưởng, một mô hình thiết chế xã hội, dựa trên tổng thể văn hóa mà nó đã tồn tại
trong quá khứ. Việc tìm hiểu văn học nhà Nho ở giai đoạn này từ các yếu tố nội tại của chính nền
văn học hay nói cách khác là từ các yếu tố mang tính đặc trưng bản chất được khái quát trên văn
bản tác phẩm chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Đặc biệt, việc xem xét quá trình điển
phạm hóa của văn học nhà Nho thông qua lựa chọn các trường hợp tác giả và tác phẩm tiêu biểu
sẽ khiến các lý giải trở nên cụ thể và sáng rõ hơn.
Trần Nhân Tông là tác giả lớn nhất của thế kỷ XIII, là hiện tượng có sức ngưng tụ những
vấn đề quan trọng của thời đại. Là trường hợp tác giả tiêu biểu của văn học Thiền, nhưng sự ảnh
hưởng và sự tích hợp tư tưởng Thiền- Nho trong vị hoàng đế- Thiền sư- thi nhân này là khá rõ
nét. Trước ông, các yếu tố văn học nhà Nho còn hết sức mờ nhạt. Việc tìm hiểu tác phẩm của
Trần Nhân Tông có thể cho thấy một trong những cách thức khởi đầu của văn học nhà Nho- là
nảy sinh từ trong lòng của văn học Thiền, hay nói chính xác hơn là ngày càng mở rộng, trưởng
thành từ trong chính khối hỗn nhập văn chương Thiền- Nho với yếu tố Thiền là căn bản. Chính
vì vậy, chúng tôi lựa chọn Trần Nhân Tông như trường hợp để nghiên cứu sự khởi đầu của văn
học nhà Nho từ trong văn học Thiền.
Nguyễn Trãi là tác giả nổi bật nhất của văn học nhà Nho nửa đầu thế kỷ XV. Sinh ra
trong thời đại Tam giáo tịnh hành thời Vãn Trần, bản thân thâu thái được tất cả tinh hoa của Tam
giáo, nhưng về phương diện nhân cách, tư tưởng, và hành động ông đã thể hiện là một nhà Nho

lớn bậc nhất trong lịch sử đất nước, đã có công trong việc sử dụng Nho giáo giải quyết vấn đề
dân tộc, góp phần đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đến thắng lợi. Ông cũng là người đầu tiên đã
giúp nhà Lê sơ soạn lễ nhạc, định triều nghi, thiết lập một xã hội theo mô hình của các Tiên
Thánh. Nhà Nho cùng thời như Nguyễn Mộng Tuân coi ông là “Nho lâm kỷ hứa chiêm Sơn
Đẩu” (Rừng Nho lâu nay coi ông như là Thái Sơn, Bắc Đẩu). Người đời sau như Lê Thánh Tông
ngợi ca ông: “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” (Ức Trai trong lòng rạng vẻ văn chương).
Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn Nguyễn Trãi như trường hợp của giai đoạn văn học nhà Nho đã
định hình.
Lê Thánh Tông chính là giai đoạn điển phạm của văn học nhà Nho, là trường hợp mà
những quy phạm, những chuẩn mực của bộ phận văn học này đã được xác lập và được coi là
khuôn mẫu để các nhà Nho noi theo. Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế Nho gia nổi tiếng, là
người đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn. Ông đã xây dựng được một triều đại thịnh trị bậc nhất
trong lịch sử trung đại theo mô hình Nho giáo. Việc chỉ ra được vị trí các sáng tác văn chương
của ba tác giả này trong quá trình vận động và phát triển của văn học nhà Nho ở Việt Nam sẽ
làm sáng rõ những vấn đề không chỉ của bản thân văn học nhà Nho mà cả của văn học Thiền và
nhiều vấn đề liên quan đến lịch sử dân tộc. Ngay đương thời, thơ ông đã trở thành điển phạm cho
các triều thần họa theo. Thân Nhân Trung từng bình thơ nhà vua rằng: “Đó là tấm gương tốt đẹp
đã phát ra một cách tự nhiên, không cần mượn sự đẽo gọt mà trăm sự xảo diệu vẫn lộ rõ. Bọn
thần thường vẫn cố gắng làm theo phương pháp ấy, mà rút cục vạn phần dường như không làm
nổi một” [165, tr. 284]. Đào Cử viết lời bạt Quỳnh uyển cửu ca có đoạn: “Nghĩa lý cao xa, từ khí
hùng hồn. Cái tình khích lệ chưa chan ở lời nói. Thực là lời văn dạy đời của bậc đế vương chân
chính. Hoàng đế lại đặc biệt ban thưởng, chọn ra 28 bề tôi gần gũi cho họa vần, lấy tượng 28
ngôi sao trên bầu trời, và tượng 28 vị công thần treo ở Vân Đài đời Hán, tổng cộng được 200 bài,
dâng lên vua xem, rồi cho vựng tập thành sách, đặt tên là tập “Quỳnh uyển cửu ca”…. So với bài
Cửu công, Quyển a của nhà Ngu, nhà Chu thật như cùng một lối. Giúp cho thế nước vững bền,
hoàng đồ củng cố, giữ cho được thịnh trị mãi mãi, tốt đẹp đến vô cùng, chẳng phải là do từ đấy
mà ra sao?” [165, tr. 324-325]. Vũ Quỳnh cho rằng: “Văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học”
[110, tr. 712]. Hà Nhậm Đại cũng tán đồng: “Về sáng tác thơ văn thì trội hơn hẳn các vị bề tôi
văn chương thời đó” [110, tr. 716]. Sau này, Lê Quý Đôn nhận định về Lam Sơn lương thủy là:
“tuy ít dùng chữ lạ lùng hiểm hóc, nhưng khí cốt hào mại cao siêu, lời văn bay bướm sinh động,

không kém gì cổ nhân” [110, tr. 722]. Phan Huy Chú trong phần Văn tịch chí của bộ Lịch triều
hiến chương loại chí sau này trích tuyển rất nhiều thơ ông và đưa ra nhận xét: “Lời phóng
khoáng, câu xinh đẹp, so với tác phẩm của các đế vương từ xưa chưa ai có thể theo kịp” [15, tr.
443]. Giai đoạn này được các nhà Nho xưa coi là mẫu mực khuôn thước về văn chương. Phạm
Đình Hổ khi nhận xét về một bản dịch đã viết rằng: “Một ngày kia bản dịch này trở thành rực rỡ
huy hoàng, khuôn theo được thơ thời Thiệu Bình và Quang Thuận… ” [54, tr. 35]. Bùi Huy Bích
bình thơ ca các triều đại cho rằng: “Nước Việt ta từ nhà Trần đến buổi quốc sơ, thì khí thơ có
chút hồn hậu, đến đời Hồng Đức thì thơ thanh tao, xinh đẹp, về sau dần dần yếu ớt, đến thời
Trung Hưng thì thật thà vụng về, từ thời Vĩnh Thịnh, Thái Bảo về sau, lại trôi chảy dễ nghe, gần
đây lại hay chuộng khí phách” [15, tr. 489]. Đến thế kỷ XIX, một ông vua cực kỳ Nho giáo là
Minh Mệnh cũng nhiều lần ngưỡng vọng về thời đại văn chương Hồng Đức. Do vậy, chúng tôi
cho rằng Lê Thánh Tông là trường hợp tiêu biểu của giai đoạn văn học nhà Nho xác lập điển
phạm.
Xem xét các trường hợp tác giả để khảo sát trong đó chỉ có Nguyễn Trãi là nhà Nho, Trần
Nhân Tông và Lê Thánh Tông là hai vị hoàng đế, chúng tôi đã dựa trên tiêu chí của “văn học có
thuộc tính nhà Nho” chứ không phải “văn học do nhà Nho sáng tác”. Đây ba tác gia quan trọng,
tập trung những vấn đề lớn của văn học trung đại ở các giai đoạn cuối thế kỷ XIII, nửa đầu và
nửa cuối thế kỷ XV, có ý nghĩa như những dấu mốc trong quá trình phát triển của văn học nhà
Nho ở Việt Nam.
Từ những lý do kể trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Quá trình vận động tới sự điển phạm
hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông
cho luận án của mình nhằm giải quyết một số vấn đề mang tính lý thuyết của lịch sử văn học giai
đoạn này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nếu không kể đến những quan niệm, nhận định, đánh giá và những công trình sưu
tầm, ghi chép của “những người trong cuộc” từ thế kỷ XIX trở về trước thì văn học nhà Nho đã
được nghiên cứu từ rất sớm. Trong Việt Nam văn học sử yếu [30] của Dương Quảng Hàm- công
trình văn học sử bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của thời hiện đại (1943), sau “Văn chương bình
dân”, tác giả đã bắt đầu phần văn học thành văn bằng nhiều chương viết về ảnh hưởng của văn
chương Tàu, về Tứ thư, Kinh thi rồi mới đến một chương duy nhất về sự truyền bá Phật giáo

