Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tài liệu ôn thi môn Kinh tế học có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.84 KB, 19 trang )

Câu 1: Các nguồn lực phát triển kinh tế? Phân tích các nguồn lực nêu trên.
Thực trạng và giải pháp
Hiểu một cách đơn giản, nguồn lực là những thứ cung cấp cho một quốc gia,
một tổ chức hoặc một cá nhân có thể sử dụng, nhằm mục đích làm tăng sự giàu có. Có
khá nhiều quan niệm khác nhau về nguồn lực phát triển do các tác giả trình bày dưới
các cách tiếp cận khác nhau, nhưng về cơ bản chúng đều thống nhất ở những điểm
sau.
Theo Giáo sư, Tiến sỹ Lê Du Phong thì “nguồn lực là tổng hợp các yếu tố vật
thể và phi vật thể tạo nên nền kinh tế của một đất nước và thúc đẩy nó phát triển”.
Các văn kiện đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay tuy đã đề cập đến nguồn lực
nhưng chưa đưa ra khái niệm cho thuật ngữ này. Tuy nhiên, một số nội dung liên quan
đến nguồn lực phát triển đất nước đã được đề cập tới trong các văn kiện đại hội Đảng
như con người, vốn, tài nguyên, đất đai
Có nhiều cách phân loại nguồn lực và cách phân loại theo tính chất nguồn lực
chia nguồn lực thành hai nhóm. Trong đó, nhóm nguồn lực vật chất hay nguồn lực
kinh tế gồm 4 nguồn lực: vốn đầu tư, lao động, tài nguyên thiên nhiên và khoa học
công nghệ.
Sau đây, bài viết sẽ đi vào làm rõ phân tích từng nguồn lực phát triển kinh tế,
thực trạng cũng như giải pháp cho từng nguồn lực
Thứ nhất, nguồn lực vốn
Tiếp cận dưới góc độ nguồn lực, vốn có thể được hiểu là tổng giá trị của đầu tư
để tạo ra tài sản nhằm mục tiêu sinh lời hay để có thêm thu nhập trong tương lai.
Trong nền kinh tế quốc dân, vốn tồn tại dưới hai dạng: vốn hữu hình và vốn vô
hình
- Vốn hữu hình: là vốn được biểu hiện dưới dạng vật chất, giá trị.
- Vốn vô hình: bao gồm các phát minh sáng chế, mẫu, kiểu dáng công nghiệp,
uy tín thương hiệu, lợi thế địa lý
Vốn có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển; chuyển dịch cơ cấu
kinh tế; giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội. Vai trò của vốn đối với tăng trưởng
kinh tế, bao gồm các yếu tố tác động đến tổng cung và tổng cầu, vốn không chỉ bảo
đảm cung cấp các yếu tố đầu vào của sản xuất, mà còn có khả năng cân đối, khả năng


lưu thông, tiêu thụ sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. Do đó, có ý nghĩa quan
trọng đối với tăng trưởng và phát triển.
Nguồn vốn đầu tư có thể huy động thúc đẩy tăng trường phát triển kinh tế là đa
dạng, phong phú song có thể phân chia thành hai nhóm: nguồn vốn trong nước và
nguồn vốn ngoài nước.
- Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước gồm có:
Tiết kiệm của ngân sách nhà nước là phần ngân sách nhà nước dành cho đầu tư
1
phát triển kinh tế - xã hội.
Tiết kiệm của doanh nghiệp là phần lãi sau thuế được các doanh nghiệp dành
cho đầu tư phát triển.
Tiết kiệm của dân cư là phần thu nhập để dành chưa tiêu dùng của các hộ gia
đình.
- Nguồn vốn ngoài nước
Nguồn vốn ngoài nước từ: viện trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI), đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) và viện trợ của các tổ chức phi
chính phủ (NGO)
- ODA: nguồn tài chính do cơ quan chính thức của chính phủ một nước viện trợ
cho các nước đang phát triển nhằm mục đích hỗ trợ, thúc đẩy quá trình phát triển kinh
tế-xã hội của các nước đang phát triển, gồm hai loại: ODA không hoàn lại và ODA có
hoàn lại.
- ODA không hoàn lại: nước tiếp nhận ODA không phải trả bất kỳ một phần giá
trị nào sau khi tiếp nhận ODA
- ODA có hoàn lại: nước tiếp nhận tuy phải hoàn trả gốc và lãi cho nước viện
trợ nhưng được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt như lãi suất vay thấp, thời gian vay dài
và có sự ân hạn.
- Nguồn vốn FDI là nguồn vốn tư nhân nước ngoài đầu tư vào nước khác (nước
tiếp nhận đầu tư) để tiến hành kinh doanh vì mục đích lợi nhuận.
Nguồn vốn FDI ở nước ta bao gồm các hình thức, hợp đồng hợp tác kinh doanh,

doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Nguồn vốn FPI là nguồn vốn do tư nhân cung cấp thông qua mua cổ phiếu,
trái phiếu của nước chủ nhà.
- Nguồn vốn NGO là viện trợ không hoàn lại, chủ yếu viện trợ vật chất có tính
chất nhân đạo như cung cấp thuốc men, lương thực khi các quốc gia gặp thiên tai.
Những kết quả đạt được và hạn chế khi huy động, phân bổ và sử dụng vốn
đầu tư:
Thời gian qua, Việt Nam huy động được cả lượng vốn trong và ngoài ngước
ngày càng lớn đáp ứng yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế, trong đó vốn trong
nước ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng lớn; từng bước hình thành và phát triển thị
trường vốn đáp ứng yêu cầu huy động vốn, cơ chế, chính sách được xây dựng và hoàn
thiện bước đầu đáp ứng yêu cầu huy động các nguồn vốn phục vụ mục tiêu tăng
trưởng, phát triển kinh tế-xã hội. Chúng ta đã từng bước đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư
phát triển các ngành, vùng, thành phần kinh tế, đẩy mạnh tăng trưởng cao, liên tục và
ổn định trong nhiều năm. Từng bước xây dựng cơ chế, hoàn thiện chính sách về phân
bổ vốn đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, VN vẫn chưa huy động tổng lực và hiệu quả các nguồn vốn đầu tư
đáp ứng nhu cầu phagts triển nhanh và bền vững; năng lực sử dụng vốn hạn chế; đầu
tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả vốn đầu tư chưa cao; phân bổ, sử
2
dụng vốn đấu tư còn bị thất thoát, lãng phí; chưa xây dựng cơ chế, chính sách hữu hiệu
đap ứng yêu cầu huy động, sử dụng và quản lý hiệu quả nguồn vốn ngoài nước, nhất là
vốn ODA, FDI, đảm bảo c hủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững
nền kinh tế.
- Những giải pháp cơ bản để huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội nước ta
Để huy động sử dụng vốn đầu tư phát triển có hiệu quả, cần phải thực hiện đồng
bộ các giải pháp sau.
Một là, tạo môi trường khuyến khích và nâng cao hiệu quả đầu tư
Môi trường đầu tư được hệ thống pháp trong đó có luật đầu tư luật và chính

sách của Nhà nước, phải công bằng, hợp lý và bảo đảm thực thi trong thực tiễn đối với
mọi thành phần kinh tế.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, bảo đảm cho mọi hoạt động của
nền kinh tế đều tuân theo các qui luật vốn có của nó.
Tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư phát huy tính năng động, sáng tạo,
mạnh dạn ứng dụng công nghệ mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và có lợi
nhuận hợp lý.
Hai là, phát triển thị trường tài chính
Phát triển thị trường tài chính đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội
nhập kinh tế quốc tế, cần phải:
Củng cố và nâng cao năng lực kinh doanh và sức cạnh tranh của các trung gian
tài chính với các hình thức đa dạng, thích hợp .
Phát triển các loại dịch vụ mới phù hợp của các trung gian tài chính và đa dạng
hoá các sản phẩm tài chính.
Phát triển đồng bộ thị trường tài chính, ưu tiên phát triển thị trường vốn trung
hạn dài hạn và đảm bảo sự vận hành an toàn, lành mạnh, hiệu quả và thực hiện giám
sát hoạt động của thị trường tài chính thông qua hệ thống pháp luật và hiệu lực quản lý
vĩ mô của Nhà nước.
Từng bước mở cửa thị trường tài chính nước ta, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ
Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát
lạm phát,thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển.
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế theo hướng thuế và phí là nguồn thu chủ yếu
của ngân sách nhà nước, nên phải nuôi dưỡng nguồn thu, khuyến khích sản xuất, bảo
đảm công bằng xã hội.
Đổi mới chính sách chi ngân sách trên nguyên tắc tiết kiệm chi hợp lý từng
bước giảm bội chi ngân sách.
Tăng cường quản lý nợ, nhất là nợ nước ngoài.
3

