Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tài liệu ôn thi môn Quan hệ quốc tế có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.13 KB, 32 trang )

Câu 1. Hãy phân tích và chứng minh: Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ
CNTB lên CNXH mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng XHCN tháng Mười Nga năm
1917.
Trước những diễn biến vô cùng phức tạp của thế giới sau sự sụp đổ của chế độ
XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, vấn đề thời đại vẫn tiếp tục trở thành một trong những
tiêu điểm nóng bỏng, gay gắt của cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận. ở đây đó đã xuất hiện
quan điểm cho rằng không cần xác định thời đại ngày nay vì CNXH trên toàn thế giới
còn xa vời, khẳng định thời đại lúc này không giúp ích gì, trái lại dễ gây ảo tưởng chủ
quan, phi thực tế trong hành động (!). Thậm chí, có quan điểm còn phủ nhận thời đại
ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH mở đầu bằng cách mạng tháng Mười
Nga viện lẽ CNXH thực tế đã sụp đổ và sụp đổ ngay tại Liên Xô - quê hương cách mạng
tháng Mười. Đây là những quan điểm mơ hồ, sai trái về chính trị. Sự nghiệp cách mạng
và con đường đi lên của các dân tộc sẽ không thể giành thắng lợi nếu thiếu tầm nhìn xa
trông rộng và không được đặt vào đúng quỹ đạo thời đại. Cho nên, hơn bất kỳ khi nào,
việc xác định đúng nội dung, tính chất, những đặc điểm chủ yếu và các mâu thuẫn cơ bản
trong giai đoạn hiện nay của thời đại, trên cơ sở nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo
quan điểm, phương pháp tiếp cận macxit về thời đại, càng trở nên có ý nghĩa cấp bách xét
trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn đối với tất cả các đảng cộng sản (ĐCS) và
công nhân, đặc biệt đối với các ĐCS cầm quyền như Đảng ta.
Trong trường sử tiến hoá, cho đến nay, nhân loại đã từng trải qua những thời kỳ
phát triển khác nhau. Giới học giả thuộc các ngành triết học, sử học, xã hội học, tương lai
học,…đã sử dụng khái niệm thời đại để phân kỳ sự phát triển lịch sử. Tuy nhiên, do
phương pháp tiếp cận, lợi ích giai cấp, tiêu chí xác định hoặc góc độ nhìn nhận không
giống nhau, nên đã từng xuất hiện cách phân chia thời đại khác nhau, hàm chứa những
quan niệm phong phú về phạm trù thời đại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin xem xét một cách khoa học vấn đề thời đại trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng và học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Các
nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ rõ rằng loài người tiến lên theo quy
luật của sản xuất vật chất, thực chất vận động lịch sử, xét cho cùng, chính là sự phát
triển không ngừng của nền sản xuất vật chất xã hội, trong đó lực lượng sản xuất trở
thành yếu tố cơ bản có ý nghĩa quyết định. Đương nhiên, tương ứng với trình độ của


lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể luôn xác lập các quan hệ sản xuất
nhất định, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội. Phép biện chứng của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là động lực cơ bản của sự vận động lịch sử, là nguồn
gốc sâu xa của các cuộc cách mạng xã hội đưa đến sự chuyển biến từ hình thái kinh
tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Nhìn nhận tiến trình của xã
hội loài người như một dòng chảy lịch sử - tự nhiên của sự phủ định biện chứng giữa các
hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen xác định mỗi hình thái kinh tế - xã hội,
với quá trình phát sinh, phát triển và bị thay thế của nó, đánh dấu một thời đại lịch sử. Ph.
Ăngghen từng nhấn mạnh: “Trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản
xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định, đã
cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ
của thời đại, cái cơ sở mà chỉ xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử "
(1)
.
(1
)
C. Mác, Ph. Ănghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội. 1995, T. 21, tr. 523.
1
Quan niệm thời đại của các nhà kinh điển mácxít được hiểu theo nghĩa rộng bao
hàm quá trình kéo dài hàng nhiều thế kỷ của các hình thái kinh tế - xã hội. Theo đó, nhân
loại đã, đang và sẽ trải qua 5 thời đại lịch sử là: thời đại nguyên thuỷ, thời đại chiếm hữu
nô lệ, thời đại phong kiến, thời đại tư bản chủ nghĩa và thời đại của chủ nghĩa cộng sản.
Kế thừa và phát triển lý luận mácxít về thời đại, V.I. Lênin quy về hiểu theo nghĩa hẹp,
chia mỗi thời đại lớn theo cách phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội của Mác và Ăngghen
thành nhiều thời đại nhỏ, tương ứng với từng giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nằm trong
một hình thái kinh tế - xã hội, các thời đại nhỏ có sự khác nhau về đặc điểm, động lực, tính
chất, nội dung và phương hướng vận động.
Việc xây dựng nhận thức về thời đại trên nền tảng học thuyết mácxít về các hình
thái kinh tế - xã hội và với quan niệm của V.I. Lênin về thời đại là một cách tiếp cận chân
xác và khoa học. Với tính cách một khái niệm triết học, thời đại là một phạm trù cơ bản

của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với tính cách một phạm trù lịch sử, thời đại là một giai
đoạn lịch sử được phân biệt với các giai đoạn lịch sử khác bởi đặc điểm bối cảnh, mâu
thuẫn, động lực, nội dung, tính chất và phương hướng vận động cơ bản. Cách tiếp cận
mácxít về thời đại cũng vạch rõ một trong những tiêu chí cơ bản hàng đầu để nhận biết
một thời đại cụ thể là xác định giai cấp nào đứng ở vị trí trung tâm của lịch sử, có vai trò
chủ yếu quyết định lôgíc vận động của xã hội loài người và mâu thuẫn giữa giai cấp đó
với giai cấp đối kháng với nó tạo thành động lực chủ yếu thúc đẩy sự vận động của thời
đại.
Dựa trên quan niệm mácxít về thời đại, hoàn toàn có thể khẳng định: Cách
mạng XHCN Tháng Mười Nga nổ ra thắng lợi ngày 7/11/1917 đã đánh dấu bước đột phá
vĩ đại mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Lênin từng chỉ rõ:
“Chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được bắt đầu
xây dựng nhà nước Xô-viết và do đó mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời
đại thống trị của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở
khắp nơi đều đang tiến tới một cuộc đổi mới, tới chỗ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chỗ
thành lập chuyên chính vô sản, tới chỗ giải phóng khỏi ách tư bản, khỏi những cuộc chiến
tranh đế quốc chủ nghĩa”. Với tầm vóc lịch sử lớn lao đó, cách mạng Tháng Mười không
chỉ làm đảo lộn sâu sắc bức tranh toàn cảnh nền chính trị thế giới đương đại, mà còn đặt
nền móng hiện thực cho xu hướng đi lên CNXH như một tất yếu khách quan, không thể
bị đảo ngược. Hơn 9 thập niên đã trôi qua, mặc dù thế giới luôn vận động thăng trầm
phức tạp; song lý tưởng và con đường Cách mạng Tháng Mười vẫn ngời sáng, định
hướng cuộc đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của các dân tộc vì
những mục tiêu mang tính thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã phá tan mắt khâu yếu nhất của hệ thống
đế quốc thế giới, mở đầu thời đại mới với sự xác lập của hình thái kinh tế - xã hội xã hộ
chủ nghĩa như cấu thành vật chất cơ bản. Từ sau Cách mạng Tháng Mười, CNXH được
xây dựng, củng cố ở nước Nga và Liên Xô; sau đó được mở rộng thành hệ thống thế giới.
Đồng thời, Cách mạng Tháng Mười lan toả ảnh hưởng sâu rộng đến các dân tộc thuộc
địa, thức tỉnh và tiếp thêm sức mạnh cho họ trong cuộc đấu tranh vì nền độc lập dân tộc.
Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc từ sau chiến tranh thế giới thứ hai liên tiếp giành

thắng lợi, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa - một vết nhơ của văn minh nhân loại, vốn tồn
tại gần nửa thiên niên kỷ; khai sinh một thực thể quốc tế mới, bao gồm hơn một trăm
quốc gia đang phát triển mới giành được độc lập dân tộc. Phong trào đấu tranh vì hòa
2
bình, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội cũng được đẩy mạnh trên toàn thế giới. Trước
sức tiến công của các lực lượng cách mạng này vào CNTB, sự quá độ lên CNXH của thời
đại ngày nay được kiểm chứng về mặt lịch sử như những bước vận động hiện thực.
Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc liên tục bị tấn công từ nhiều phía, phải chịu
nhiều thất bại nặng nề và đã hơn một lần lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Dù có điều chỉnh
mạnh mẽ không chỉ cơ cấu sản xuất, cơ chế bóc lột và công nghệ thống trị như thế nào,
song CNTB cũng không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn gay gắt vốn có trong lòng
nó mà trước hết là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa tính chất xã hội hoá ngày
càng phát triển cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân TBCN về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Bởi vậy, ngay cả khi chế độ
XHCN ở Đông Âu và Liên Xô không còn nữa, thì từ trong lòng các nước tư bản, hàng
loạt học giả liên tiếp đưa ra các luận cứ, sự kiện gián tiếp phủ định CNTB, bằng cách dự
báo sẽ có “sự chia tay đau đớn” với CNTB để tiến sang một xã hội mới của “làn sóng thứ
ba”, hoặc “hậu tư bản”. Thực tiễn thế giới “sau Liên Xô” đã không hề vận động theo
đường hướng như F. Fykuyma trông đợi về một thắng lợi hoàn toàn và vĩnh viễn của
CNTB đối với CNXH. “Sự kết thúc của lịch sử” đã không diễn ra ở CNTB trong tư cách
một xã hội đạt tới “tột đỉnh” của văn minh loài người. CNTB vẫn ra sức duy trì sự tồn tại
của mình trước tình thế đã thực sự ngày càng chín muồi các tiền đề đòi hỏi phải thay thế
nó, theo quy luật lịch sử, bằng một chế độ xã hội mới công bằng và nhân đạo là CNXH.
Những rung chuyển và chuyển động mang tầm vóc thời đại hơn 9 thập niên sau Cách
mạng tháng Mười vừa là những tiền đề, vừa là những bước vận động thực tế của lịch sử
hướng tới tương lai của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Thời đại quá độ lên CNXH được mở ra từ Cách mạng tháng Mười là thời đại của
giai cấp công nhân và với giai cấp công nhân đứng ở vị trí trung tâm của sự vận động
lịch sử, theo quan điểm Leenin, mới chỉ "mở đầu", hoặc đang "tiến tới”. Tính chất quá
độ này của thời đại mới được Lênin lĩnh hội và quán triệt ngày càng sâu sắc trong lãnh