và Đạo giáo, sau đó quay trở lại các vấn đề khoa cử, học thi, nhà Nho Có thể thấy là tác giả đã
nhận diện ảnh hưởng của Nho giáo và Phật, Đạo ở Việt Nam với các mức độ khác nhau. Tuy
không chia thành các dòng với các đặc trưng riêng, nhưng Dương Quảng Hàm đã có sự phân biệt
đầu tiên đối với hai dòng văn chương Thiền sư và nhà Nho: “Xét Hán học nước ta trong hai triều
Lý, Trần, ta thấy lúc đầu hai phái Nho học và Phật học đều ngang nhau mà tiến hành, rồi sau
Phật giáo bị các nhà nho công kích phải thoái bộ dần mà nhường chỗ cho Nho giáo. Trong việc
trứ tác, các vị thiền sư cũng chiếm một địa vị quan trọng. Còn các nhà Nho thì phần nhiều đều có
công nghiệp với xã hội và có phẩm cách thanh cao; trong thơ văn thường trọng đạo lý hơn là từ
chương, chưa nhiễm phải cái thói chuộng hư văn vậy” [30, tr. 238].
Ở miền Nam giai đoạn 1945-1974, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế
Ngũ (1961) chia lịch sử văn học theo ngôn ngữ Hán, Nôm và Quốc ngữ. Cách tư duy này tương
ứng với quan niệm của luận án về các giai đoạn điển phạm hóa của văn học Việt Nam mặc dù
chúng tôi cũng đồng ý với Thanh Lãng rằng đây không phải phương pháp tối ưu để phân chia
một nền văn học. Phần văn học nhà Nho từ cuối thế kỷ XIII đến hết thế kỷ XV mà luận án quan
tâm sẽ phải tìm hiểu ở cả hai phần chữ Hán và chữ Nôm. Phạm Thế Ngũ đã soi chiếu văn học
trung đại từ sự ảnh hưởng của Nho, Phật, Đạo. Ông trình bày ngắn gọn nhưng rất rành mạch các
giai đoạn “đạo Phật toàn thịnh” thời Bắc thuộc, Đinh, Lê, Lý sang “Tam giáo tịnh lập” đời Trần
và “Nho học độc tôn” ở đời Lê. Ngoài vài dòng dành cho thơ Thiền và không khí hùng tráng của
thơ đời Trần thì tác giả mặc định lịch sử văn học Việt Nam là của của các nhà Nho. Công trình
này đã có những nhận xét xác đáng tuy mới sơ lược về văn học chữ Hán các giai đoạn. Ví dụ như
thời Hồng Đức: “Vậy một khuynh hướng chủ yếu trong những sáng tác của các Tao Đàn Hồng
Đức là khuynh hướng giáo huấn hay đạo lý. Ý thơ biểu dương phép trị nước yên dân cùng luân
lý chính trị trong kinh sách của đạo Nho mà đời Hồng Đức bắt đầu nhiễm ảnh hưởng sâu xa” [98,
tr. 141]. Nhìn chung, tuy phần viết về văn học chữ Hán và Nôm giai đoạn từ cuối thế kỷ XIII đến
hết thế kỷ XV tuy dung lượng không nhiều nhưng chúng tôi đánh giá rất cao những đóng góp
của Phạm Thế Ngũ trong việc nhìn nhận và phân tích những ảnh hưởng của Nho giáo tới nền văn
học trung đại trong từng giai đoạn. Luận án của chúng tôi đã thừa hưởng được một số luận điểm
quan trọng từ công trình này.
Bảng lược đồ văn học [71] của Thanh Lãng cho rằng văn học Việt Nam từ thế kỷ XIII
1


cho đến giữa thế kỷ XIX đều nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Nho, Phật, Đạo “khuôn mẫu cho
đường lối suy tư của nhà văn Việt Nam trong gần bẩy thế kỷ là đường lối suy tư theo Tam giáo:
đề tài văn học không bao giờ vượt khỏi ảnh hưởng của ba tư tưởng của Khổng, Phật và Lão.” [71,
tr. 2] Với quan niệm văn học là một “sinh hoạt” có “đời sống” riêng, tác giả đã tìm ra những “cá
tính” của mỗi một thời đại văn học để dựng nên một bảng lược đồ các “thế hệ” văn học. Phần
văn học cuối thế kỷ XIII đến hết thế kỷ XV được quy về hai thế hệ: Văn học của thời đối kháng
Trung Hoa (thế kỷ XIII- XIV) và Văn học của thời phát huy văn hóa dân tộc (1428-1505). Chính
vì chú trọng đến cái “cá tính” của mỗi thế hệ như thế mà Thanh Lãng ít nhìn sự vận động của
văn học các thời kỳ theo cùng một hệ vấn đề, cụ thể như với trường hợp Nho giáo. Nho giáo tuy
được quan niệm là tư tưởng ảnh hưởng xuyên suốt nền văn học “cổ điển” nhưng khi triển khai
trình bày các thế hệ văn học, Thanh Lãng hầu như ít chú ý đến sự tác động của Nho giáo đến đời
sống văn học hay các tác giả, tác phẩm cụ thể.
Các bộ lịch sử văn học của miền Bắc từ năm 1945-1975: Sơ thảo lịch sử văn học Việt
Nam [144] của ban Văn- Sử- Địa, Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam [76] của nhóm Lê Quý
Đôn chịu tác động của tình hình chính trị đương thời cũng như phương pháp luận nghiên cứu
Marxism và phản ánh luận của Lenin nên ít quan tâm đến vấn đề văn học nhà Nho. Họ quy văn
học chủ yếu vào các vấn đề dân tộc, đấu tranh giai cấp và phản ánh hiện thực. Thậm chí, bộ
Lược thảo còn nói rõ quan niệm “không coi các thơ văn viết bằng chữ Hán của ta là những tác
phẩm văn học thuần tuý dân tộc, ( ) chỉ có những tác phẩm viết bằng ngôn ngữ dân tộc mới
hoàn toàn là những tác phẩm văn học dân tộc” [76, tr. 6]. Chính vì thế, văn học chữ Hán bị loại
khỏi phạm vi nghiên cứu của bộ lịch sử văn học này, chỉ được đề cập đến một cách sơ lược ở
phần phụ của mỗi giai đoạn văn học. Với quan niệm như thế, văn học Việt Nam từ thế kỷ X- thế
kỷ XV gần như bị bỏ qua. Cũng vì đứng trên lập trường đấu tranh giai cấp mà các tác giả bộ sách
này đánh giá Nho giáo một cách khá cực đoan và thiên kiến: “Nếu chúng ta nói đạo Phật, đạo
Lão là những tôn giáo mà giai cấp phong kiến lợi dụng để ru ngủ quần chúng, để cho việc thống
trị của chúng dễ dàng thì Nho giáo còn hơn thế. Nho giáo nói trắng ra cái việc bảo vệ xã hội
phong kiến. Nho giáo đặt ra một kỷ cương chung cho người trong giai cấp phong kiến để đảm



1
Thanh Lãng quan niệm nền văn học cổ điển bắt đầu từ thế kỷ XIII với Hàn Thuyên và kết thúc vào năm 1862 [71, tr 1] Ông không lý giải tại sao lại chọn
những mốc như thế.
bảo sự thống trị của giai cấp được dài lâu, và cho người ở các giai cấp bị trị, để họ không những
phục tùng giai cấp phong kiến, mà còn nai lưng làm việc cho giai cấp ấy, chiến đấu để củng cố
cái trật tự có lợi cho giai cấp ấy” [76, tr. 181]. Từ đó, các tác giả này đã quan niệm về mối quan
hệ giữa văn học và Nho giáo như sau: “Đạo Nho làm nội dung cho văn chương cử nghiệp, nhất
là từ nhà Hậu Lê trở về sau. Nhưng tuy đạo Nho can thiệp vào nhiều phương diện sinh hoạt của
ta, nó không có tác dụng to tát và tốt đẹp đối với văn thơ ta (văn thơ nôm). Cái chủ nghĩa thực tế
của nó, cái tư tưởng mực thước và gò bó của nó là kẻ thù của mọi cuộc vượt lên của tư tưởng,
của tình cảm, nó không gây hứng thú. Các thơ truyện của ta thường lấy trung hiếu làm luận đề.
Nhưng cái hay cái đẹp lại xuất phát từ những tình tiết khác” [76, tr. 182] Khi nhận định về văn
học chữ Hán đến thế kỷ XV, các tác giả bộ sách này chỉ nhìn nhận giá trị yêu nước và tinh thần
dân tộc.
Hai bộ giáo trình lịch sử văn học ra đời sau đó của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
(xuất bản lần đầu năm 1961) [92] và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (xuất bản lần đầu những
năm 1970) [59] chưa có nhiều chuyển biến khi xem xét văn học Việt Nam dưới góc độ sự ảnh
hưởng của Nho giáo, và dưới góc độ những sáng tác của nhà Nho. Bộ giáo trình của Trường Đại
học Sư phạm (Bùi Văn Nguyên) vẫn còn cực đoan khi đứng từ quan điểm lập trường đấu tranh
giai cấp để gọi Nho giáo là “nọc độc” [92, tr. 20] và nhìn nhận Nho giáo như sau: “Trước sau,
Nho giáo thời Tây Chu hay Đông Chu, học thuyết về chữ lễ, chữ nhân hay nhân nghĩa cũng đều
là học thuyết của giai cấp chiếm nô hoặc giai cấp phong kiến. Như vậy chúng ta không lấy làm
ngạc nhiên thấy giai cấp phong kiến Trung Quốc sang ta, hay giai cấp phong kiến Việt Nam, đều
đón lấy Nho giáo như một “bửu bối”, một công cụ sắc bén, nhằm mê hoặc nhân dân ta bằng
nhiều đường, như con đường khoa cử, đường làm quan, v.v để dễ bề thống trị và bóc lột họ
một cách tinh vi” [92, tr. 18]. Chính từ xuất phát điểm này mà việc nhìn nhận ảnh hưởng của
Nho giáo tới văn học có những thiên lệch: “những nhân sĩ tiến bộ như Chu An, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát lại tỉnh táo theo sát đời sống của nhân dân
ta với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chứ không mù quáng theo các loại kinh, truyện
của Nho giáo.” [92, tr. 20] “Cách làm để tự tạo cho mình một lối thoát của các nhân sĩ tiến bộ