Bốn là, nâng cao hiệu quả các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
Nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, cần thực hiện các
biện pháp sau:
Xác định đúng chủ trương đầu tư, vì sai lầm trong chủ trương đầu tư là một
trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến đầu tư không hiệu quả.
Quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư từ khi chuẩn bị đầu tư, quá trình thực hiện đầu
tư, kiểm tra đánh giá chất lượng dự án, nghiệm thu đưa dự án vào khai thác, sử dụng.
Công khai hoá vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Hai, nguồn lực lao động
Nguồn lực lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi có khả năng lao động được
pháp luật quy định, thực tế đang làm việc và những người đang tích cực tìm kiếm việc
làm.
Nước ta, độ tuổi lao động được pháp luật quy định là đủ tuổi 15 đến 55 tuổi là
nữ và 60 tuổi là nam.
- Vai trò nguồn lực lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
Trong mọi quá trình phát triển của xã hội loài người, lao động luôn đóng góp
vai trò quyết định sự phát triển. Vai trò đó được thể hiện ở khía cạnh sau:
Nguồn lực lao động là nhân tố quyết định việc tổ chức khai thác, cải tạo, sử
dụng có hiệu quả và phát triển các nguồn lực khác của quá trình phát triển kinh tế - xã
hội.
Nguồn lực lao động là một trong những yếu tố cơ bản '' đầu vào" của quá trình
sản xuất. Chi phí nguồn lực lao động trở thành yếu tố cấu thành giá trị hàng hóa và là
bộ phận cấu thành mức tăng trưởng của nền kinh tế.
Nguồn lao động vừa là yếu tố "đầu vào" của quấ trình sản xuất, vừa là người
tham gia tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ của xã hội. Như vậy, với tư cách là bộ
phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn lao động trở thành nhân tố tạo cầu
của nền kinh tế. Nguồn lực lao động khác với các nguồn lực khác là vừa tham gia tạo
cung, tạo cầu, vừa trực tiếp điều tiết quan hệ gắn bó với chủ thể kinh tế - xã hội do con
người tạo ra.
Trong nền kinh tế công nghiệp, nền kinh tế tri thức, nguồn lao động chất lượng

cao là nhân tố quyết định. Đảng và nhà nước ta khẳng định mục tiêu và động lực phát
triển kinh tế - xã hội là vì con người và do con người.
b- Đặc điểm và thực trạng nguồn lực lao động nước ta
Nguồn lực lao động nước ta có các đặc điểm sau:
- Chất lượng nguồn lực lao động thấp
Chất lượng nguồn lực lao động ở nước ta rất thấp so với yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội và so với các nước trên thế giới và khu vực.
Trước hết là sự thấp kém về thể chất, sức khỏe, độ dẻo dai trong quá trình lao
động công nghịêp.
4
Tỷ lệ lao động được đào tạo so với tổng số lao động còn rất thấp so với mục tiêu
đề ra, do yêu cầu của kinh tế và càng rất thấp so với các nước trên thế giới và khu vực.
Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, chất lượng đào tạo chưa cao, đào tạo chưa gắn với
nhu cầu xã hội nên dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu.
ý thức, kỷ cương, kỷ luật và tính cộng đồng trong tập thể lao động chưa cao,
không tạo được sức mạnh tập thể, nên năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất kinh
doanh kém.
Cơ chế chính sách chưa hợp lý, nên không khuyến khích được tính năng động,
sáng tạo của đội ngũ lao động gây lãng phí chất xám.
- Một bộ phận khá lớn lực lượng lao động chưa có việc làm hoặc việc làm lao
động chưa thường xuyên
Việc làm là nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi người, vì việc làm giúp cho
bản thân có thu nhập và việc làm tạo điều kiện để hoàn thiện, phát triển nhân cách con
người, lành mạnh hóa quan hệ xã hội. Tuy nhiên, việc làm còn phụ thuộc vào quy mô,
trình độ phát triển của nền kinh tế và các yếu tố chính trị xã hội khác. ? nước ta năm
2007 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn 4,64%, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của
những người trong độ tuổi lao động ở nông thôn đã đạt tới 81%(1).
- Hầu hết lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp lại phân bố
không đều giữa các vùng
Lao động nông nghiệp ở nước ta hiện nay còn cao, năm 2007 chiếm 54,6%,