đạo cách mạng XHCN ở nước Nga và trên thế giới. Thời đại là cả một thời gian lịch sử
dài hàng trăm năm. Với CNTB đã là vậy, với CNXH càng như vậy. Tiến trình cách
mạng đi lên xây dựng thành công CNXH - một sự nghiệp vĩ đại, chưa từng có tiền lệ -
với mục tiêu thủ tiêu chế độ người bóc lột người, sự bất bình đẳng xã hội, tiến tới giải
phóng giai cấp, giải phóng nhân loại thì tất yếu sẽ không chỉ có thuận lợi, mà còn xuất
hiện những thời kỳ khó khăn, trắc trở, thoái trào. Lênin từng viết: “Sự xuất hiện một
giai cấp mới trên vũ đài lịch sử với tư cách là người lãnh đạo xã hội, không bao giờ diễn
ra mà lại không có một thời kỳ “tròng trành” hết sức dữ dội, một thời kỳ chấn động, đấu
tranh và bão táp, đó là một mặt; mặt khác, không bao giời diễn ra mà không có một thời
kỳ mà mẫm, thí nghiệm, do dự, ngả nghiêng trong việc lựa chọn những phương pháp
mới đáp ứng đúng với tình thế khác quan mới”. Quan điểm được Lênin nhắc lại nhiều
lần là: nếu hình dung lịch sử như một con đường thẳng tắp trơn tru, không có những
bước gập ghềnh, khúc khuỷu, quanh co, không có những thất bại tạm thời, thậm chí
những bước lùi đôi khi rất lớn thì không khoa học, không biện chứng, không đúng về
mặt lý luận.
Nhãn quan biện chứng nêu trên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng khi nhận thức về vận
mệnh lịch sử của CNXH và thời đại ngày nay. Quá độ từ CNTB lên CNXH là một quá
trình lịch sử lâu dài, gồm nhiều thời kỳ vận động dích dắc, phức tạp. Từ nhận thức này nhất
thiết phải đoạn tuyệt với những ảo tưởng giản đơn trước đây để không nóng vội, chủ
3
quan; đồng thời cũng không hoài nghi, dao động, bi quan trước những biến động đổ vỡ
và bước thoái trào tạm thời của CNXH giai đoạn hiện nay. Cũng chính trên quan điểm
tiếp cận đó, đồng thời kiên định quan điểm Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ (1991), văn kiện Đại hội IX của Đảng ta đã khẳng định: “CNXH trên thế giới, từ
những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân
tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch
sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”.
Với chặng đường chỉ mới hơn 9 thập niên, thời đại lớn quá độ từ CNTB lên
CNXH, theo lôgic biện chứng của lịch sử, nhất định sẽ còn trải qua những thời kỳ vận
động khác nhau, phụ thuộc những bước tiến triển sau này của lịch sử. Tuy nhiên, cho đến

nay, có thể chia thời đại ngày nay thành 3 thời kỳ (thời đại nhỏ) kể từ cột mốc Cách mạng
tháng Mười năm 1917: Thời kỳ thứ nhất (1917-1945) là thời kỳ cách mạng XHCN thắng
lợi ở một nước; chế độ XHCN được xây dựng và củng cố; phong trào giải phóng dân tộc
phát triển rộng khắp và chiến thắng của loài người tiến bộ đôí với chủ nghĩa phát xít.
Thời kỳ thứ hai (1945 - 1991) là thời kỳ CNXH trở thành hệ thống thế giới; phong trào
giải phóng dân tộc phát triển thành cao trào; đồng thời cũng dần dần xuất hiện những khó
khăn và sai lầm, thậm chí ngày càng nghiêm trọng khiến CNXH lâm vào khủng hoảng
kéo dài, chế độ XHCN sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô. Thời kỳ thứ ba (từ sau 1991) là
thời kỳ các nước XHCN và phong trào cộng sản quốc tế (PTCSQT) khắc phục khủng
hoảng, thoái trào để từng bước hồi phục, cải cách, đổi mới và phát triển.
Mặc dù thế giới đã trải qua những biến động rất sâu sắc sau thất bại lớn của
CNXH, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất và nội dung của thời đại ngày nay.
Đó vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười
Nga. Vận động trong những điều kiện lịch sử mới, với những đặc điểm mới khác về cơ
bản so với trước năm 1991, thời đại quá độ vẫn tiếp tục hướng tới mục tiêu đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, gắn liền với cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, đang tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật ngày càng đầy đủ
cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn hiện nay của thời đại, được tính từ sau năm 1991, chứa đựng nhiều bước
vận động quanh co, phức tạp của lịch sử. Nhìn từ nền tảng vật chất, kỹ thuật của xã hội
loài người, giai đoạn này được đặc trưng bằng sự phát triển mang tính bùng nổ của cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, từng bước hình thành nền kinh tế tri thức, toàn cầu
hoá nổi lên trong tư cách một xu thế chủ đạo tác động nhiều chiều đến đời sống quốc tế.
Từ góc độ chính trị quốc tế, giai đoạn hiện nay của thời đại là giai đoạn đấu tranh giai cấp
và đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra gay gắt, phức tạp với những hình thức biểu hiện mới.
Lợi dụng ưu thế trong so sánh lực lượng, CNTB, chủ nghĩa đế quốc ráo riết chống phá
phong trào cách mạng thế giới nhằm tái lập sự thống trị toàn cầu của tư bản độc quyền
quốc tế. Các quốc gia dân tộc trên thế giới đang triển khai hàng loạt cuộc đấu tranh chống
cường quyền đế quốc, chống tự do hoá tư bản chủ nghĩa, tư bản tài chính lũng đoạn,
chống độc quyền tư bản toàn cầu, chống toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa… với nhiều hình

thức phong phú.
PTCSQT đã có bước phục hồi và củng cố nhất định. CNXH tiếp tục được xây
dựng ở nhiều nước, ngày càng tỏ rõ khả năng tự đổi mới để phát triển, có thêm sinh lực
mới thông qua cải cách, đổi mới. Các ĐCS từng bước xác lập lại vai trò, vị trí trong đời
sống chính trị ở các nước thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu, ở các nước tư bản phát triển và
4
các nước đang phát triển á - Phi - Mỹ Latinh. Bước phát triển mới của trào lưu cánh tả
Mỹ Latinh nhiều năm qua đã trở thành một hiện tượng nổi bật trong thực tiễn chính trị
thế giới thời kỳ sau chiến tranh lạnh và đang tạo ra chuyển biến có lợi cho cuộc đấu tranh
vì dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội ở khu vực cũng như trên thế giới. Tuy PTCSQT
vẫn chưa hoàn toàn vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng bắt đầu từ cuối thập niên 80 của thế
kỷ XX và hiện còn đứng trước nhiều khó khăn thử thách nan giải, song phong trào vẫn
tiếp tục hiện diện trong tư cách một lực lượng tiên phong đấu tranh vì những mục tiêu
thời đại. Nhìn tổng quát, trong giai đoạn lịch sử hiện nay, thế giới từ diện mạo bề ngoài
cho đến những tầng sâu bên trong của nó đã và đang bộc lộ thêm nhiều đặc điểm mới, thể
hiện qua sự vận động của CNTB, CNXH, PTCS và công nhân quốc tế, phong trào độc
lập dân tộc và hệ thống các mâu thuẫn lớn của thế giới đương đại.
Từ sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh đến nay, thế giới nổi lên các đặc điểm chủ yếu
sau:
Một là: Cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra nhanh, mạnh, đạt được những kỳ
tích, tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Điểm
nổi bật của cách mạng khoa học và công nghệ là từ phát minh chuyển hóa thành công nghệ
và đưa nó vào sản xuất không tách rời nhau về không gian và thời gian, ngày càng thống
nhất trong một quá trình. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại chủ yếu diễn ra
trên 4 lĩnh vực sau đây: khoa học và công nghệ sinh học, khoa học và công nghệ về sức
bền, khoa học và công nghệ về năng lượng, khoa học và công nghệ về thông tin.
Cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra lực lượng sản xuất mới làm thay đổi căn
bản cơ cấu kinh tế, tác động sâu sắc đến các nước đang phát triển và các nước đang xây
dựng CNXH. Một mặt nó tạo cho các nước nói trên cơ hội rút ngắn khoảng cách về trình
độ phát triển đối với các nước phát triển thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng

phương thức mới. Mặt khác, cách mạng khoa học và công nghệ cũng tạo ra thách thức lớn.
Đó là do từ trình độ khoa học, công nghệ lạc hậu hàng thế kỷ bắt kịp trình độ thế giới
không phải vấn đề đơn giản. Hơn nữa những thành tựu khoa học công nghệ chủ yếu lại do
các nước tư bản phát triển chi phối, mà mục đích chuyển giao công nghệ của các nước này
là lợi nhuận kinh tế và lợi ích chính trị chứ không vì mục đích nào khác. Tình hình trên đây
đòi hỏi các nước XHCN và các nước đang phát triển phải có chiến lược khoa học, công
nghệ đúng đắn.
Hai là: Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, nhưng đang bị CNTB chi
phối. Toàn cầu hóa kinh tế là hệ quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
đặc biệt là công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa là một quá trình phức tạp đầy mâu thuẫn,
chứa đựng cả mặt tích cực cả mặt tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với sự phát triển
của các quốc gia, trong đó các nước đang phát triển phải chịu những thách thức gay gắt
hơn cả. Toàn cầu hóa làm tăng tính phụ thuộc của các nước nghèo vào các nước giàu về
vốn, công nghệ, thị trường. Các nước đang phát triển đứng trước những thách thức lớn
trong cuộc cạnh tranh kinh tế toàn cầu ngày càng gay gắt. Toàn cầu hóa tác động tiêu cực
vào quyền lực nhà nước dân tộc, chủ quyền quốc gia, bản sắc dân tộc. Các thế lực tư bản
độc quyền, đặc biệt là tư bản độc quyền Mỹ, đã lợi dụng toàn cầu hóa để bành trướng thế
lực, thực hiện chủ nghĩa bá quyền.
Ba là: Đấu tranh giai cấp và xung đột dân tộc, tôn giáo tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó
lường, tiếp tục diễn ra gay gắt. Sau các sự kiện ở Đông Âu, Liên Xô đấu tranh giai cấp và
đấu tranh dân tộc không kết thúc mà tiếp tục diễn ra gay go, quyết liệt dưới những hình
5
thức mới, tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. Đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gay
go, phức tạp bởi hai lý do chính: Một là, lợi dụng việc Liên Xô và các nước XHCN Đông
Âu sụp đổ, CNXH lâm vào thoái trào, chủ nghĩa đế quốc chuyển từ thế thủ sang thế công.
Chúng tăng cường chống phá độc lập dân tộc và CNXH bằng nhiều thủ đoạn như bao vây
cấm vận kinh tế, diễn biến hòa bình, gây bạo loạn, lật đổ, trực tiếp gây chiến tranh xâm
lược. Hai là, cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa do CNTB chi phối không
làm giảm mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa các nước tư bản phát triển và các nước
đang phát triển mà còn làm cho các mâu thuẫn ấy sâu sắc thêm.

Đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc có những biểu hiện mới. Đó là phong trào
đấu tranh chống các chính sách của chủ nghĩa tự do mới; phong trào "chống toàn cầu hóa"
đang lôi cuốn hàng triệu người tham gia. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh không chỉ là yêu
cầu cải thiện đời sống, bảo đảm an sinh xã hội, chống tư hữu hóa ồ ạt, mà còn là hòa bình,
dân chủ, chống chiến tranh, chống áp bức dân tộc, bảo vệ môi trường
Bốn là: Nhân loại đứng trước những vấn đề toàn cầu hóa hết sức bức xúc phải có sự
hợp tác đa phương để giải quyết. Đó là các vấn đề bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ
dân số, đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế, chống chiến tranh
hạt nhân
Năm là: Quan hệ giữa các nước lớn là nhân tố rất quan trọng đối với sự phát triển
của thế giới. Nước lớn là nước có sức mạnh tổng hợp quốc gia vượt trội trong cộng đồng
thế giới. Vì vậy, các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn chi phối rất mạnh mẽ đối với
sự phát triển của tình hình thế giới. Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức,
Italia, Canada, ấn Độ chiếm 1/3 diện tích, hơn 1/2 dân số và 70% GDP của thế giới. Đây là
các cường quốc kinh tế, khoa học, quân sự, tài chính, chính trị mà không quốc gia nào
trong hoạch định chiến lược phát triển không thể không tính đến. Tất cả quan hệ hợp tác,
liên minh, mâu thuẫn, xung đột, phân chia ảnh hưởng giữa các nước lớn tác động trực tiếp
đến lợi ích quốc gia và quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, ảnh hưởng của các nước lớn đến các
nước, nhóm các nước không cố định mà thường xuyên biến đổi tùy theo sự thay đổi tương
quan lực lượng, theo sự biến đổi chính trị, xã hội của mỗi nước ở những thời điểm cụ thể.
Thực tiễn vận động của lịch sử mười năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu
của thế kỷ XXI còn cho thấy những mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay vẫn còn
nguyên vẹn trong giai đoạn hiện nay, cho dù tình hình đã có những thay đổi trong từng mặt
đối lập cấu thành mâu thuẫn, trong hình thức biểu hiện và mức độ gay gắt của nó. Các mâu
thuẫn đó là:
* Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Đây là mâu thuẫn cơ bản
xuyên suốt của thời đại trong tiến trình vận động của lịch sử nhân loại xét cả từ góc độ lý
luận thực tiễn. Đây là mâu thuẫn giữa hai hình thái kinh tế - xã hội mang bản chất đối lập
nhau không thể điều hòa được. Vì vậy cho dù chủ nghĩa xã hội dù bị đổ vỡ một bộ phận,
không còn là một hệ thống nhưng vẫn còn tồn tại các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt hệ

tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trong niềm tin của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trên thế giới. Vấn đề "ai thắng ai" giữa CNXH và CNTB vẫn tiếp tục hiện diện
như là một vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh hiện nay trên thế giới.
* Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chủ
nghĩa tư bản không thể tồn tại nếu không duy trì bóc lột giá trị thặng dư đối với giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Mặc dù chủ nghĩa tư bản đã có sự ổn định tạm thời và
phát triển do nắm bắt và làm chủ cách mạng khoa học và công nghệ, có những điều
6
chỉnh mới trong phương thức thống trị và bóc lột giá trị thặng dư một cách tinh vi và
thực thi chính sách phân tầng dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu giai cấp công nhân
nhưng những mâu thuẫn giữa công nhân và tư bản không vì lẽ đó mà giảm sút hoặc đã
mất đi. Mâu thuẫn giữa tư bản và công nhân vẫn là mâu thuẫn cơ bản tồn tại. Nó đang
có nguy cơ bùng phát khi thất nghiệp tăng lên, khi chủ nghĩa tư bản hiện đại và các
công ty xuyên quốc gia thực hiện sự áp đặt, khống chế đối với giai cấp công nhân và
nhân dân lao động các nước.
* Mâu thuẫn giữa các nước đang phát triển và chậm phát triển với các nước tư bản
phát triển trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, ổn định, phát triển đang có nguy
cơ ngày càng trở nên gay gắt hơn. Thế kỷ XX đã qua đi, đánh dấu sự toàn thắng của cách
mạng giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa tư bản hiện đại không còn
hệ thống thuộc địa. Chủ nghĩa thực dân cũ đã bị loại bỏ hoàn toàn. Chủ nghĩa thực dân mới
đã bị đánh sập một bước quan trọng. Các dân tộc đã giành được độc lập dân tộc ở những
mức độ khác nhau. Tuy nhiên, sau năm 1991, cục diện thế giới đã thay đổi căn bản, so
sánh lực lượng trở nên có lợi hơn đối với CNTB, CNĐQ, bất lợi đối với CNXH và các lực
lượng cách mạng tiến bộ. Mỹ mưu toan sắp đặt lại trật tự thế giới do Mỹ làm bá chủ. Đặc
biệt, sau sự kiện 11/9/2001 Mỹ tăng cường việc tập hợp các nước lớn, tiến hành điều chỉnh
chiến lược, tự cho phép "đánh đòn phủ đầu" tất cả các quốc gia dân tộc nào không theo cái
gậy chỉ huy của Mỹ. Quan hệ giữa các dân tộc trên những nguyên tắc đã được thiết lập
nhiều năm trước đây đã bị phá vỡ. Hòa bình, độc lập dân tộc, không can thiệp vào công
việc ội bộ vì sự phát triển của mỗi quốc gia đã bị xâm phạm. Mâu thuẫn giữa các dân tộc
với chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt và tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường.

* Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau trong giai đoạn hiện nay của thời đại
vẫn là mâu thuẫn cơ bản đang tồn tại. Đây là mâu thuẫn nảy sinh một cách tất yếu do quy
luật tự do cạnh tranh kiểu cá lớn nuốt cá bé và do sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư
bản. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc Mỹ đang mưu toan làm bá chủ thế giới bất chấp luật
pháp quốc tế đã làm các nước đế quốc khác bất bình. Đặc biệt chính sách cường quyền
ngạo mạn, áp đặt của Mỹ trong chủ trương "đánh đòn phủ đầu" không chỉ đe dọa độc lập
dân tộc của các nước đang phát triển, chậm phát triển mà còn đe dọa chính các nước tư bản
phát triển khác. Với việc tự cho phép mình chạy đua vũ trang Mỹ đã làm cho mâu thuẫn
giữa các nước đế quốc có nguy cơ tăng lên. Con đường giải quyết mâu thuẫn giữa các
nước lớn trước mắt bằng thương lượng song phương hoặc đa phương đã có những lúc lâm
vào bế tắc do mâu thuẫn quyền lợi của các nước lớn. Các tập đoàn tư bản độc quyền lũng
đoạn xuyên quốc gia tiếp tục theo đuổi lợi nhuận tối đa, ra sức cạnh tranh và đấu tranh gay
gắt với nhau. Ba trung tâm kinh tế tư bản hàng đầu là Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản gia tăng
cạnh tranh ảnh hưởng, giành gật thị trường. Nhiều cuộc chiến tranh thương mại, những
căng thẳng về lợi ích giữa các nước tư bản đế quốc đã nổ ra tác động sâu rộng đến thế giới.
Điều nhân loại đang chăm chú dõi theo những diễn biến giữa các cường quốc đế quốc là
đây là các cường quốc hạt nhân và các quốc gia có một nền kinh tế mạnh. Ngăn chặn chiến
tranh đế quốc trở thành một đòi hỏi cấp bách của nhân loại tiến bộ.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay của thời đại đang nổi lên một mâu thuẫn giữa
một bên là các thế lực cực đoan nhất, hiếu chiến nhất của chủ nghĩa đế quốc bá quyền
ngạo mạn, áp đặt với một bên là các lực lượng đấu tranh chống lại các thế lực đó vì hòa
bình, độc lập dân tộc, ổn định và phát triển bền vững cho sự tiến bộ xã hội và phẩm giá
con người. Đây là xu thế tất yếu của sự tập hợp lực lượng rộng rãi phát huy tinh thần đấu
7
tranh quyết liệt, liên tục, sáng tạo để ngăn chặn, làm thất bại tính chất hiếu chiến, áp đặt,
ngạo mạn của chủ nghĩa đế quốc cường quyền.
Nhận thức đúng đắn những đặc điểm mới và những biểu hiện mới trong các mâu
thuẫn cơ bản trong giai đoạn hiện nay của thời đại là một nhiệm vụ cấp thiết của công tác
lý luận hiện nay ở nước ta, để từ đây có thể lựa chọn đường lối, chính sách và những
phương sách hành động thích hợp, đưa sự nghiệp cách mạng nước nhà tiến lên phía trước