trên là gạn lọc những yếu tố tích cực trong Nho giáo để có thể dung hòa với lẽ phải, trong dân
gian…” [92, tr. 21]. Tác giả giáo trình đã đặt Nho giáo trong thế đối lập với tính dân tộc, những
yếu tố tiêu cực của văn học được gán cho Nho giáo và những yếu tố mang tính giá trị được gắn
liền với dân tộc.
Giáo trình của Trường Đại học Tổng hợp ra đời muộn hơn, cái nhìn với Nho giáo đã bớt
khắt khe. Các tác giả đã khách quan nhìn nhận sự thật hiển nhiên văn học trung đại Việt Nam là
văn học viết của các nhà Nho, chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo: “Ngày xưa, các tầng lớp trí thức-
kể cả một bộ phận không nhỏ của tăng lữ nữa- chịu ảnh hưởng của Hán học. Quan niệm về văn
học của họ cũng chịu ảnh hưởng của Hán học. Và khi tìm hiểu dòng văn học viết thì không thể
không tìm hiểu ảnh hưởng của quan niệm về văn học của tầng lớp trí thức Hán học, ít hoặc nhiều
được đào tạo trong nhà trường của Nho giáo” [59, tr. 25]. Việc nghiên cứu các tác giả, các tác
phẩm văn học cụ thể đã ít nhiều được quy chiếu từ sự ảnh hưởng của Nho giáo tới văn học. Sự
phát triển của Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo trong văn học đã được xem xét đến. Ở giai
đoạn văn học Lý- Trần, các tác giả đã có những nhận xét đáng lưu ý tuy mới sơ lược về mức độ
ảnh hưởng của Nho giáo và mối quan hệ với Phật, Đạo: “Cái khuôn Nho giáo có khi chỉ là hình
thức. Và những danh từ tu, tề, trị, bình, nhân, nghĩa, trung, hiếu trong trước tác đời Trần lại
thường phần nào tách rời khỏi cái khuôn khổ Nho giáo hoặc ít nhiều phá vỡ cái khuôn khổ ấy để
có thể vươn lên mà chứa đựng những nội dung thiết thực gần với cuộc đấu tranh của dân tộc để
xây dựng đất nước, xây dựng con người” [59, tr. 86]. Tình hình nửa cuối thế kỷ XV khác hẳn:
“Nho học đặc biệt được đề cao. Người làm văn học đều là những nhà Nho, nhiều người lại giữ
những chức vị cao trong triều đình Do đó văn học nói chung đã phát biểu quan điểm chính
thống của Nhà nước phong kiến và thường nặng về xu hướng thù phụng, ca ngợi. Văn học đã thể
hiện rõ rệt tính chất quan phương” [59, tr. 270]. Tuy nhiên, công trình này vẫn chịu ảnh hưởng
của cách nhìn cũ nên đôi khi đánh giá Nho giáo chưa thật sự công bằng. Đặc biệt, các tác giả vẫn
đem Nho giáo ra để đối lập với tính dân tộc. Ví dụ khi nhận xét về Chu An, Đinh Gia Khánh
viết: “Chu An là một nhà Nho. Vậy thì những điều giáo huấn của ông không thể tách rời những
kinh điển của Nho giáo. Nhưng phải thấy rằng đức tính khảng khái, liêm khiết, không màng danh
lợi, không ngại cường quyền, bao giờ cũng nghĩ đến nước, đến dân mà ông nêu cao thì lại xứng
đáng thuộc vào những giá trị tinh thần của dân tộc” [59, tr. 84].
Nhìn chung, chúng tôi cho rằng, những hạn chế về mặt phương pháp luận khoa học và

thế giới quan đã khiến các tác giả miền Bắc trong giai đoạn 1945-1975 nhận định về Nho giáo
khá thiên lệch dẫn đến những né tránh hoặc phủ nhận ảnh hưởng, đặc trưng, kể cả những giá trị,
đóng góp mà Nho giáo đem lại cho văn học.
2.2. Kể từ sau đổi mới
2
, trong vòng mấy chục năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu
của các tác giả Trần Đình Hượu: Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (1995), Loại hình
học tác giả nhà Nho- Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam (1995); Trần Ngọc Vương: Văn học
Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (1997), Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (2007, chủ biên)
và Trần Nho Thìn: Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (2003, 2008), Văn học
Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (2012) đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa đặt nền
móng cho việc nghiên cứu văn học nhà Nho. Điểm chung của những công trình này là quan niệm
nghiên cứu văn học theo phương pháp xã hội học- lịch sử, kết hợp phương pháp loại hình học
hay văn hóa học. Nhưng không giống với xã hội học của miền Bắc giai đoạn 1945-1986 tập
trung vào vấn đề đấu tranh giai cấp, đánh giá tác phẩm dựa trên những định kiến về đối tượng
trong hiện thực, những công trình này đều được thực hiện theo quan niệm xã hội học mang tinh
thần khoa học và hiện đại. Các tác giả xem xét văn học từ góc nhìn xã hội, lịch sử, tư tưởng, triết
học, tôn giáo và các vấn đề văn hóa. Trần Đình Hượu có thể coi là người đầu tiên đặt vấn đề
nghiên cứu văn học nhà Nho một cách hệ thống. Ông cho rằng: “Nếu hiểu A là văn học do nhà
nho viết và viết theo quan niệm văn học Nho giáo, là văn, thơ, phú, lục, là văn học Đông Á thì
cũng cần làm sáng tỏ quan hệ giữa văn hóa và văn học giữa Việt Nam và Trung Quốc, quan hệ
giữa Nho giáo với Phật giáo, tư tưởng Lão- Trang, nhà Nho Việt Nam với tư cách là tác giả văn
học, sự khác nhau không phải là ít trong thực tế và lịch sử giữa các nước Đông Á” [49, tr. 11].
Trần Nho Thìn theo đuổi phương pháp tiếp cận văn hóa học, sử dụng cách thức phục nguyên lại
đời sống văn hóa của một thời đại nhất định, giải mã các hiện tượng văn hóa để giải quyết các
vấn đề của văn học. Từ góc nhìn này, ông đã có một số những ý kiến xem xét lại các luận điểm
về văn học nhà Nho của Trần Đình Hượu, đặc biệt là ở việc phân chia ba mẫu hình nhà Nho.
Nhìn chung, nhóm các tác giả này dù có những khác biệt nhất định nhưng đã giải quyết được các
vấn đề cơ bản mang tính lý thuyết của văn học nhà Nho từ góc nhìn xã hội học- lịch sử và văn
hóa học này:

- Xem xét một cách khách quan mối quan hệ giữa Nho giáo và văn học trong tương quan
với Phật và Lão- Trang từ nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển của Nho giáo, đặc biệt là từ
thời Khổng Tử ở cả hai phương diện: Nho giáo đã đem lại và lấy mất của văn học những gì.


2
Đây là một mốc có tính chất tương đối. Các công trình này đều xuất bản sau 1986, nhưng thực chất nhiều bài viết trong đó được ra đời sớm hơn thời
điểm này rất nhiều.
- Công nhận sự ảnh hưởng của Nho giáo đến nền văn học trung đại Việt Nam một cách
toàn diện và sâu sắc, kể cả khía cạnh tích cực và tích cực của nó. Các tác giả đã phác thảo diện
mạo của nền văn học nhà Nho ở các giai đoạn, các thời kỳ, các thể loại, cảm hứng, hệ thống
nhân vật, tác giả, tác phẩm lớn
Đặc biệt, Trần Đình Hượu trong bài viết “Xác định cái dân tộc, cái cổ điển làm cơ sở để
phân kỳ lịch sử văn học dân tộc” [49] đã đề cập đến tính cổ điển, điển phạm của văn học trung
đại. Theo ông, “Cái cổ điển vốn là nói về hình thức… Cái được coi là cổ điển vừa có hình thức
nghệ thuật hoàn mỹ, vừa có nội dung đặc sắc, có tính khái quát, có tính dân tộc, có tính nhân
loại” [49, tr. 505].
Mặc dù các tác giả này đã xây dựng được một hệ thống lý thuyết khá hệ thống về văn học
nhà Nho nói chung, nhưng nhiều vấn đề cụ thể trong đó vẫn còn chờ được giải quyết. Luận án
của chúng tôi có thể coi là một sự tiếp tục trên cơ sở những nghiên cứu này với sự gia tăng của
các cách tiếp cận mới về một giai đoạn cụ thể của văn học nhà Nho.
Trong xu hướng chung, vấn đề văn học nhà Nho được rất nhiều nhà nghiên cứu văn học
trung đại quan tâm đến. Có thể kể tên các công trình đáng chú ý có đề cập đến vấn đề này: Về
con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam (1997) của các tác giả Nguyễn Hữu Sơn- Trần
Đình Sử- Huyền Giang- Trần Ngọc Vương- Trần Nho Thìn- Đoàn Thị Thu Vân, Góp phần xác
lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam (1997) của Phương Lựu, Mấy vấn đề thi
pháp văn học trung đại Việt Nam (1998) của Trần Đình Sử, Quy luật phát triển lịch sử văn học
Việt Nam (1998) và Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam (2001) của Lê Trí Viễn, Khảo và luận
một số tác gia- tác phẩm văn học trung đại Việt Nam (tập 1- 1999, tập 2- 2001) của Bùi Duy
Tân, Các khuynh hướng văn học Lý- Trần (2008) của Nguyễn Phạm Hùng Có thể nhận xét

chung rằng các tác giả này đã góp phần làm rõ nét thêm các vấn đề của văn học nhà Nho trung
đại từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Trong số này, chúng tôi đặc biệt chú ý Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam
(1998) của Trần Đình Sử. Tác giả đã sử dụng hệ thống lý luận khá thịnh hành ở thời điểm đó do
chính ông là người tiên phong giới thiệu và áp dụng để nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam.
Công trình này đã bổ sung một mảng lớn còn chưa có nhiều thành tựu trong nghiên cứu văn học
trung đại nói chung và văn học nhà Nho nói riêng là soi chiếu văn học từ bình diện ông gọi là
“mỹ học nội tại” của sáng tác nghệ thuật, những hệ thống nguyên tắc nghệ thuật thể hiện trong
chính văn bản tác phẩm. Trần Đình Sử đã đạt được những thành tựu bước đầu ở hướng nghiên
cứu này, ông đã xây dựng được một mô hình tổng quan về thi pháp văn học trung đại trên các
vấn đề cơ bản như loại hình văn học, các bình diện đặc trưng, thi pháp một số thể loại văn học,
quan niệm về con người và thế giới và một số phương thức nghệ thuật. Ở từng yếu tố, ông đều
tính đến sự tác động của các yếu tố Nho, Phật, Đạo tới thi pháp văn học trung đại. Nhiều luận
điểm trong luận án của chúng tôi được phát triển từ những kết quả nghiên cứu của công trình
này, cụ thể là các phân tích về không gian- thời gian nghệ thuật.
Bên cạnh đó, mấy năm gần đây xuất hiện hướng nghiên cứu văn học nhà Nho từ lý thuyết
về thông diễn học của Nguyễn Kim Sơn trong cụm bài viết: Tâm tính học Nho gia và đặc trưng
thẩm mỹ của văn chương nhà Nho (2006), Bàn về cảm hứng cư trần lạc đạo trong thơ Trần
Nhân Tông (2006), Mấy phương diện thẩm mỹ của thơ Nho gia và Thiền gia (2007, viết chung
với Trần Thị Mỹ Hòa), Cội nguồn triết học và tinh thần nhập thế của Trần Nhân Tông (2008),
Sự đan xen giữa các khuynh hướng thẩm mỹ trong thơ Huyền Quang (2009). Tác giả đã bước
đầu chỉ ra một số đặc trưng thẩm mỹ của văn chương nhà Nho trong tương quan với văn chương
Thiền gia và Đạo gia. Chúng tôi tiếp nhận những luận điểm này của tác giả như là những gợi ý
để soi chiếu vào vấn đề điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở giai đoạn cuối thế kỷ XIII- hết thế
kỷ XV.
Đoàn Thị Thu Vân trong luận án tiến sĩ Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật thơ Thiền
Việt Nam thế kỷ XI-XIV (1995) [173] đã quan tâm đến khái niệm “thơ Nho”: “Thơ Nho là thơ của
các tác giả theo hệ tư tưởng Nho gia và đề cập đến những vấn đề thuộc phạm trù triết học, đạo
đức Nho giáo” [173, tr. 154]. Tác giả luận án đã bước đầu chỉ ra những đặc trưng nghệ thuật của
“thơ Nho” thời Lý- Trần trong thế đối sánh với thơ Thiền đương thời trên một số phương diện:

sự thể hiện con người, tính duy lý, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, thi liệu, giọng
thơ và kết luận là những sự khác biệt này xuất phát từ đặc trưng về triết học của hai dòng thơ,
một bên là triết học nhân sinh, một bên là triết học bản thể.
Phát triển hướng nghiên cứu này, Huỳnh Quán Chi trong luận án tiến sĩ Thơ Nho Việt
Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (2010) [12] đã triển khai đề tài trên nhiều phương
diện, từ diện mạo của dòng thơ Nho đến những cảm hứng chính, một số phương diện thi pháp.
Đây là công trình gần với đề tài luận án của chúng tôi nhất dù phạm vi nghiên cứu của luận án
này chỉ dừng lại từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV với một thể loại tiêu biểu nhất của giai
đoạn này là thơ. Huỳnh Quán Chi đã bước đầu phác thảo diện mạo của thơ Nho trong vòng một
thế kỷ. Tuy nhiên, tác giả luận án chưa chỉ ra được những đặc trưng của dòng thơ Nho ở giai
đoạn này so với các giai đoạn khác, chưa quan tâm đến quá trình vận động của đối tượng nghiên
cứu. Tác giả coi thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV như một đối tượng bất biến và
thuần nhất để xem xét. Những yếu tố khác Nho như Phật hay Đạo vẫn còn rất đậm nét ở thời đại
Tam giáo này có vai trò thế nào trong thơ Nho cũng chưa được tác tính đến.
2.3. Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông không chỉ là các tác gia văn học
lớn mà họ đều là những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam ở nhiều tư cách khác nhau.
Xét từ tư cách là tác giả văn học và từ vấn đề điển phạm hóa của văn học nhà Nho, chúng tôi
nhận thấy tình hình nghiên cứu như sau:
Các nghiên cứu về Trần Nhân Tông chủ yếu tập trung ở phương diện hoàng đế- thiền sư
mà ít lưu ý tới tư cách tác giả văn học, có thể kể đến những bài viết về văn chương Trần Nhân
Tông của các tác giả Trần Thị Băng Thanh, Đoàn Thị Thu Vân, Nguyễn Huệ Chi, Trần Nghĩa,
Nguyễn Hữu Sơn, Phạm Ngọc Lan và các phần viết về tác giả này trong các nghiên cứu chung
về thơ văn Lý- Trần của Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Hùng Hậu, Nguyễn Duy Hinh Những
tham luận của hội thảo về Trần Nhân Tông với truyền thống văn hóa, đạo đức, trí tuệ dân tộc
năm 2004 được tập hợp trong cuốn Trần Nhân Tông- vị vua Phật Việt Nam (2004) và hội thảo
Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông cuộc đời và sự nghiệp (nhân 700 năm ngày nhập niết bàn
1308-2008) (2008) cũng đã đề cập đến nhiều mặt trong sự nghiệp của Trần Nhân Tông, nhưng số
lượng bài viết trực tiếp về văn chương của ông chiếm tỉ lệ không lớn. Cho đến nay, mới chỉ có
cuốn Toàn tập Trần Nhân Tông (2000) của Lê Mạnh Thát nghiên cứu toàn diện về Trần Nhân
Tông. Tuy nhiên, đối với văn chương Trần Nhân Tông, Lê Mạnh Thát mới chỉ dừng lại ở các

vấn đề văn bản và những giới thiệu mang tính chất tổng quan. Nhìn chung, ở các công trình
nghiên cứu này, Trần Nhân Tông được đánh giá rất cao ở hai phương diện: một là tư tưởng triết
học Thiền, và hai là cảm hứng dân tộc thể hiện trong tác phẩm của ông. Bên cạnh đó, tinh thần
nhập thế trong văn chương của ông cũng được nhiều nhà nghiên cứu lưu ý tới. Ngoài ra, cũng đã
có những bài viết bước đầu nhận xét về mối quan hệ Tam giáo hoặc các yếu tố Nho giáo trong
văn chương Trần Nhân Tông từ góc độ nội dung tư tưởng như Tìm hiểu mối quan hệ Tam giáo
trong tác phẩm “Cư trần lạc đạo phú” [111] của Trần Nguyên Việt, hoặc kết hợp cả triết học và
mỹ học như loạt bài viết về Trần Nhân Tông và Huyền Quang của Nguyễn Kim Sơn. Từ phương
diện triết học thì Nguyễn Kim Sơn cho rằng: “Có thể nhìn một cách tổng quan về căn cội triết
học của tinh thần nhập thế, mà nói theo cách của chính Trần Nhân Tông, là "cư trần lạc đạo", đó
là một hệ thống với Phật tính luận, phương pháp tu luyện, con đường giác ngộ của Thiền Tông,
đặc biệt là Thiền Huệ Năng làm trục tâm. Trên cơ sở đó, nó kết hợp với tư tưởng Hòa quang
đồng trần trong triết học Lão tử, tư tưởng Vô sở đãi và tùy tục trong tư tưởng Trang tử, và
đương nhiên không thể thiếu tư tưởng lạc đạo của Nho gia. Xét về cơ cấu nó là sự hội nhập triết
học và phương pháp tu dưỡng, cảnh giới tinh thần của cả Tam giáo, lấy Thiền làm cơ sở để tiến
hành hội nhập” [131]. Còn từ góc độ mỹ học thì tác giả cho rằng: “Bài này rõ ràng có khí khái
hơi khác với tinh thần tùy duyên nhậm vận, một loại cảm hứng và một triết lý thiền tiêu biểu và
nổi bật trong thơ Trần Nhân Tông, nó thiên về thơ ngôn chí kiểu Nho gia. Bài thơ thể hiện chí
hướng muốn có được những phẩm chất hơn người, mong làm nên sự nghiếp đế vương như Hán
Văn Đế, Đường Thái Tông. Bài này có thể ví như một bông hoa lạ báo hiệu sự nảy nở và bắt
đầu của loại thơ vịnh vật” [131]. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đặt vấn đề
nghiên cứu yếu tố Nho giáo trong văn chương Trần Nhân Tông một cách hệ thống, đặt Trần
Nhân Tông vào quá trình điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam để soi chiếu.
Trong số ba trường hợp mà luận án lựa chọn để khảo sát thì tình hình nghiên cứu về
Nguyễn Trãi là phong phú và phức tạp nhất. Thanh Lãng gọi Nguyễn Trãi là “ông tổ của nền văn
học cổ điển” “nền văn học cổ điển nếu không phải do Nguyễn Trãi khai sinh thì cũng do Nguyễn
Trãi đặt cho nó cơ sở vững chãi đầu tiên, cho người ta tin vào tiềm lực hiện thực của nó.” [71, tr.
102] “Tất cả những dòng tư tưởng lớn, làm nòng cốt cho nền văn học cổ điển, đều thai nghén và
hình thành ở Quốc âm thi tập” [71, tr. 103]. Đây là quan niệm mà gần như nhà nghiên cứu nào
cũng nhất trí. Các nghiên cứu về Nguyễn Trãi đã được triển khai từ nhiều góc độ, nhiều cách tiếp

cận và cho đến nay đã đạt được rất nhiều thành tựu. Về yếu tố Nho giáo trong văn chương
Nguyễn Trãi, các nhà nghiên cứu có ba quan niệm chính: Quan niệm thứ nhất phủ định sự ảnh
hưởng của Nho giáo tới Nguyễn Trãi, coi Nguyễn Trãi là biểu tượng cho vấn đề dân tộc, hình
ảnh của ông vì thế không thể có chút dính dáng gì đến Nho giáo, là một thứ hệ tư tưởng đầy tính
tiêu cực của ngoại bang, là công cụ của giai cấp thống trị. Theo các tác giả này, nếu Nguyễn Trãi
có chịu ảnh hưởng của Nho giáo thì ông cũng dân tộc hóa các yếu tố đó đi, biến nó thành những
yếu tố tích cực mang tinh thần dân tộc. Đây là quan niệm của nhóm các nhà nghiên cứu miền
Bắc giai đoạn 1945-1986, tiêu biểu là tác giả của các bộ giáo trình như chúng tôi đã đề cập ở
trên. Bùi Văn Nguyên viết trong Giáo trình của Đại học Sư phạm: “Như chúng ta đã nói ở phần
“đặc điểm”, vì hoàn cảnh xã hội nước ta lúc bấy giờ khác hẳn với xã hội thời Khổng, Mạnh, cho
nên không phải ngẫu nhiên mà quan điểm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi có nhiều yếu tố dân tộc
và dân chủ” [92, tr. 131]. Quan niệm thứ hai cho rằng Nguyễn Trãi là Thiền sư, và đương nhiên
gần như không chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Đây là ý kiến của tác giả hải ngoại, Võ Văn Ái
trong cuốn “Nguyễn Trãi sinh thức và hành động” [1]. Tác giả này đã dành hơn 200 trang sách
để chứng minh Nguyễn Trãi là một Thiền sư từ cả hai phương diện sinh thức và hành động.
Quan niệm thứ ba công nhận ảnh hưởng của Nho giáo tới Nguyễn Trãi cũng như các sáng tác
của ông với các mức độ khác nhau. Đây là nhóm quan niệm chiếm đa số, của các tác giả trước
1945, miền Nam 1945-1975 và tình hình nghiên cứu chung 1975 đến nay. Có tác giả (nhất là ở
miền Nam 1945-1975) chủ yếu xem xét sự ảnh hưởng của Nho giáo như Phạm Thế Ngũ, Nguyễn
Thiên Thụ. Phạm Thế Ngũ gọi cuộc đời Nguyễn Trãi là “một sự nghiệp Nho thần”: “Chính là cái
mối lo cao quý của bậc Nho thần trung trực khi ngồi cao ở miếu đường thì lo lắng vì dân, khi xa
lánh ở giang hồ thì lo lắng vì vua” [98, tr. 110]. Các tác giả từ sau đổi mới lại đây thì xem xét
thêm sự ảnh hưởng của Nho giáo tới Nguyễn Trãi trong mối quan hệ với Phật, Đạo và vấn đề
dân tộc một cách khách quan. Trần Đình Hượu trong một bài viết từ năm 1979 nhưng mãi sau
này mới in lần đầu trong cuốn Nho giáo và Văn học Việt Nam trung cận đại với tên gọi Nguyễn
Trãi và Nho giáo cho rằng: “Nguyễn Trãi, về mặt lịch sử là một nhà Nho quá đặc sắc, sự nghiệp
quá rộng lớn, ít người có thể so sánh, nhưng về mặt văn học thì lại là một nhà Nho- nghệ sĩ hết
sức tiêu biểu. Muốn hiểu Nho giáo, nhà Nho, văn học nhà Nho- với đặc sắc Việt Nam của nó- thì
có lẽ ít có gương mặt nào tiêu biểu hơn Nguyễn Trãi” và khẳng định Nguyễn Trãi cơ bản là một
nhà Nho dù ông có chịu ảnh hưởng của Lão- Trang, chủ động chọn Nho giáo cho dân tộc nhưng