trong khi đó lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng là 19,6% và dịch vụ là
25,8%(2) ở vùng đồng bằng, ven biển mật độ dân số và lao động đông hơn rất nhiều
so với miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Thu nhập và đời sống của người lao động còn thấp
Thu nhập của lao động ở các ngành sản xuất vật chất, dịch vụ, khối hành chính
sự nghiệp đều rất thấp không đủ tái sản xuất sức lao động. Thu nhập thấp và không
công bằng giữa các tầng lớp lao động đang gây khó khăn về đời sống đã buộc người
lao động phải kiếm việc làm thêm nhằm tăng thu nhập. Do đó, ảnh hưởng đến chất
lượng, năng suất lao động của công việc được phân công.
- Nguồn lực lao động tăng nhanh
Tốc độ tăng dân số còn cao, dân số trẻ nên tốc độ tăng nguồn lực lao động cũng
cao. Nguồn lực lao động tăng nhanh là áp lực lớn cho giải quyết việc làm, giảm thất
nghiệp.
c- Những biện pháp chủ yếu để phát triển và sử dụng nguồn lực lao động
nước ta
Nguồn lao động có vai trò quyết định trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
cuả mọi thời đại. Do đó, phát triển và sử dụng hợp lý nguồn lao động là đòi hỏi bức
thiết. Để đáp ứng được đòi hỏi trên, cần có các giải pháp như:
- Nâng cao trình độ dân trí, phát triển giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ lâu dài,
thậm chí của nhiều thế hệ. Đảng ta coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu
5
tư cho nâng cao dân trí, cho giáo dục, đào tạo là nền tảng của tăng trưởng kinh tế cao
và phát triển bền vững.
- Khuyến khích phát triển kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế để tạo
thêm nhiều việc làm
Phát triển kinh tế là để tạo ra nhiều việc làm mới (tạo cầu lao động) góp phần
giảm tỷ lệ thất nghiệp cả ở thành thị và nông thôn. Do đó, nhà nước cần tạo môi
trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài
bỏ vốn đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh tạo thêm nhiều việc làm, tăng
thu nhập cho người lao động, tăng GDP cho nền kinh tế .

- Tạo lập và quản lý thị trường lao động
Thừa nhận sức lao động là hàng hóa, thì cần tạo lập thị trường để hàng hóa đó
được tự do trao đổi như các loại hàng hóa khác. Do đó, Nhà nước phải hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách cho phát triển thì trường hàng hóa sức lao động và tổ
chức, quản lý sự vận động, phát triển của thì trường đó.
- Nâng cao thể chất và thu nhập của người lao động
Nâng cao thể chất và thu nhập, tuy là hai vấn đề riêng biệt, song có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Thu nhập cao có điều kiện cải thiện đời sống vật chất và tinh thần,
ảnh hưởng trực tiếp đến nâng cao thể chất người lao động. Ngược lại, người lao động
có thể chất tốt thì năng suất lao động sẽ cao, góp phần tăng trưởng kinh tế và cũng
tăng thu nhập cho chính mình.
- Triển khai đồng bộ các nội dung của chiến lược dân số
Thực hiện triệt để chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, nhằm giảm tỷ lệ
tăng dân số; bảo đảm ổn định qui mô dân số; điều chỉnh cơ cấu dân số và nâng cao
chất lượng dân số.
- Mở rộng xuất khẩu lao động
Sự di chuyển lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác trong xu thế quốc tế
hóa kinh tế là tất yếu khách quan. Nước ta số lao động thiếu việc làm rất lớn, nên cần
mở rộng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động. Để thực hiện điều đó, cần hoàn
thiện cơ chế quản lý, hệ thống chính sách; mở rộng thị trường; đào tạo văn hóa, nghề
nghiệp cho người lao động.
- Tăng cường các biện pháp hành chính, kinh tế và giáo dục động viên để nâng
cao đạo đức, thái độ lao động mới
Nâng cao đạo đức, thái độ lao động mới cần có quá trình lâu dài và sự kết hợp
các phương pháp quản lý, kết hợp nhiều hình thức, tổ chức giáo dục; kết hợp giữa gia
đình và xã hội.
Ba, Nguồn lực khoa học và công nghệ
Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên,
xã hội và tư duy.
Công nghệ là tập hợp các phương pháp, qui trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ,