theo những mục tiêu phù hợp với xu thế không thể đảo ngược của thời đại mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn.
Việt Nam thực hiện các cuộc cải cách thể chế chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN, thúc đẩy nền dân chủ XHCN phát triển là tất yếu và là một nhiệm vụ trọng tâm trong
công cuộc đổi mới, cải cách, hiện đại hóa của các nước XHCN hiện nay, trong đó có VN. Dân
chủ hóa là mục tiêu và động lực phát triển của CNXH.
Kết luận: Qúa độ lên CNXH vẫn là con đường tất yếu và thời đại ngày nay là thời
đại đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
8
Câu 2. Hãy phân tích nội dung sau đây trong Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản VN:
"Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa
bình, thuận lợi cho đẩy mạnh CNH-HĐH, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị
thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới"
(Đảng CSVN: Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB
Chính trị QG Hà Nội 2011).
Trong thời kỳ đổi mới, việc xác định mục tiêu đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn dựa trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, đồng thời quan tâm đúng mức đến
nghĩa vụ quốc tế của Đảng với tư cách một đảng cộng sản cầm quyền. Đối với Việt Nam
hiện nay, lợi ích quốc gia dân tộc cơ bản và cao nhất về đối ngoại là giữ vững hoà bình để
phát triển. Do đó, mục tiêu đối ngoại là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình
thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Giữ vững hòa bình, tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi, một mặt sẽ góp phần bảo
vệ độc lập, chủ quyền an ninh quốc gia, mặt khác tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ, hợp
tác của quốc tế cho sự phát triển của đất nước. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để Việt
Nam nâng cao uy tín quốc tế, đồng thời đóng góp nhiều hơn đối với phong trào cách
mạng thế giới.

Tư tưởng chỉ đạo và nguyên tắc đối ngoại
Xuất phát từ lợi ích và mục tiêu đối ngoại đã được xác định, Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại là giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ
nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện
và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực,
phù hợp với từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ. Trước những diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới sau sự kiện 11-9-2001, Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) đã bổ sung và
làm sâu sắc thêm tư tưởng chỉ đạo đối ngoại với quan điểm: trong bất kỳ tình huống nào
cũng tránh không để rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc, củng cố hoà bình, an ninh, tạo
môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước.
Đại hội X của Đảng tiếp tục làm sâu sắc thêm tư tưởng chỉ đạo đối ngoại với việc
khẳng định quan điểm: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình
và hợp tác phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan
hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc
tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
1
. Quan điểm của Đại
hội X được Đại hội XI của Đảng kế thừa, bổ sung và phát triển toàn diện hơn khi xác định:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tỏc và phát
triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng
cao vị thế của đất nước; vỡ lợi ích quốc gia, dõn tộc, vỡ một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giầu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xó hội trờn
1
ng C ng s n Vi t Nam: Đả ộ ả ệ V n ki n i h i i bi u to n qu c l n th Xă ệ Đạ ộ đạ ể à ố ầ ứ , Nxb CTQG, H. 2006, tr.112
9
thế giới”
2
. Quán triệt các quan điểm nêu trên là cơ sở quan trọng để bảo vệ lợi ích quốc gia,

dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết là giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền
quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Việt Nam có thể tiếp tục mở rộng
quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế quốc tế, tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài như:
vốn đầu tư, khoa học - công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, phục vụ cho xây
dựng và phát triển kinh tế- xã hội, bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở thế và lực mới của đất nước, Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn
mạnh quan điểm tăng cường sự chủ động, tích cực của Việt Nam đối với quá trình hội
nhập quốc tế ngày càng đầy đủ và toàn diện, không chỉ hội nhập trong lĩnh vực kinh tế,
mà còn trong các lĩnh vực khác. Việt Nam cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong
việc tham gia giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế, từ đó có thể đóng vai trò là thành
viên tích cực của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn dựa trên
sự kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hòa bình, độc lập, thống
nhất và chủ nghĩa xã hội, bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên hàng
đầu. Cụ thể hóa nguyên tắc này, Đảng và Nhà nước Việt Nam nêu 4 nguyên tắc đối ngoại
chủ yếu: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau. Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong
quan hệ quốc tế. Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà
bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Trong giai đoạn hiện nay, Việt
Nam xác định rõ cơ sở của sự hợp tác là hợp tác bỡnh đẳng, cùng có lợi với tất cả các
nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp
quốc tế
3
.
Nhiệm vụ đối ngoại
Trong suốt thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định một cách
nhất quán nhiệm vụ đối ngoại, mà nội dung cơ bản của nó tiếp tục được khẳng định lại
trong văn kiện Đại hội XI là: “Giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh

vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”
4
. Nhiệm vụ này chỉ
rõ yêu cầu đối với công tác đối ngoại trước hết phải bảo vệ được lợi ích dân tộc, tạo được
môi trường hòa bình để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ Tổ quốc. Song, đặt cao lợi ích dân tộc không có nghĩa từ bỏ chủ nghĩa quốc tế
chân chính, mà còn góp phần thực hiện nghĩa vụ quốc tế của Đảng, Nhà nước Việt Nam
trong điều kiện và khả năng thích hợp đối với các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế
giới, đấu tranh vì những mục tiêu mang tính thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Đại hội XI cũng nêu rõ một số nhiệm vụ cụ thể trong công tác đối ngoại:
- Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế
vào chiều sâu toàn diện, ổn định, bền vững.
- Chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế.
2
ng C ng s n Vi t Nam: Đả ộ ả ệ V n ki n i h i i bi u to n qu c l n th XIă ệ Đạ ộ đạ ể à ố ầ ứ , Nxb CTQG, H. 2011, tr.83-84
3
ng C ng s n Vi t Nam: Đả ộ ả ệ V n ki n i h i i bi u to n qu c l n th XIă ệ Đạ ộ đạ ể à ố ầ ứ , Nxb CTQG, H. 2011, tr.84
4
ng C ng s n Vi t Nam: Đả ộ ả ệ V n ki n i h i i bi u to n qu c l n th XIă ệ Đạ ộ đạ ể à ố ầ ứ , Nxb CTQG, H. 2011, tr.236
10
- Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các
cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên
tiến.
- Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi
ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến
chương Liên hợp quốc.
- Thực hiện tốt các công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc. Tích cực
hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những thách thức an ninh phi
truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu.

- Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phũng, an ninh.
- Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về
vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu, hành động
can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại
Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
Thực chất phương châm này là nhằm xử lý mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và
đoàn kết quốc tế trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam. Đối ngoại phục vụ lợi ích chân
chính của dân tộc và đó cũng là cách thực hiện tốt nhất nghĩa vụ quốc tế, là sự đóng góp
đối với sự nghiệp cách mạng thế giới. Lợi ích cao nhất của dân tộc mà cũng là của Đảng
Cộng sản Việt Nam là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, ra sức phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu nước
mạnh, giữ vững độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Kiên trì sự nghiệp đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành tựu quan trọng đạt được trong phát triển
kinh tế-xã hội, ổn định chính trị vững chắc, phát triển lý luận về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự đóng góp hiệu quả, thiết thực nhất của Đảng và nhân dân
Việt Nam đối với cách mạng thế giới, nhất là trong bối cảnh phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế và chủ nghĩa xã hội đang đứng trước những khó khăn, thử thách lớn trong
thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Trong khi tập trung nỗ lực tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, thì Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng xác định rõ phải
luôn coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa, phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào độc lập dân tộc, với phong trào không
liên kết và các lực lượng hoà bình, tiến bộ khác trên thế giới, theo khả năng thực tế của
đất nước, phù hợp với sự chuyển biến của tình hình thế giới. Đảng luôn kiên định quan
điểm coi cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại. Đó là nhân tố làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương

hoá quan hệ đối ngoại.
Đây là sự phát triển sáng tạo bài học của cách mạng Việt Nam về kết hợp giữa sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế trong điều
kiện lịch sử mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh, độc lập tự chủ, tự lực tự cường, phát huy
sức mạnh bên trong là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là điều kiện
11
để mở rộng và nâng cao uy tín quốc tế của đất nước. Mặt khác, Đảng cũng khẳng định
độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, mà đồng thời đa dạng hoá, đa phương hoá quan
hệ quốc tế để mở rộng quan hệ đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa các
điều kiện bên ngoài thuận lợi cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Điều đó là
tuyệt đối cần thiết đối với Việt Nam, một nước tiếp tục kiên định con đường đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã sụp đổ.
Sự kiên định độc lập tự chủ, tự lực tự cường là vấn đề có tính nguyên tắc để mở
rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, tránh được những tình
huống bất lợi về đối ngoại, củng cố và nâng cao vị thế đất nước ở khu vực cũng như trên
thế giới. Đối với Việt Nam hiện nay, sự kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc và yếu tố truyền
thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên trở thành một vấn đề có tính tất yếu.
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế
Trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng
hóa, Việt Nam đứng trước những cơ hội mới, song nguy cơ và thách thức từ bên ngoài
cũng gia tăng. Do đó, cần phải nhận thức đúng và nắm vững vấn đề hợp tác và đấu tranh,
coi đây là hai mặt gắn bó hữu cơ của quan hệ quốc tế, phải hết sức tránh hợp tác một
chiều hoặc đấu tranh một chiều.
Trong phương châm nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh, Đảng Cộng sản Việt
Nam nhấn mạnh một nhận thức mới, đó là đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp tác, tránh trực
diện đối đầu, không để cho các thế lực thù địch đẩy vào thế bị cô lập, đặc biệt là tránh bị
xung đột quân sự hoặc bị khiêu khích vũ trang. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh
còn nhằm tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ được, phân hoá và thu hẹp đến mức
có thể đối với các thế lực thù địch hoặc không thân thiện. Tiêu chí để xác định hướng hợp

tác hay đấu tranh chính là lợi ích dân tộc chân chính.
Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Phương châm này thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam
mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần vào hoà bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên
thế giới. Việt Nam đặc biệt chú trọng hợp tác khu vực, nhất là đối với các nước láng
giềng nhằm tạo một môi trường hoà bình, ổn định lâu dài chung quanh đất nước. Việc tạo
lập được mối quan hệ hợp tác trên cơ sở tùy thuộc lẫn nhau về an ninh cũng như về phát
triển với các nước trong khu vực sẽ là bảo đảm hết sức quan trọng nhằm xác lập một vị
thế có lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ quốc tế.
Cùng với việc đặt cao quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng và khu
vực, Đảng và Nhà nước Việt Nam đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng quan
hệ với tất cả các nước, đặc biệt là các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn vì đó là những
lực lượng ảnh hưởng quan trọng đến an ninh và phát triển của khu vực và của Việt Nam.
Bốn phương đối ngoại nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xử lý các
mối quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Xử lý đúng các mối quan hệ quốc
tế sẽ tạo nên sự thông suốt trong tư tưởng và thành công trong hành động. Ngược lại, nếu
xử lý không đúng sẽ gây lúng túng trong hoạt động đối ngoại cụ thể, gây ảnh hưởng tiêu
cực tới công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành tựu
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã thu được
nhiều thành tựu hết sức quan trọng, thể hiện trên các vấn đề lớn như sau:
Thứ nhất, đã đẩy lùi được chính sách cô lập về chính trị, bao vây về kinh tế đối với
12
nước ta, đồng thời mở rộng quan hệ với các quốc gia, kể cả các nước lớn và các trung
tâm hàng đầu thế giới. Trong giai đoạn từ 1986-1995, thông qua các hoạt động ngoại
giao tích cực như: phối hợp với tất cả các bên để đi tới một giải pháp chính trị cho vấn đề
Campuchia. Việc ký Hiệp định về Campuchia (10-1991) đã chấm dứt tình trạng căng
thẳng, đối đầu giữa Việt Nam với một số nước lợi dụng vấn đề Campuchia để bao vây, cô
lập Việt Nam, góp phần khai thông quan hệ giữa Việt Nam với thế giới bên ngoài; đẩy
mạnh các hoạt động ngoại giao, trong đó có chuyến thăm không chính thức Trung Quốc

của đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam (1990), Việt Nam và Trung
Quốc đã bình thường hóa quan hệ vào tháng 11-1991; chủ động khôi phục và mở rộng
quan hệ với các nước ASEAN; đấu tranh đòi Mỹ phá bỏ cấm vận và tiến tới bình thường
hóa quan hệ với Việt Nam… Có thể nói, việc xác định đúng khâu then chốt là vấn đề
Campuchia và với các bước đi cụ thể, tích cực, đến năm 1995, Việt Nam đã phá thế bị
bao vây, cấm vận, cô lập, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước và các tổ chức quốc
tế. Riêng năm 1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 7 của ASEAN, ký
Hiệp định khung với EU, bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Đến năm 1996, Việt Nam có
quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, trong đó có quan hệ với tất cả các nước lớn trên
thế giới, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước và vùng lãnh thổ, các công ty của hơn 50
nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Thứ hai, đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển
kinh tế - xã hội. Thông qua các hoạt động ngoại giao cụ thể, tích cực, đặc biệt là chú
trọng tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác chủ chốt, thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc
tế, bắt đầu hội nhập chặt chẽ vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã tranh thủ
được nguồn ngoại lực to lớn phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Cho đến năm
2013, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 179 nước, có quan hệ kinh tế - thương mại
với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, trong đó đã ký Hiệp định thương mại song phương
với trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2013, tổng kim ngạch ngoại thương của
Việt Nam đã 132,135 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần GDP. Nguồn FDI vào Việt Nam không
ngừng tăng. Hiện nay, có hơn 16 nghìn dự án FDI được cấp phép với tổng số vốn đăng
ký là trên 244 tỷ USD. Riêng năm 2013, tổng số vốn FDI vào Việt Nam là 22,35 tỷ USD.
Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của các nước và các tổ chức tài chính quốc tế
cung cấp cho Việt Nam vẫn tiếp tục tăng với tổng số vốn cam kết trên 33 tỷ USD.
Thứ ba, giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đồng
thời từng bước giải quyết được nhiều vấn đề về biên giới trên bộ và trên biển với các
nước có liên quan, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để quản lý biên giới, bảo vệ
chủ quyền, mở rộng hợp tác quốc tế, góp phần củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực.
Cho đến nay, thông qua các hoạt động ngoại giao, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp
định biên giới trên bộ và hoàn thành việc phân giới cắm mốc trên bộ; ký Hiệp định phân

định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá Vịnh Bắc Bộ; ký Thỏa thuận về các nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển. Công tác phân giới cắm mốc giữa Việt Nam
với Lào và Campuchia đang được tích cực triển khai trên cơ sở những Hiệp định biên
giới đã ký kết. Ngoài ra, Việt Nam đã ký các thỏa thuận song phương về hợp tác giải
quyết vùng chồng lấn trên biển với từng nước trong khu vực như với Malaixia,
Inđônêxia, Philíppin, Thái Lan trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc mở rộng và tăng cường hợp tác.
Thứ tư, có những đóng góp tích cực, đầy tinh thần trách nhiệm và mang tính xây
13
dựng cho xu thế hòa bình, hợp tác. Thông qua các hoạt động cụ thể như tổ chức thành
công nhiều hội nghị quốc tế: Hội nghị cấp cao Pháp ngữ, Hội nghị cấp cao ASEM,
APEC; Chủ tịch luân phiên của ASEAN năm 2010, Ủy viên không thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, thành viên Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp
quốc nhiệm kỳ 2014-2017…, Việt Nam đã tham gia giải quyết nhiều vấn đề lớn của thế
giới và khu vực. Với những đóng góp tích cực, đầy tinh thần trách nhiệm và mang tính
xây dựng (đặc biệt sáng kiến của Việt Nam về “Xây dựng niềm tin chiến lược” tại Diễn
đàn an ninh Shanggrila năm 2013), tiếng nói của Việt Nam được cộng đồng quốc tế coi
trọng, lắng nghe, qua đó mà không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và
trên trường quốc tế.
Hạn chế
Một là, yếu kém trong công tác nghiên cứu cơ bản và dự báo chiến lược. Công tác
này trong những năm qua tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng tốt yêu cầu, có
lúc còn thiếu tính chủ động, thiếu sự phối hợp điều hành thống nhất.
Hai là, chưa đưa các quan hệ được thiết lập đi vào chiều sâu, bền vững. Cho đến
nay, Việt Nam đã mở rộng được đáng kể quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ (quan hệ
ngoại giao với 179 nước, quan hệ kinh tế - thương mại với trên 200 nước và vùng lãnh
thổ, quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước) nhưng chưa đưa mối quan hệ đó vào phát
triển chiều sâu, bền vững do chưa xây dựng được các khuôn khổ quan hệ hoặc chưa cụ
thể hóa các thỏa thuận đã ký kết.
Ba là, những hạn chế trong công tác chỉ đạo, quản lý. Trong những năm qua, hoạt