vẫn bảo lưu truyền thống Lý- Trần: “Ông đã lựa chọn Nho giáo, nhưng là xu hướng nhân đạo
chủ nghĩa nhất trong Nho giáo thời đó Nguyễn Trãi chọn Nho giáo thay cho Phật giáo thời Lý
Trần nhưng không phải ông từ bỏ truyền thống Lý- Trần, mà làm cho nó cao hơn vì rộng rãi
hơn” [49, tr. 129-130]. Trần Ngọc Vương có ba bài viết về Nguyễn Trãi trong Văn học Việt Nam
dòng riêng giữa nguồn chung xem xét Nho giáo ở Nguyễn Trãi từ nhiều góc độ: là nguồn gốc
của tư tưởng nhân dân, trong mối quan hệ với truyền thống và bản sắc dân tộc, trong tương quan
giữa nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ, giữa Nho giáo và Lão- Trang. Ông cho rằng: “Xét về câu chữ,
về tần số xuất hiện mang dấu ấn tư tưởng thì, thì tư tưởng Lão- Trang, đặc biệt là Trang, có ảnh
hưởng đến Nguyễn Trãi khá hiển nhiên. Ảnh hưởng của Phật giáo nói chung, Thiền tông nói
riêng, đối với ông không thật rõ ràng và có sức nặng đáng kể. Nhưng cả đối với học thuyết Lão-
Trang này, Nguyễn Trãi không đồng hóa vào tâm tưởng và hiện thực hóa vào sự nghiệp mình
những kết luận, những xác tín bản chất nhất, như điều ông đã làm đối với Nho giáo” [185, tr.
254]. Trần Nho Thìn thì nhận định: “Có cảm tưởng là tư tưởng Lão- Trang hay Phật giáo được
ông viện dẫn như để che đậy, ngụy trang cho một thực tế tư tưởng nào đó cần phải giải mã” [151,
tr. 341]. Chúng tôi cho rằng các tác giả đã nhìn nhận đánh giá xác đáng sự ảnh hưởng của Nho
giáo cũng như mối quan hệ với Lão- Trang ở Nguyễn Trãi, nhưng yếu tố Thiền còn cần phải làm
rõ hơn nữa.
Các nghiên cứu về Lê Thánh Tông phần lớn thuộc về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân
sự, luật pháp, văn hóa. Cho đến nay chưa có một chuyên luận nào thực sự đáng kể về văn
chương Lê Thánh Tông. Xét về ảnh hưởng của Nho giáo tới Lê Thánh Tông thì các nhà nghiên
cứu gần như đều thống nhất ở điểm Lê Thánh Tông là người đã có vai trò quyết định trong việc
hạn chế Phật, Đạo để độc tôn Nho thuật. Quan niệm thứ nhất mà đại diện tiêu biểu là Trần Quốc
Vượng coi đấy là tội của của Lê Thánh Tông vì “Điều quan trọng hơn nhiều và gây hậu quả
nghiêm trọng ở thế kỷ XVI là việc nhà Lê mô phỏng triều Minh xây dựng một nền quân chủ-
Nho giáo độc tôn, chuyên chế” [110, tr. 126]. Quan niệm thứ hai áp đảo hơn với đại đa số các
nhà nghiên cứu với góc nhìn có tính lịch sử cụ thể cho rằng lựa chọn Nho giáo là một quá trình
vận động phát triển từ cuối đời nhà Trần và mang tính tất yếu trong điều kiện lịch sử đương thời,
do vậy họ nhìn nhận đánh giá một cách khách quan ở cả đóng góp lẫn hạn chế của Nho giáo đối
với đất nước. Từ đó, các kiến giải của họ đối với vấn đề Lê Thánh Tông và Nho giáo cũng mang
tính công bằng hơn. Họ đánh giá cao vai trò của Lê Thánh Tông trong việc đã tạo ra được một

thời đại thịnh trị của Nho học, nhưng cũng chỉ ra những mặt trái của nó cũng những tác động lâu
dài tới đất nước. Trần Đình Hượu viết: “Nho học Việt Nam đến thời Lê Thánh Tông đã đạt đến
điểm cực thịnh. Và có lẽ đến đó nó cũng đã có bộ mặt tương đối ổn định. Thời thịnh trị đó đưa
lại vinh quang cho dân tộc. Nhưng phải chăng vinh quang cũng đẻ ra cả mặt trái của nó?” [110,
tr. 251]. Các nhà nghiên cứu cũng bàn đến mối quan hệ giữa Nho- Phật- Đạo ở thời Lê Thánh
Tông. Nguyễn Huệ Chi cho rằng: “Có người đã đặt vấn đề trách cứ Lê Thánh Tông bài bác Phật
giáo và Đạo giáo để chỉ giữ lại một mình Tống Nho. Sự “nhất nguyên” đó có làm nghèo nàn tư
tưởng xã hội đi không? Chúng tôi nghĩ, chắc là không thể nào tránh khỏi. Đây là chỗ yếu nhất
trong cái mô hình mà Lê Thánh Tông chọn lựa” [110, tr. 149]. Xét từ góc độ văn học, các nghiên
cứu sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn chương Lê Thánh Tông khá nhiều nhưng không
mang tính hệ thống mà mới chỉ dừng lại ở một vài bài viết về các phương diện đơn lẻ hoặc ở
những bài viết tổng quan về tác giả. Thanh Lãng nhận định vai trò của Lê Thánh Tông trong quá
trình điển phạm hóa của văn học nhà Nho: “Từ Nguyễn Trãi, văn chương đã thoát dần địa hạt tư
tưởng thuần túy để đi đi tới chủ trương văn nghệ thuần túy coi văn nghệ như là một trò chơi,
hứng thú, một môn trang trí cho cuộc đời. Lê Thánh Tông với Hội Tao Đàn, đã đẩy nền văn nghệ
từ chương mới phôi thai đến chỗ cực thịnh” [71, tr. 109]. Bùi Duy Tân cho rằng Lê Thánh Tông
là “thống soái văn đàn nửa sau thế kỷ XV” [110, tr. 35] và “Lê Thánh Tông là đầu đàn của loại
hình tác gia: nhà văn- nho sĩ khi Nho giáo trở thành quan phương, chính thống” [110, tr. 72].
Nguyễn Huệ Chi khẳng định: “Ông xứng đáng với danh hiệu Tao đàn nguyên súy không chỉ vì
ông là vị hoàng đế đương triều mà chính vì những tìm tòi nghệ thuật có giá trị hàng đầu trong
sáng tác” [110, tr. 156]. Đỗ Lai Thúy gọi Lê Thánh Tông là một “nhà Nho- hoàng đế- thi nhân”
và quả quyết rằng: “Sự nghiệp sáng tác của Lê Thánh Tông rất khớp với những chuẩn của văn
học Nho giáo, với tính chất chính thống và chính thức của nó” [110, tr. 662]. Trần Thị Băng
Thanh nghiên cứu “Lê Thánh Tông và các mối “dị đoan”” đã cho rằng “Quả là trong tâm hồn Lê
Thánh Tông vẫn có những mối “dị đoan”, và đậm nét một “cái tôi” trữ tình!” [110, tr. 280]. Nhìn
chung, các tác giả khá thống nhất về nhận định Lê Thánh Tông là một tác giả điển phạm của văn
học nhà Nho.
Tóm lại, chúng tôi cho rằng cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào đặt
vấn đề nghiên cứu ba tác giả Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông trong sự vận
động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho. Vì thế, luận án của chúng tôi có thể coi là công

trình đầu tiên tiếp cận vấn đề văn học nhà Nho theo hướng này.
3. Phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Điển phạm (canon) là một thuật ngữ của phương Tây nhằm chỉ những tác phẩm
được xem là đỉnh cao của một nền văn học, với đặc trưng là tính toàn bích và tính quyền lực.
Cho đến nay, lý thuyết về điển phạm đã có một lịch sử phát triển khá lâu dài và phức tạp.
“Canon” có nguồn gốc từ “kanna” của Hy lạp, chỉ một loại cây sậy có ích, một loại cây thân
thẳng sống ở đầm lầy với thân cứng. Sau đó, từ “kanon” đã mở rộng nghĩa trên theo hướng ẩn dụ
và hoán dụ sang chỉ những vật dụng roi, thanh, thước cũng như những nguyên tắc, quy chuẩn
hoặc hình mẫu. Trong kiến trúc, nó hàm nghĩa là sự đo đạc chính xác, trong nghệ thuật, nó là
những tỉ lệ chuẩn. Nghĩa thứ hai được phát triển rõ nhất ở thời cổ đại bởi nhà điêu khắc nổi tiếng
Polykleitos vào thế kỷ V. Đây là thời kỳ đầu tiên của điêu khắc cổ điển, giai đoạn hình thành
quan niệm về tính hiện thực trong nghệ thuật, sau này sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của
nghệ thuật phương Tây. Bức tượng Doryphoros của Polykleitos, một trong những tác phẩm điêu
khắc được sao chép nhiều nhất ở thời cổ đại, chính là một minh họa cho quan niệm ấy. Mặc dù
hiện nay bức tượng này không còn, nhưng nó từng được người La Mã ngưỡng mộ gần như tôn
sùng và coi là hình mẫu lý tưởng để các tác phẩm điêu khắc khác noi theo, là “bức tượng mà các
nghệ sĩ gọi là Canon”. Bức tượng ấy cũng được xem là sự hiện thực hóa những ý tưởng trong
cuốn sách duy nhất được biết đến của Polykleitos, tiêu đề là Kanon, trong đó diễn giải chi tiết
nền tảng lý thuyết và phương pháp kỹ thuật của ông. Những chi tiết tính toán toán học chính xác
và “tỉ lệ lý tưởng” cơ thể con người của Polykleitos đã cung cấp một bản thiết kế ứng dụng thực
tiễn và tiêu chuẩn mỹ học cho các nhà điêu khắc về sau noi theo. Theo Polykleitos, điều cơ bản
cần có của “kanon” là sự mô phỏng tự nhiên hoặc hiện thực. Nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật
Brunilde Ridgway cho rằng Doryphoros không đại diện cho cá nhân cụ thể mà là mẫu hình tuyệt
vời nhất về hình tượng một vận đông viên Olympic. Có thể nói, không có con người cụ thể nào
trông giống được như bức tượng này, hoặc theo cách nói của Platon thì thế giới này chỉ có thể
tạo ra được những bản sao nhạt nhòa của nó. Đến Platon, điển phạm được giải thích như là một
nguyên mẫu cho khái niệm về ý niệm hay hình thức của Platon, một nguyên mẫu lý tưởng hình
thành nên những tri thức đúng đắn và được coi là chuẩn mực để noi theo. Plato cho rằng
Polykleitos và Homer là những hình mẫu nhà điêu khắc và nhà thơ điển phạm, vì họ mang đến ý

niệm về sự nghiêm khắc, lòng tốt và tính chân thực- nói gọn lại là quan niệm của Platon về tri
thức. Tại giai đoạn này, thuật ngữ “kanon” mang ý nghĩa là thước đo của đạo đức và tri thức.
Ở những thế kỷ sau, người La Mã la tinh hóa “kanon” thành “canon”. Họ bắt đầu sao
chép, phỏng theo các kiệt tác của người La Mã trong các lĩnh vực nghệ thuật, kể cả văn chương.
Như vậy, sự xuất hiện những tác phẩm sao chép được cho là một dấu hiệu cho thấy sự tồn tại của
điển phạm. Tuy thế, sự mô phỏng các tác phẩm nổi tiếng cũng có chức năng về mặt ý thức hệ,
bởi vì sự viện dẫn các tiền lệ lịch sử có tính điển hình thường là một hành động để chính thống
hóa quyền lực chính trị đương thời. Lúc này, sự phân biệt giữa các tác giả “cổ đại” và “hiện đại”,
“cổ điển” và “đương thời”, đa số và thiểu số đã bắt đầu được công thức hóa. Đến thế kỷ IV, điển
phạm được coi là danh mục sách cần để học, ví dụ như sách văn học của Cơ đốc giáo. Lịch sử
hình thành các điển phạm kinh thánh kéo dài đến tận thế kỷ XVI. Ở thời trung cổ này, đã có sự
chuyển biến trong định nghĩa: điển phạm vẫn được coi là khuôn mẫu về nghệ thuật và đạo đức,
nhưng bổ sung thêm phương diện là danh sách những kiến thức sư phạm về nghệ thuật tự do, đặc
biệt là ngữ pháp, thực hành ngôn ngữ, văn học.
Đến cuối thời trung cổ và bước vào giai đoạn Phục Hưng, văn học của các ngôn ngữ nói
ở châu Âu trở thành điển phạm chủ yếu qua con đường mô phỏng các tác phẩm cổ điển cổ đại,
như cách mà văn học tiếng Latin đã làm trước đó với di sản của người Hy Lạp. Các nhà thơ cổ
đại được sao chép nhằm mục đích chính thống hóa văn học đương đại và những giá trị mà nó đại
diện cho. Tuy vậy, mô phỏng và sao chép các tác phẩm văn học cổ điển chỉ là một trong những
cách thức mà các nền văn học của các ngôn ngữ nói dùng để nâng cao vị trí của mình. Giữa điển
phạm hiện đại và cổ trung đại có những sự khác biệt lớn. Trước hết, cuộc sống vật chất và điều
kiện xã hội đã tạo nên những thay đổi bản chất trong việc sáng tác, phát hành và tiếp nhận tác
phẩm văn học. Bên cạnh đó, phải tính đến sự hình thành của nhà nước- dân tộc hiện đại và tác
động của nó tới việc xác định những điển phạm của dân tộc. Cuối cùng, các môn học về văn học
thế tục đã góp phần vào quá trình điển phạm hóa những tác phẩm văn học theo của mỗi dân tộc.
Cuối thế kỷ XX, với đòi hỏi về sự bình đẳng của chủ nghĩa dân chủ, dưới sức ép của chủ
nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa đa văn hóa, văn hóa đại chúng và các lý thuyết văn học mới, quan
niệm về điển phạm văn học phương Tây như một tập hợp những tác phẩm cổ điển- những đỉnh
cao của thành tựu văn hóa phương Tây, một thời được coi là có giá trị vĩnh viễn và phổ quát, thì
nay đang bị xem xét lại. Điển phạm bị phê phán là nơi độc quyền của các tác giả “nam giới, da

trắng và đã chết”, loại bỏ những nghệ sĩ thuộc các nhóm xã hội trong lịch sử từng thuộc các tầng
lớp thấp kém hơn hoặc không phù hợp với lợi ích của nền văn hóa chủ lưu. Điều này bị cho là
theo chủ nghĩa tinh hoa, gia trưởng và phân biệt chủng tộc. Những tượng đài của nền văn hóa cũ
đang bị đòi hỏi thay thế bằng những cái mới, thậm chí, có những lời kêu gọi xóa bỏ điển phạm,
xóa bỏ trung tâm, xóa bỏ những giá trị từng được coi là bất biến. Thêm vào đó, những ý kiến cho
rằng sự đánh giá thuần túy mang tính thẩm mỹ đối với tác phẩm văn học có thể hoàn toàn tách
biệt khỏi lợi ích chính trị cũng bị đặt dấu hỏi. Harold Bloom trong cuốn sách nổi tiếng The
Western Canon: The Books and School of the Ages đã bảo vệ điển phạm phương Tây, ca ngợi
các tượng đài văn hóa truyền thống, mục đích để văn học giữ được bản chất toàn vẹn và trong
sáng nhất có thể. Ông cho rằng điển phạm tồn tại để ấn định những giới hạn, để đưa ra tiêu chuẩn
đo lường mọi thứ như tri thứ và mỹ học, ngoại trừ chính trị và đạo đức. Bloom thừa nhận rằng
điển phạm không bảo giờ là một cấu trúc ổn định. Ông nhấn mạnh không phải các nhà phê bình
hay các học giả, càng ko phải các chính trị gia quyết định sự hình thành điển phạm. Ý tưởng về
quyền lực của văn chương thâm nhập vào quan niệm điển phạm của Bloom vì ông tin rằng sự
ảnh hưởng giữa các nghệ sĩ và sự cạnh tranh trong lịch sử là chìa khóa tạo ra các điển phạm lớn.
Các nghệ sĩ tự mình xác lập điển phạm bằng cách trở thành cầu nối giữa những điển phạm phía
trước và sau mình. Do vậy, lịch sử văn học là tự sự của các quá trình tự tạo lập hoặc ảnh hưởng
giữa các nghệ sĩ. Tóm lại, sự thiết lập điển phạm là kết quả của sự xung đột nghệ thuật chứ
không phải sự phát triển dần đều. Do quá coi trọng sự phát triển của bản thân đối tượng tác phẩm
văn học nội tại mà Bloom đã bỏ qua mọi yếu tố xã hội tác động đến văn học. Đối với ông, điển
phạm được hình thành bởi phương tiện đấu tranh lịch sử hoặc sự cạnh tranh về mỹ học, là một sự
siêu nghiệm lịch sử.
Ngược với Bloom, Frank Kermode cho rằng trách nhiệm xác lập và duy trì điển phạm
thuộc về các yếu tố xã hội, lịch sử, thiết chế giáo dục và giới học giả. Giống Mác và các nhà hậu
cấu trúc, ông tin vào sự ảnh hưởng của thiết chế xã hội đến việc hình thành điển phạm. Ông cho
rằng điển phạm thay đổi liên tục theo thời gian bởi các thiết chế quyền lực. Trong khi đó,
Bourdieu lại quan niệm sự mô phỏng điển phạm phụ thuộc vào quá trình phổ biến của tác phẩm
trong xã hội cũng như cách thức nó được thể chế hóa rộng rãi. Tuy vậy, những yếu tố khác cũng
phải được tính đến, đặc biệt là chất lượng của tác phẩm được xác định bởi các thiết chế có thẩm
quyền. Ông lập ra mô hình của quá trình điển phạm hóa, đưa ra hàng loạt các thiết chế, tổ chức,