động đối ngoại là khá sôi động, song không ít các hoạt động tính hiệu quả thấp, thậm chí
còn gây lãng phí. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, sự quản lý công tác đối ngoại
trong nhiều trường hợp vẫn còn thiếu nhịp nhàng, ăn khớp…
14
Câu 3. Hãy phân tích nội dung sau đây trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản VN: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
VN XHCN giàu mạnh" (Đảng CSVN: Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB Chính trị QG Hà Nội 2011).
Đường lối, đối ngoại của một nhà nước, quốc gia là tổng thể các quan điểm xác định
mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại mà quốc
gia đó thể hiện trong quan hệ với các nhà nước, quốc gia và các chủ thể khác trong quan hệ
quốc tế nhằm mục đích thực hiện thắng lợi những lợi ích của quốc gia, dân tộc và của giai cấp
cầm quyền trong từng giai đoạn lịch sử. Như vậy, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam là hệ thống quan điểm về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, phương
châm chỉ đạo hoạt động của nước ta với bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi những lợi ích
quốc gia, dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục
tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã thông qua đường lối đổi mới toàn diện,
trong đó có đổi mới lĩnh vực hoạt động đối ngoại. Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam thời kỳ đổi mới được hoạch định trên những cơ sở chủ yếu sau đây:
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
Trong quá trình hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, coi đây là cơ sở lý luận và là vấn đề có tính nguyên tắc, bởi vì:
- Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng. Những nội dung có tính khoa học, cách mạng trong học thuyết
Mác-Lênin được Đảng chú trọng nghiên cứu và vận dụng sáng tạo trong bối cảnh thế giới

mới và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
- Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống các quan điểm về đường lối
chiến lược và sách lược đối với các vấn đề quốc tế và quan hệ quốc tế, được thể hiện trên
các vấn đề lớn, mang tính chiến lược như:
Một là, độc lập dân tộc
Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Ba là, ngoại giao công tâm
Bốn là, ngoại giao hòa hiếu với các dân tộc khác
Năm là, ngoại giao dĩ bất biến, ứng vạn biến
Tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong nước
Những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thử thách to
lớn: khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nền kinh tế nhiều năm tăng trưởng âm và siêu lạm
phát (1986: 774,7%; 1987: 223,1%; 1988: 393,8%) khiến cho đời sống nhân dân hết sức
khó khăn. Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam bị bao vây, cấm vận về kinh tế, bị cô lập về
chính trị. Đây là thời kỳ khó khăn nhất của nước ta kể từ ngày thống nhất đất nước.
Trong bối cảnh đó, Đại hội VI của Đảng thông qua đường lối đổi mới toàn diện, trong đó
15
xác định rõ: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền
đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp
theo. Với chủ trương đó, Đại hội đã xác định nhiệm vụ có tính cấp bách trước mắt là giải
phóng sức sản xuất, tập trung phát triển kinh tế - xã hội để nhanh chóng thoát ra khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá thế bị bao vây, cấm vận, cô lập và mở rộng quan
hệ đối ngoại.
Những Đại hội sau đó xác định nhiệm vụ cơ bản, lâu dài là sớm đưa Việt Nam
thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Là một bộ phận hợp thành đường lối chung của Đảng Cộng sản Việt Nam, đường
lối đối ngoại của Đảng phải góp phần đưa đất nước vượt qua những khó khăn thách thức

đang đặt ra nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng được hoạch định nhằm
tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, kết hợp một cách có hiệu quả sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, phục vụ mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, dân giàu
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tình hình khu vực và thế giới
Tình hình thế giới và khu vực từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay nổi lên
một số đặc điểm và xu thế vận động chủ yếu tác động đến việc hoạch định đường lối đối
ngoại của Việt Nam, cụ thể như sau:
Thứ nhất, sự thay đổi của cục diện thế giới và môi trường an ninh chính trị quốc tế
sau Chiến tranh lạnh.
Cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở
các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Liên Xô tan rã, trật tự thế giới hai cực chấm
dứt đã làm đảo lộn các quan hệ liên minh kinh tế, chính trị, quân sự được thiết lập
trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Tương quan lực lượng thế giới cũng có sự thay đổi
nghiêng hẳn về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn thời đại giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục tồn tại, song không còn là nhân tố duy nhất chi
phối quan hệ quốc tế cũng như việc tập hợp lực lượng giữa các nước trên thế giới.
Trong thời kỳ quá độ hình thành trật tự thế giới mới, tất cả các nước trên thế giới
tuy ở các mức độ khác nhau đều đứng trước những thách thức mới như: xung đột khu
vực, mâu thuẫn quốc gia, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; hố ngăn cách giàu - nghèo Bắc -
Nam; sự bất bình đẳng trong quan hệ giữa các nước; nhu cầu phát triển kinh tế và ổn định
chính trị ở mỗi nước; hoạt động ngày càng tăng của chủ nghĩa khủng bố Ngoài ra, giữa
các nước lớn, các trung tâm kinh tế mới trỗi dậy còn diễn ra cuộc đấu tranh tranh giành
vai trò chủ đạo trong trật tự thế giới mới.
Đứng trước những vấn đề nêu trên, các nước trên thế giới thời kỳ sau Chiến tranh
lạnh đều tập trung ưu tiên nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội ở trong nước,
đồng thời đấu tranh để tạo lập môi trường quốc tế và khu vực hòa bình, ổn định, giành lấy
những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của đất nước mình. Do đó, hòa bình, ổn
định, hợp tác để phát triển trở thành xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc

gia trên thế giới trong giai đoạn hiện nay của thời đại.
Thứ hai, sự phát triển của khoa học, công nghệ và quá trình toàn cầu hóa.
16
Sự phát triển khoa học và công nghệ đã và đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và quan hệ quốc tế. Ngày nay, thế giới trong kỷ nguyên cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại là toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa trước hết là toàn cầu hóa
về kinh tế, trở thành một quá trình khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia.
Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa được thực hiện bởi các nhân tố chủ quan mà lợi thế
thuộc về các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ. Với sức mạnh kinh tế, khoa học và công
nghệ, thị trường vốn, lao động và hàng hóa,… các nước phát triển thông qua các công cụ
của mình là các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia để phục vụ lợi ích riêng của mình, gây
bất lợi cho các nước nghèo, các nước đang phát triển. Chính vì vậy, đối với đại bộ phận
các nước trên thế giới, toàn cầu hóa là quá trình luôn chứa đựng tính hai mặt: thuận lợi và
khó khăn, thời cơ và thách thức, tích cực và tiêu cực, hợp tác và đấu tranh.
Thứ ba, đấu tranh giai cấp, dân tộc có xu hướng ngày càng tăng; xung đột dân tộc,
sắc tộc, tôn giáo diễn biến phức tạp nguy cơ khó lường.
Sau Chiến tranh lạnh, môi trường an ninh toàn cầu tiếp tục có những xáo trộn và bất
ổn định lớn. Tuy hòa bình, hợp tác và phát triển trở thành xu thế lớn của thế giới thời kỳ
sau Chiến tranh lạnh, song đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra gay gắt dưới
nhiều hình thức mới. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, những bất ổn do mâu thuẫn
dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố xảy ra ở
nhiều nơi, nhất là tại khu vực các nước đang phát triển. Toàn bộ tình hình trên tác động
trực tiếp đến đời sống quan hệ quốc tế hiện đại, đòi hỏi các nước phải có cách tiếp cận phù
hợp để bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, trước hết là bảo vệ nền độc lập,
duy trì định hướng phát triển đã lựa chọn, hội nhập quốc tế một cách hiệu quả.
Thứ tư, sự cạnh tranh gay gắt của các nước lớn
Một đặc điểm nổi lên của thế giới thời kỳ sau Chiến tranh lạnh là các nước lớn và
quan hệ giữa các nước lớn trở thành nhân tố cực kỳ quan trọng tác động đến sự phát triển
thế giới. Thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, cùng với xu thế hòa bình, hợp tác vì phát triển,
các nước lớn, một mặt, thường thỏa hiệp với Mỹ để tìm tiếng nói chung nhằm tăng cường

hợp tác; mặt khác, lại đấu tranh gay gắt với nhau nhằm giành lấy những điều kiện thuận
lợi nhất cho phát triển cũng như khẳng định vị thế của nước mình trong trật tự thế giới
mới đang trong quá trình hình thành, chống tham vọng thiết lập trật tự thế giới đơn cực
do Mỹ lãnh đạo.
Thứ năm, nhiều vấn đề mang tính toàn cầu nổi lên, tác động lớn đến đời sống quan
hệ quốc tế.
Nhân loại ngày nay đang đối phó với nhiều vấn đề mang tính toàn cầu cấp bách mà
không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương.
Đây cũng là nguyên nhân khách quan của xu thế hòa bình, hợp tác cùng phát triển của
đời sống quan hệ quốc tế hiện nay.
Thứ sáu, tình hình khu vực Đông Á.
Đông Á là khu vực rộng lớn, bao gồm 11 quốc gia nhưng lại rất chênh lệch về diện
tích, dân số, nhất là trình độ phát triển kinh tế cũng như khác nhau về chế độ chính trị, bản
sắc văn hóa và tôn giáo; có nhiều cường quốc hàng đầu và cũng là nơi có vị thế địa chiến
lược quan trọng của thế giới. Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, Đông Á trở thành khu vực
phát triển năng động, góp phần vào sự phát triển chung của thế giới, đồng thời cũng là nơi
diễn ra sự tranh giành ảnh hưởng một cách quyết liệt giữa các nước lớn. Những biến đổi
sâu sắc của môi trường địa - chính trị và địa - kinh tế tại Đông Á từ sau Chiến tranh lạnh
17
đã mở ra một không gian phát triển mới cho khu vực và tạo nên vị thế mới của Đông Á
trong quan hệ quốc tế. Vai trò của Đông Á trong quan hệ quốc tế ngày càng quan trọng
hơn, xét trên cả hai phương diện: chính trị - an ninh và kinh tế.
Tuy nhiên, tình hình an ninh chính trị Đông Á tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản và các thực thể quyền lực khác đã tạo nên cục diện ganh đua
quyết liệt, tập hợp lực lượng, hòa hoãn, liên kết đa phương đa diện, cạnh tranh và hợp tác
hết sức năng động, tùy thuộc lẫn nhau vô cùng sâu sắc, tồn tại nhiều yếu tố có khả năng
gây mất ổn định, đòi hỏi phải có sự tham gia mạnh mẽ của các nước liên quan để giải
quyết. Đáng chú ý nhất là chương trình hạt nhân của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên và những mâu thuẫn, xung đột chủ quyền ở biển Đông và biển Hoa Đông
Truyền thống ngoại giao của dân tộc