kiểu diễn ngôn và ý nghĩa tượng trưng báo hiệu quá trình điển phạm, và khẳng định rằng sự phổ
cập ở phương diện văn hóa là yếu tố cơ bản của bất kỳ tác phẩm trở thành điển phạm nào.
Các nhà xã hội học nói chung thường có xu hướng bỏ qua nội dung và giá trị mỹ học của
tác phẩm văn học mà chỉ tập trung vào chức năng xã hội và tư tưởng. Điển phạm thậm chí còn bị
cho là sự thông đồng với diễn ngôn của các quyền lực, và sự xác lập điển phạm xuất phát từ
động cơ chính trị. Đối lập với họ, Bloom quan niệm điển phạm là sự khẳng định những trải
nghiệm thẩm mỹ riêng mang màu sắc cá nhân, cách biệt xã hội bằng việc duy trì tránh xa những
vấn đề của xã hội. Dù nhiều chỗ không nhất trí với Bloom, nhưng Kermode cũng đồng tình rằng
cần phải đặt điển phạm đứng ngoài các vấn đề chính trị. Điển phạm, xét cho cùng, tự thiết lập
bản thân như là một tập hợp văn bản có tính phổ quát, và sống một đời sống văn hóa của chính
nó thông qua một sự tương tác liên tục, vĩnh cửu giữa mỗi văn bản mới và một số lượng không
đoán trước được những văn bản trước nó cùng những nguyên tắc và quy chuẩn chính thức.
Tóm lại, điển phạm là những tác phẩm hay nhóm tác phẩm có tính chất mẫu mực của một
nền văn học, nó lưu giữ quá khứ và liên hệ với hiện tại. Quá trình hình thành của điển phạm phải
tính từ cả hai phía, trước hết là bản thân giá trị thẩm mỹ nội tại của tác phẩm, sau đó là sự ảnh
hưởng của các yếu tố lịch sử, thiết chế xã hội, giáo dục, kinh tế và chính trị. Sự hình thành và lưu
giữ điển phạm được tiến hành chủ yếu qua cách thức sau: một tác phẩm được coi là điển phạm
khi xuất hiện sự mô phỏng và sao chép qua các thế hệ. Tuy nhiên, cũng có thể tính đến thiết chế
giáo dục chính thống là nơi hình thành hay lưu giữ điển phạm và vai trò của các nhà phê bình.
Điển phạm không phải là hiện thân cho các giá trị phi lịch sử và tổng quát mà nó có tính lịch sử
và biến đổi theo thời gian. Mỗi một trào lưu văn học mới sẽ khởi đầu bằng quá trình giải điển
phạm một số tác phẩm từng là điển phạm và hoàn thành bằng sự điển phạm hóa một số tác phẩm
mới ra đời. Những tác phẩm được coi là điển phạm sẽ trở thành khuôn mẫu, quy phạm ở các mức
độ khác nhau cho một giai đoạn văn học, một nền mỹ học. Có thể nói, điển phạm chính là tự sự
về một cách nhìn văn học của mỗi thời đại. Lịch sử văn học Việt Nam tính đến nay đã trải qua ba
lần điển phạm hóa lớn. Lần đầu tiên diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XV với bộ phận văn học chữ
Hán có ý nghĩa đánh dấu sự hoàn thành quá trình gia nhập của nền văn học Việt Nam vào vùng
văn học Đông Á. Lần thứ hai diễn ra với bộ phận văn học chữ Nôm ở nửa cuối thế kỷ XVIII-
nửa đầu thế kỷ XIX là dấu mốc trưởng thành của nền văn học theo hướng dân tộc hóa. Hiện đại
hóa nền văn học bằng chữ Quốc ngữ diễn ra vào thế kỷ XX dưới sự ảnh hưởng của văn hóa

phương Tây chính là lần điển phạm hóa lớn gần đây nhất của nền văn học Việt Nam.
3.1.2. Quá trình vận động tới điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam là một đề
tài khá phức tạp, trong giới hạn luận án, chúng tôi chỉ lựa chọn một phạm vi nghiên cứu nhất
định, là lựa chọn ba tác giả cụ thể là Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông để nghiên
cứu trường hợp. Chúng tôi hy vọng từ ba tác giả có thể khái quát những vấn đề mang tính lý
thuyết cho cả giai đoạn. Chọn các tác giả này, chúng tôi muốn nhấn mạnh tính quá trình nhiều
hơn là bản thân điển phạm.
Ở từng tác giả, chúng tôi cũng có những giới hạn phạm vi nghiên cứu nhất định. Dù quan
niệm về văn chương hành chính của nhà Nho thời trung đại khác xa so với chúng ta ngày nay,
nhưng tuy vậy, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là mảng văn chương có tính chất nghệ thuật
nhiều hơn là văn chương hành chính. Chính vì vậy, ở Trần Nhân Tông, chúng tôi chỉ khảo sát
thơ và phú của ông mà không đề cập đến mảng thư từ ngoại giao. Chúng tôi dựa chủ yếu vào văn
bản các tác phẩm và bản dịch được in trong Thơ văn Lý- Trần, tập 2 gồm 31 bài thơ, hai cặp câu
thơ lẻ, một bài minh, một bài tán chữ Hán và hai bài phú Nôm (có tham khảo Toàn tập Trần
Nhân Tông của Lê Mạnh Thát thêm vào một bài thơ và một đoạn phiến).
Về Nguyễn Trãi, số lượng tác phẩm của ông dù đã mất mát khá nhiều sau vụ án Lệ Chi
viên, nhưng vẫn còn khá lớn so với các tác giả đương thời. Nhưng với quan niệm tập trung chủ
yếu vào văn chương mang tính nghệ thuật nên chúng tôi chỉ khảo sát hai tập thơ Ức trai thi tập
và Quốc âm thi tập, các bài văn Bình Ngô đại cáo, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục và Lam
Sơn thực lục. Chúng tôi sẽ không đề cập đến Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí và các văn bản
hành chính công vụ khác trong nghiên cứu của mình. Văn bản tác phẩm và bản dịch dùng để
khảo sát chúng tôi sẽ dựa vào Nguyễn Trãi toàn tập tân biên do Mai Quốc Liên chủ biên (có
tham khảo Nguyễn Trãi toàn tập của Ủy ban Khoa học Xã hội).
Lê Thánh Tông sáng tác khá nhiều. Quan trọng nhất và chiếm số lượng lớn nhất trong di
sản văn chương của ông là thơ chữ Hán với khoảng 320 bài [165, tr. 49], bao gồm chín tập: Anh
hoa hiếu trị, Châu cơ thắng thưởng, Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy,
Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Cổ kim cung từ thi tập và Xuân vân thi tập, và gần 150 bài
không thuộc tập nào. Ngoài ra ông còn để lại một bài phú chữ Hán Lam Sơn Lương thủy phú.
Bên cạnh đó, Lê Thánh Tông cũng sáng tác khá nhiều thơ chữ Nôm, hiện còn lại chừng vài chục
bài thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập và một bài văn Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn.

Ngoài ra, chúng tôi cũng giống như nhiều nhà nghiên cứu khác có nhiều lý do tin rằng văn bản
tác phẩm Thánh Tông di thảo hiện còn rất ít khả năng là sáng tác của Lê Thánh Tông, nên sẽ
không đề cập đến tác phẩm này trong luận án. Cũng vì lý do vấn đề tác giả không chắc chắn nên
chúng tôi cũng sẽ không nhắc đến Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. Chúng tôi sử dụng các văn
bản tác phẩm và bản dịch trong Thơ văn Lê Thánh Tông (1986), Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông
tổng tập (2003) và Hồng Đức quốc âm thi tập (1982).
3.1.3. Sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho là quá trình văn học nhà Nho vận động
phát triển tiến đến trở thành khuôn mẫu, tiêu chuẩn cho văn chương nhà Nho đương thời và hậu
thế noi theo. Điều ấy có nghĩa là, điển phạm văn học nhà Nho thuộc về một giai đoạn nhất định
và không có tính chất vĩnh viễn, hay nói cách khác, không thể dùng cái nhìn của người hiện đại
để phán xét điển phạm quá khứ. Dĩ nhiên quá trình này chịu sự tác động của các yếu tố lịch sử,
văn hóa, xã hội và có thể soi chiếu từ chính bản thân văn bản tác phẩm. Tuy có tính đến những
yếu tố bên ngoài tác động tới văn học, nhưng luận án xác định đối tượng nghiên cứu chính là
quá trình điển phạm hóa diễn ra bên trong những văn bản tác phẩm, chính vì vậy, việc đưa
ra một hệ tiêu chí để xác định đối tượng văn học nhà Nho là rất cần thiết. Những tiêu chí này
được rút ra từ chính bản chất của Nho giáo và văn chương trong quan niệm của nhà Nho.
- Thứ nhất, văn học nhà Nho được sáng tác bởi các tác giả chịu ảnh hưởng của Nho giáo,
trong thời đại Nho giáo có vai trò nhất định hoặc thống trị xã hội. Đây là yếu tố đầu tiên mang
tính tiền đề cho sự xuất hiện của văn học nhà Nho.
- Thứ hai, về quan niệm văn học, văn chương nhà Nho chính mang đặc tính chức năng xã
hội điển hình. Lưu Hiệp nói về văn như sau: “Nguồn gốc của cái văn ở con người là bắt đầu từ
khi vũ trụ ra đời (thái cực). Cái đi sâu được vào nơi bí ẩn, nói lên được (tán) cái vi diệu của sự
vật (thần minh) thì trước hết là các quái tượng của Kinh dịch” [3, tr. 127]. “Từ thời Phục Hi đến
thời Khổng Tử, các vị thánh nhân đời xưa khai sáng. Vị vua không ngôi (Khổng Tử) thuật lại,
dạy dỗ, không ai là không lấy cái tinh thần (tâm) của tự nhiên (đạo) để trình bày thành văn
chương, xét các đạo lý vi diệu để giáo dục (con người)” [3, tr. 128]. “Do đó ta biết: Cái tự nhiên
(đạo) nhờ các thánh nhân mà thành văn chương; các thánh nhân (ngược lại) lại dựa vào văn
chương để làm sáng tỏ cái lẽ tự nhiên (đạo). (Làm như thế thì) ở đâu cũng thông suốt, không bị
bế tắc, ngày nào cũng dùng mà không thấy thiếu. Kinh dịch nói: “Cái có thể cổ võ lay động thiên
hạ đó là ở lời”. Cái lời sở dĩ cổ võ được thiên hạ vì nó là cái văn của tự nhiên (đạo)” [3, tr. 129].

Nho giáo quan niệm văn chương bắt nguồn từ đạo của trời, thánh nhân dùng văn để truyền tải cái
đạo đấy đến với chúng nhân, nhằm giáo hóa con người theo được cái đạo đấy của trời đất. Chính
vì vậy, văn chương Nho giáo là “văn dĩ tải đạo” và “thi dĩ ngôn chí”.
- Thứ ba, về chủ đề, đề tài, văn chương nhà Nho hướng đến những vấn đề của cuộc sống
xã hội, những vấn đề quan thiết với cuộc đời của một nhà Nho, các chuyện tu, tề, trị, bình. Văn
chương nhà Nho chính thống không quan tâm đến những chuyện ngoài phạm vi này. Nhà Nho có
thể nhắc đến thiên nhiên như giang sơn gấm vóc, tùng cúc trúc mai, đến con người như ngư tiều
canh mục thì tất cả cũng là để minh họa cho những nội dung mang tính xã hội, để truyền tải
những vấn đề đạo lý nói trên. Văn chương nhà Nho có những giới hạn nghiêm ngặt về nội dung
được đề cập đến. Điều này xuất phát từ đặc trưng của Nho giáo.
- Thứ tư, về các hình tượng trung tâm: Hình tượng số một của văn học nhà Nho là các
nhà Nho hành đạo. Họ là các hình tượng nhà Nho kiểu mẫu, các mẫu hình nhân vật luôn sống
theo các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức của Nho giáo. Các hình tượng quan trọng khác của
văn học nhà Nho luôn được khắc họa theo mô hình nhân cách lý tưởng của Nho gia.
- Thứ năm, về đặc trưng thẩm mỹ, cái đẹp trong văn chương nhà Nho là cái đẹp của thế
giới thực tại, của đời sống thế tục. Nhà Nho tìm kiếm mục đích sống của mình ở ngay trên cõi
trần gian này chứ không phải bất cứ thế giới bên ngoài nào. Đặc biệt, đối với bộ phận văn
chương này, thứ quan trọng hàng đầu là cái đẹp của nhân cách chủ thể, của sự tự tu dưỡng, của
nỗ lực “thận độc” trong suốt cuộc đời. Một trong những đặc trưng thẩm mỹ của văn học nhà Nho
là cái đẹp của tình cảm được lý trí chế ước trong phạm vi của cái trung hòa. “Tâm tính học của
Nho gia hướng tới sự phù hợp tuyệt đối, phù hợp tới độ nhất thể giữa bản năng và lễ chế/ các
thiết chế xã hội. Cái đó nhà nho gọi là “phát nhi giai trúng tiết”. Nó là Hoà. Hoà ở đây là
tư tưởng, tình cảm, bản năng, xúc cảm hoàn toàn được làm chủ, được điều tiết và những tình cảm
bản năng đó không gì vượt ra ngoài khuôn phép. Cái tiêu chí, chỗ dựa để điều tiết đó là các quy
định của lễ chế. Tu tâm dưỡng tính thực chất là làm cho tình cảm tự nhiên không mẫu thuẫn với
lễ” [128].
- Thứ sáu, về phương diện thi pháp. Thời gian nghệ thuật trong văn học nhà Nho luôn
hướng về quá khứ, sử dụng quá khứ làm chuẩn mực, làm thước đo cho hiện tại và tương lai. Nhà
Nho xác lập cho mình một hệ giá trị dựa trên những ước lệ về một quá khứ hoàn hảo, huy hoàng,
một quá khứ đại diện cho Đạo. Thời gian đối với nhà Nho không vận động mà chỉ biến đổi theo

chu kỳ tuần hoàn thịnh suy, trị loạn. Không gian nghệ thuật trong văn học nhà Nho là không gian
hiện thực, thế tục, là cung đình, nông thôn, sơn thủy… Nhưng những không gian này thường
mang tính ước lệ, biểu trưng.
- Thứ bảy, về thể loại, văn học nhà Nho là văn chương chức năng nên coi trọng các thể
loại mang tính chức năng xã hội như chiếu, biểu, cáo, hịch Đối với văn học nhà Nho, ngay cả
các thể loại mang tính nghệ thuật nhiều hơn như thơ, phú cũng bị chức năng hóa. Ví dụ trong thơ
ca, thể thơ đề vịnh trở thành tiểu loại tiêu biểu của văn chương nhà Nho, một thể thơ mượn cớ đề
vịnh các đồ vật, sự vật để ký thác những vấn đề đạo đức.
- Thứ tám, các yếu tố hình thức như thi liệu, văn liệu, dụng điển có thể thấy rõ sự xuất
hiện của các yếu tố liên quan đến tư tưởng, sách vở kinh điển Nho giáo. Tuy nhiên, các phương
diện như nghệ thuật lập ý, dùng hình ảnh, cấu trúc ngôn từ thì văn học nhà Nho không có nhiều
sự khác biệt với các bộ phận văn chương khác.
Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi không trình bày dàn trải hết các vấn đề kể trên của
văn học nhà Nho mà chỉ ưu tiên lựa chọn những tiêu chí quan trọng nhất: tác giả, quan niệm văn
học và đặc trưng thẩm mỹ, chủ đề- đề tài, hình tượng trung tâm, thời gian và không gian nghệ
thuật. Tuy nhiên, dù không đưa thành các tiểu mục, nhưng chúng tôi cũng sẽ ít nhiều đề cập đến
các yếu tố còn lại như thể loại, ngôn ngữ… trong khi trình bày các vấn đề mà chúng tôi ưu tiên.
3.2. Mục đích nghiên cứu
- Có thể nhận diện được tiến trình liên tục của văn học trung đại nói chung và văn học thế
kỷ XII- XV nói riêng thông qua góc độ điển phạm hóa của văn học nhà Nho.
- Xem xét quá trình điển phạm hóa của văn học nhà nho ở Việt Nam giai đoạn cuối thế
kỷ XIII- hết thế kỷ XV trên một số phương diện cơ bản của tác giả và tác phẩm văn học, chủ yếu
dựa vào chính đối tượng văn bản tác phẩm: quan niệm văn học và đặc trưng thẩm mỹ, chủ đề- đề
tài, hình tượng trung tâm, không gian và thời gian nghệ thuật…
- Nghiên cứu một số trường hợp cụ thể, một số tác giả tiêu biểu dưới góc nhìn sự hình
thành và phát triển của văn học nhà nho ở Việt Nam, nhìn họ như những mắt xích trong chuỗi
vận động của lịch sử văn học.
- Từ đó nhận diện các đặc trưng của văn học nhà Nho ở Việt Nam trong mối tương quan
với Phật, Đạo.
4. Phương pháp nghiên cứu

Vì đối tượng nghiên cứu là vấn đề điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở giai đoạn cuối
thế kỷ XIII đến hết thế kỷ XV nên chúng tôi sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp và cách tiếp
cận khoa học khác nhau để có thể soi chiếu đối tượng từ nhiều góc độ.
Phương pháp chủ đạo được sử dụng xuyên suốt luận án là phương pháp liên ngành. Đề
tài luận án đề cập đến đối tượng là văn học nhà Nho trong lịch sử văn học, thuộc về một thời đại
tư duy nguyên hợp còn hết sức mạnh mẽ. Như chúng tôi đã đưa ra định nghĩa về văn học nhà
Nho, là loại hình văn học chịu ảnh hưởng của Nho giáo do các tác giả là nhà Nho hoặc những
người chịu ảnh hưởng của Nho giáo sáng tác, chính vì thế đối tượng của luận án là văn học trong
mối quan hệ với Nho giáo, và rộng hơn là mối quan hệ với Tam giáo. Chính vì thế, luận án buộc
phải vận dụng những tri thức và phương pháp nghiên cứu liên quan đến triết học (Nho, Phật,
Đạo), lịch sử kết hợp với chuyên ngành văn học. Nghiên cứu liên ngành là nghiên cứu liên khoa
học, là sự kết hợp các môn học, các ngành học với nhau. Nhưng liên ngành không phải là dấu
cộng đơn giản của các ngành khoa học, mà là sự tổng tích hợp các cách tiếp cận, các phương
pháp nghiên cứu của các chuyên ngành vào trong một ngành khoa học mới. Liên ngành là sử
dụng lối tư duy phức hợp để xem xét một đối tượng mang tính nguyên hợp như thế, là quay trở
về cách tư duy tổng hợp trước đây nhưng ở cấp độ cao hơn.
Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu loại hình và cấu trúc loại hình,
tìm hiểu cấu trúc của loại hình học văn học nhà Nho, xác định vị trí của các yếu tố trong hệ
thống, tìm hiểu mô thức vận động và phát triển của các yếu tố. Chúng tôi cũng sử dụng phương
pháp nghiên cứu trường hợp (case study), lựa chọn ba trường hợp có ý nghĩa tiêu biểu cho từng
giai đoạn để khái quát được những vấn đề mang tính hệ thống. Phương pháp hệ thống được sử
dụng xuyên suốt luận án với nhằm khám phá mối liên hệ bên trong của một tổng thể các hiện
tượng và các thành tố để tìm ra tính thống nhất về mặt cấu trúc của chúng.
Ở từng vấn đề, chúng tôi kết hợp các phương pháp và các cách tiếp cận:
+ Thông diễn học: khi tìm hiểu những đặc trưng mang tính thẩm mỹ của các tác phẩm
hoặc một tác giả từ các phạm trù mỹ học, các mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể thẩm mỹ.
+ Thi pháp học: Khi muốn “nghiên cứu về sự tiến hóa của các phương thức, phương tiện
chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng, sự hoạt động chức năng xã hội- thẩm mỹ của chúng, nghiên
cứu số phận của các khám phá nghệ thuật” [60, tr. 36-37].
+ Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Khi muốn tìm hiểu các yếu tố của văn bản tác

phẩm thông qua việc phục nguyên lại đời sống văn hóa của một thời đại nhất định, dùng nó để
giải mã cho các vấn đề văn học, đặc biệt là các quan niệm về văn và sáng tác văn chương.
Ngoài ra, chúng tôi vận dụng các thao tác thông thường như: phân tích, so sánh, đối
chiếu, thống kê, phân loại, mô hình hóa, khảo sát văn bản…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Phác họa được quá trình điển phạm hóa văn học nhà Nho ở Việt Nam, đồng thời qua đó
cũng có thể nhìn nhận tiến trình văn học Việt Nam một cách liền mạch và có hệ thống từ góc độ
sự ảnh hưởng của Nho giáo tới văn học.

×