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ cha ông chúng ta
đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm đối ngoại quý báu mà Đảng cần quán triệt và vận
dụng nó trong điều kiện mới. Đó là nền ngoại giao luôn:
- Giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia;
- Ngoại giao vì hòa bình, hòa hiếu, hữu nghị, khoan dung;
- Ngoại giao rộng mở, biết tiếp thu thành tựu văn minh nhân loại để phát triển;
- Ngoại giao với tinh thần chủ động, khôn khéo, sáng tạo, linh hoạt…
Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới được hình thành qua một quá trình, bắt nguồn từ Đại
hội VI của Đảng (12-1986) và tiếp tục được bổ sung, phát triển, hoàn thiện ở các Đại hội Đảng tiếp
theo đó. Có thể chia quá trình này thành hai giai đoạn sau:
Giai đoạn từ Đại hội VI của Đảng (12-1986) đến Đại hội VII (6-1991)
Đây là giai đoạn hình thành đường lối đối ngoại đổi mới, thể hiện qua các Văn
kiện sau:
- Đại hội VI của Đảng (12-1986) khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, đồng thời cũng mở đầu quá trình hình thành chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới.
Đại hội xác định nhiệm vụ hàng đầu là: “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Để góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ này, Đảng ta, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, đã nhấn
mạnh sự cần thiết phải đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại thêm
bạn, bớt thù; phá thế bị bao vây, cấm vận; mở rộng quan hệ quốc tế, theo đó, phương
hướng đối ngoại được xác định là:
+ Phát triển và củng cố quan hệ hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia, trên cơ
sở tôn trọng độc lập chủ quyền mỗi nước;
+ Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam;
+ Sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc, tiến tới bình thường hóa quan hệ;
+ Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.
- Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (5-1988) là bước ngoặt, có tính đột phá
về đổi mới tư duy đối ngoại, đánh dấu sự hình thành bước đầu chính sách đối ngoại đa

phương hóa, đa dạng hóa. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị có cách nhìn nhận mới về vấn
đề an ninh. Đảng xác định nhiệm vụ đối ngoại chuyển từ chỗ chú trọng nhân tố chính trị -
quân sự sang ưu tiên cho nhân tố kinh tế, ưu tiên giữ vững hòa bình, độc lập dân tộc, có
cách tiếp cận toàn diện hơn về tình hình thế giới và khu vực. Để thực hiện thắng lợi
18
nhiệm vụ này, Đảng ta triển khai chính sách đối ngoại “thêm bạn, bớt thù”, nhấn mạnh
chủ trương phát triển quan hệ với tất cả các nước có chế độ chính trị khác nhau trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau…
- Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989) là sự phát triển tiếp theo của đổi mới tư
duy đối ngoại. Hội nghị đã nhận thức nhiều vấn đề đối ngoại cần phải giải quyết, trong đó
một lần nữa tái khẳng định: Đối ngoại phải chuyển từ chính trị - an ninh là chủ yếu sang
chính trị - kinh tế là chủ yếu; thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc;
xác định lộ trình cải thiện quan hệ với các nước ASEAN; xác định lộ trình rút quân khỏi
Campuchia; tiếp cận lộ trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ…
- Đại hội VII của Đảng (6-1991) là bước phát triển mới trong việc hình thành
chính sách đối ngoại đổi mới. Đại hội xác định nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hòa
bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên tinh thần đó, Đại hội đề ra chủ trương mở rộng
quan hệ đối ngoại, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt
chế độ chính trị khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Cũng tại Đại
hội này, lần đầu tiên Đảng đưa ra phương châm chiến lược trong chính sách đối ngoại
“Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”
5
, đồng thời khẳng định chính sách đối ngoại hòa bình, độc
lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Nhà nước Việt Nam.
Giai đoạn từ sau Đại hội VII (6-1991) đến nay
Đây là giai đoạn tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới,
cụ thể như sau:

- Khẳng định mục tiêu của đối ngoại là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (1992) đã nêu ra 4 phương châm chỉ
đạo, xử lý các vấn đề quốc tế: một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần
nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; hai là, giữ
vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại; ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; bốn là, tham
gia hợp tác với các nước trong khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước,
chú trọng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn. Bốn phương châm này
được xem là cẩm nang trong xử lý các vấn đề đối ngoại cho mọi cấp, mọi ngành và mọi
địa phương.
- Đại hội VIII của Đảng (6-1996) tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đối ngoại
đổi mới. Trên cơ sở thế và lực mới của nước ta, Đại hội lần đầu tiên nêu nhiệm vụ hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo hướng “xây dựng nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đây là điểm khởi đầu quan trọng cho một chủ
trương đối ngoại lớn và xuyên suốt của Đảng là hội nhập kinh tế quốc tế (và đến nay là
hội nhập quốc tế). Đại hội này cũng đồng thời tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng là bạn với
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
- Đại hội IX của Đảng (4-2001) bổ sung làm rõ thêm chính sách đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tại Đại hội này,
lần đầu tiên Đảng đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.147.
19
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
- Đại hội X (4-2006) của Đảng tiếp tục bổ sung chính sách đối ngoại thời kỳ đổi
mới với tuyên bố: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”; “Đưa các quan hệ quốc

tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững”
6
. Đại hội cũng bổ sung quan điểm
hội nhập quốc tế với chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
- Đai hội XI của Đảng (1-2011), chính sách đối ngoại tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.
Tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng xác định mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là “vì lợi
ích quốc gia, dân tộc”. Như vậy, lợi ích quốc gia dân tộc là tiêu chí hàng đầu để xác định
hợp tác và đấu tranh, là đối tác và đối tượng. Cũng tại Đại hội này, trên cơ sở thế và lực
mới của Việt Nam trên trường quốc tế, Đảng đưa ra chủ trương “chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế…”
7
. Như vậy, Đảng đã chuyển nội dung trọng tâm của đối ngoại từ hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực kinh tế sang hội nhập quốc tế một cách toàn diện. .
Nội dung của chính sách
Kế thừa và phát triển tư tưởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại của các Đại hội trước
đó, Văn kiện Đại XI nêu rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh”
8
, theo đó, tư tưởng chỉ đạo thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển.
Thứ hai, triển khai chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế, thể hiện ở các đối tác quan hệ, các lĩnh vực và các kênh quan
hệ.
Thứ ba, trong quan hệ quốc tế, Việt Nam luôn là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, thể hiện vai trò, vị trí và trách nhiệm của Việt

Nam trong các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Khi nói đến “Việt Nam là
bạn”, chúng ta mới thể hiện ở quan hệ hữu nghị với tất cả các nước; còn “Việt Nam là đối
tác”, chúng ta đã thể hiện bằng quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực với các nước nhằm
hướng tới mục tiêu chung; còn đề cập đến vấn đề “là thành viên có trách nhiệm” khẳng
định cách hành xử có trách nhiệm của nước ta với cộng đồng quốc tế, thực hiện các nghĩa
vụ và có đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và thế giới.
Thứ tư, mục tiêu hàng đầu của hoạt động đối ngoại là vì lợi ích quốc gia dân tộc.
Lợi ích quốc gia dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc cao nhất của đối ngoại. Đối
ngoại vì lợi ích quốc gia dân tộc thể hiện qua các nhiệm vụ như: đoàn kết dân tộc, tập
hợp lực lượng đông đảo người Việt Nam trong và ngoài nước vì mục tiêu bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước; đoàn kết
quốc tế, tác động tích cực tới nỗ lực tập hợp lực lượng quốc tế của Việt Nam vì mục tiêu
6
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, tr.112.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, tr.236.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, tr.235-236.
20
hòa bình, hợp tác và phát triển; nâng cao uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng
định mục tiêu, lý tưởng của Đảng là vì lợi ích quốc gia dân tộc.
Phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại
Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
Thực chất phương châm này là nhằm xử lý mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và
đoàn kết quốc tế trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam. Đối ngoại phục vụ lợi ích chân
chính của dân tộc và đó cũng là cách thực hiện tốt nhất nghĩa vụ quốc tế, là sự đóng góp
đối với sự nghiệp cách mạng thế giới. Lợi ích cao nhất của dân tộc mà cũng là của Đảng
Cộng sản Việt Nam là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, ra sức phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu nước

mạnh, giữ vững độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Kiên trì sự nghiệp đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành tựu quan trọng đạt được trong phát triển
kinh tế-xã hội, ổn định chính trị vững chắc, phát triển lý luận về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự đóng góp hiệu quả, thiết thực nhất của Đảng và nhân dân
Việt Nam đối với cách mạng thế giới, nhất là trong bối cảnh phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế và chủ nghĩa xã hội đang đứng trước những khó khăn, thử thách lớn trong
thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Trong khi tập trung nỗ lực tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, thì Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng xác định rõ phải
luôn coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa, phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào độc lập dân tộc, với phong trào không
liên kết và các lực lượng hoà bình, tiến bộ khác trên thế giới, theo khả năng thực tế của
đất nước, phù hợp với sự chuyển biến của tình hình thế giới. Đảng luôn kiên định quan
điểm coi cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại. Đó là nhân tố làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ đối ngoại.
Đây là sự phát triển sáng tạo bài học của cách mạng Việt Nam về kết hợp giữa sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế trong điều
kiện lịch sử mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh, độc lập tự chủ, tự lực tự cường, phát huy
sức mạnh bên trong là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là điều kiện
để mở rộng và nâng cao uy tín quốc tế của đất nước. Mặt khác, Đảng cũng khẳng định
độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, mà đồng thời đa dạng hoá, đa phương hoá quan
hệ quốc tế để mở rộng quan hệ đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa các
điều kiện bên ngoài thuận lợi cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Điều đó là
tuyệt đối cần thiết đối với Việt Nam, một nước tiếp tục kiên định con đường đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã sụp đổ.
Sự kiên định độc lập tự chủ, tự lực tự cường là vấn đề có tính nguyên tắc để mở
rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, tránh được những tình

huống bất lợi về đối ngoại, củng cố và nâng cao vị thế đất nước ở khu vực cũng như trên
thế giới. Đối với Việt Nam hiện nay, sự kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc và yếu tố truyền
thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên trở thành một vấn đề có tính tất yếu.
Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế
21
Trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng
hóa, Việt Nam đứng trước những cơ hội mới, song nguy cơ và thách thức từ bên ngoài
cũng gia tăng. Do đó, cần phải nhận thức đúng và nắm vững vấn đề hợp tác và đấu tranh,
coi đây là hai mặt gắn bó hữu cơ của quan hệ quốc tế, phải hết sức tránh hợp tác một
chiều hoặc đấu tranh một chiều.
Trong phương châm nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh, Đảng Cộng sản Việt
Nam nhấn mạnh một nhận thức mới, đó là đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp tác, tránh trực
diện đối đầu, không để cho các thế lực thù địch đẩy vào thế bị cô lập, đặc biệt là tránh bị
xung đột quân sự hoặc bị khiêu khích vũ trang. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh
còn nhằm tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ được, phân hoá và thu hẹp đến mức
có thể đối với các thế lực thù địch hoặc không thân thiện. Tiêu chí để xác định hướng hợp
tác hay đấu tranh chính là lợi ích dân tộc chân chính.
Bốn là, tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nước.
Phương châm này thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam
mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần vào hoà bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên
thế giới. Việt Nam đặc biệt chú trọng hợp tác khu vực, nhất là đối với các nước láng
giềng nhằm tạo một môi trường hoà bình, ổn định lâu dài chung quanh đất nước. Việc tạo
lập được mối quan hệ hợp tác trên cơ sở tùy thuộc lẫn nhau về an ninh cũng như về phát
triển với các nước trong khu vực sẽ là bảo đảm hết sức quan trọng nhằm xác lập một vị
thế có lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ quốc tế.
Cùng với việc đặt cao quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng và khu
vực, Đảng và Nhà nước Việt Nam đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng quan
hệ với tất cả các nước, đặc biệt là các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn vì đó là những
lực lượng ảnh hưởng quan trọng đến an ninh và phát triển của khu vực và của Việt Nam.

Bốn phương đối ngoại nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xử lý các
mối quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Xử lý đúng các mối quan hệ quốc
tế sẽ tạo nên sự thông suốt trong tư tưởng và thành công trong hành động. Ngược lại, nếu
xử lý không đúng sẽ gây lúng túng trong hoạt động đối ngoại cụ thể, gây ảnh hưởng tiêu
cực tới công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phương hướng hoạt động đối ngoại chủ yếu hiện nay
- Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới, trước hết
là với các nước láng giềng, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước trong khu vực và các tổ
chức quốc tế, chú trọng đưa các quan hệ đối tác đã được thiết lập đi vào chiều sâu, xây
dựng các mối quan hệ thực chất, ổn định lâu dài.
- Củng cố quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào
độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới; tiếp tục mở rộng quan hệ với các
đảng cầm quyền và các đảng lớn trên thế giới.
- Thúc đẩy quan hệ với các nước phát triển, các nước bạn bè truyền thống
- Phát triển công tác ngoại giao nhân dân theo phương châm: “chủ động, linh hoạt,
sáng tạo và hiệu quả”.
- Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Kiên quyết làm
thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân
quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, đe dọa đến an
ninh và sự ổn định chính trị của Việt Nam.
22
- Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các
nước châu Á - Thái Bình Dương Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin
cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những
thách thức, rủi ro trong điều kiện Việt Nam đã trở thành thành viên Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO).
- Đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp
tác, tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình
độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.

- Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia
và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại
giao nhân dân; ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; đối ngoại,
quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước, tạo nên sức mạnh
tổng hợp phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thành tựu
Triển khai thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã giành
được những thành tựu rất quan trọng, giữ vững môi trường hòa bình, quan hệ đối ngoại
không ngừng được mở rộng, vị thế và ảnh hưởng của đất nước ngày càng được nâng cao
trên trường quốc tế, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việt Nam ngày càng chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, góp phần
thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 177 nước, trong đó bao gồm tất cả
các nước lớn, có quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên
chính thức của tất cả các tổ chức quốc tế lớn, các tổ chức và định chế thương mại, tài
chính chủ chốt ở khu vực cũng như trên thế giới: gia nhập ASEAN (1995), tham gia
AFTA (từ 1996), là thành viên sáng lập ASEM (1996), gia nhập APEC (1998) và trở
thành thành viên thứ 150 của WTO (2006) Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh
tế được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm thúc đẩy. Đến năm 2012, Việt Nam đã thu
hút được gần 10 nghìn dự án FDI với tổng số vốn đăng ký vượt trên 180 tỷ USD. Bên
cạnh các thị trường chủ lực là Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Liên minh
châu Âu (EU), Hoa Kỳ, Ôxtrâylia, hiện nay hàng hóa Việt Nam đã vươn ra củng cố thế
đứng trên nhiều thị trường khác như Nga, Trung Đông, Mỹ Latinh và châu Phi
Hoạt động ngoại giao đa phương của Việt Nam có bước trưởng thành và phát triển
nổi bật. Tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, Việt Nam đã phối hợp với nhiều nước đấu
tranh bảo vệ hòa bình, bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến
chương Liên hợp quốc. Đặc biệt, Việt Nam được bầu làm ủy viên không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, đánh dấu quá trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam đã trở nên đầy đủ và sâu rộng. Với vị thế quốc tế ngày càng được nâng

cao, Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị-
xã hội, an ninh quốc tế có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp, đồng thời đóng góp tích cực
hơn và nhiều hơn trong nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và phát triển trên thế giới.
Cùng với những hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, hoạt động đối ngoại của
các tổ chức, đoàn thể nhân dân, các địa phương, đối ngoại quốc phòng và an ninh cũng diễn ra
sôi động với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Các tổ chức hữu nghị và các hội nghề nghiệp
23
đã tranh thủ được sự hợp tác ngày càng sâu rộng của các đối tác nước ngoài. Quan hệ đoàn kết
giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới được tăng cường mạnh mẽ. Chưa
bao giờ quan hệ đối ngoại của Việt Nam lại được mở rộng và phát triển như hiện nay.
24
Câu 4: Đồng chí hãy phân tích thực trạng của Phong trào cộng sản quốc tế từ
năm 1991 đến nay và triển vọng của phong trào đến năm 2020.
Từ khi ra đời đến nay, phong trào Cộng sản quốc tế đã có những cống hiến to lớn
đối với tiến trình lịch sử thế giới hiện đại, từng là lực lượng đi đầu và chỗ dựa tin cậy cho
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nhiều đảng cộng sản và công nhân ở các
nước Á - Phi - Mỹ Latinh tích cực tham gia và có đóng góp quan trọng bào phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước mình. Lịch sử đã chứng minh sự đóng góp to lớn của
phong trào Cộng sản quốc tế trong cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới, vì tiến bộ xã
hội. Trong thế kỷ XX, phong trào Cộng sản quốc tế từng là biểu tượng niềm tin của nhân
loại tiến bộ, đồng thời có ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống chính trị thế giới. Tuy
nhiên, từ khoảng giữa những năm 80 của thế kỷ XX, phong trào đã rơi vào khủng hoảng
sâu sắc, toàn diện mà đỉnh điểm là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
Liên Xô. Đã hơn 20 năm kể từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp
đổ, mặc dù có những bước thăng trầm, song trong những năm gần đây phong trào Cộng
sản quốc tế đã có những bước hồi phục nhất định chứng tỏ sức sống của một phong trào
hiện thực, được định hình bằng lý tưởng cách mạng, niềm tin khoa học. Hiện nay, phong
trào Cộng sản quốc tế tuy chưa ra khỏi khủng hoảng, nhưng đã vượt qua được thời kỳ
khó khăn nhất, vẫn là lực lượng chính trị quan trọng đang tiếp tục kiên trì cuộc đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các đảng cộng sản cầm quyền ở

Trung Quốc, Việt Nam, Lào không chỉ trụ vững trước những thử thách khắc nghiệt của
thời cuộc, mà còn lãnh đạo cộng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cải cách đổi mới,
giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, nâng cao được vị thế quốc tế. Những thành tựu cải cách, đổi mới của các nước
xã hội chủ nghĩa là một thực tế sinh động chứng minh cho sức sống và khả năng tự đổi
mới của chủ nghĩa xã hội, là đóng góp quan trọng đối với việc vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Cùng với những thành tựu
của các đảng cầm quyền, phong trào Cộng sản ở các khu vực khác trên thế giới cũng có
những chuyển biến tích cực.
Phong trào cộng sản quốc tế sau chiến tranh lạnh vẫn là một phong trào chính trị
- xã hội hiện thực. Biểu hiện:
- Số lượng đảng viên cộng sản trên thế giới vẫn không ngừng tăng
+ Số lượng đảng viên 1985: 80 triệu
+ Số lượng đảng viên 1991: 50 triệu, sau khi Liên Xô và các nước đông âu sụp đổ
số lượng đảng viên giảm khoảng 30 triệu.
+ Số lượng đảng viên năm 2014 là khoảng 95 triệu.
- Các hình thức hoạt động mang tính phong trào vẫn được duy trì và phát triển.
25

×