phương tiện để biến đổi các nguồn lực thành các sản phẩm và dịch vụ mong muốn.
6
Công nghệ bao gồm 4 yếu tố: công cụ, con người, thông tin và tổ chức. Bốn yếu
tố này tác động qua lại vối nhau và cùng thực hiện quá trình sản xuất.
- Vai trò của khoa học và công nghệ đối với phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
Khoa học và công nghệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tác động của nó
đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Tác động đến tổng cung:
Khoa học và công nghệ góp phần mở rộng khả năng phát hiện, khai thác, sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực tài nguyên thiên nhiên.
Khoa học và công nghệ tạo điều kiện mở rộng khả năng huy động, tập trung, di
chuyển các nguồn lực lao động và nguồn vốn một cách kịp thời, nhanh chóng để khai
thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó.
Khoa học và công nghệ góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và chuyển từ
tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng sang chiều sâu.
Khoa học và công nghệ phát triển sẽ phát minh sáng chế ra các máy móc, thiết
bị hiện đại, vật liệu mới, công nghệ tiên tiến góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và chuyển sang nền kinh tế tri thức.
- Những đóng góp của khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế - xã hội
nước ta
Khoa học và công nghệ nước ta, nhất là từ thời kỳ đổi mới đến nay đã có bước
phát triển tích cực và có đóng góp to lớn vào quá trình đổi mới và phát triển.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đã nghiên cứu, cung cấp những
luận cứ khoa học cho hoạch định đường lối, chiến lược, chủ trương, chính sách và
định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".
Khoa học và công nghệ đã tập trung nghiên cứu sáng chế, cải tiến các thiết bị
công nghệ tiên tiến, trang bị cho nền kinh tế góp phần tạo ra các sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước, thế giới và khu vực. Khoa

học ứng dụng triển khai đã từng bước gắn bó với sản xuất và đời sống, tạo ra nhiều sản
phẩm hữu ích phục vụ việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Hạn chế
Trình độ khoa học và công nghệ thấp kém, tụt hậu xa so với các nước khác
trong khu vực và thế giới, cũng chưa như đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của nền kinh
tế.
Nước ta, tuy có tiềm năng trí tuệ cao, song năng lực nội sinh khoa học và công
nghệ chưa được phát huy. Số phát minh sáng chế, giải pháp hữu ích được ký hàng năm
rất ít. Năng lực làm chủ công nghệ ngoại nhập còn hạn chế.
Các nguồn lực phát triển khoa học và công nghệ còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ còn ít, số người có trình độ cao đẳng trở
7
lên mới có 3,05% so với tổng dân số; số có học vị tiến sĩ là 14.000 người và học vị
thạc sĩ khoảng 20.000 người(1).
Khoa học và công nghệ ít gắn bó với sản xuất và đời sống, mối quan hệ giữa
khoa học và công nghệ với sản xuất và đời sống còn lỏng lẻo, nhiều đề tài nghiên cứu
khoa học chưa xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống; nhiều trường đại học chỉ đào tạo
những ngành nghề mà mình có năng lực, chứ chưa đào tạo theo nhu cầu của xã hội.
c. Định hướng và giải pháp phát huy vai trò của khoa học và công nghệ nước
ta
- Định hướng phát triển khoa học và công nghệ
Thứ nhất, phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010
Đối với khoa học xã hội và nhân văn: Tập trung nghiên cứu Tổng kết thực tiễn,
đi sâu vào những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và toàn cầu, những vấn đề lý luận và
thực tiễn về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an
ninh Tổ quốc; cung cấp những luận cứ khoa học cho hoạch định đường lối, chiến lược,
cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người mới, văn hóa mới tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đối với khoa học tự nhiên: Đầu tư đúng mức cho nghiên cứu cơ bản và ứng
dụng, tập trung nghiên cứu phát triển công nghệ cao như: khai thác các nguồn tài

nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo, phòng, tránh, giảm nhẹ hậu quả thiên
tai.
- Đối với công nghệ: Phát triển và ứng dụng một số hướng công nghệ cao như:
Công nghệ thông tin, điện tử, sinh học, tự động hóa, vật liệu mới
Thứ hai, phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020:
Phấn đấu đến năm 2020, tiềm lực khoa học và công nghệ Việt Nam thuộc vào
loại tiên tiến trong khu vực, xét ở một số chỉ tiêu như sau:
Tỷ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ đạt tới 4% GDP.
Số cán bộ nghiên cứu triển khai trên một vạn dân là 70 người.
Tốc độ đổi mới công nghệ đạt 25-28%/năm
Có một số phòng thí nghiệm và viện nghiên cứu đạt tiêu chuẩn tiên tiến trong
khu vực.
Hình thành một số khu công nghệ cao
- Giải pháp phát huy vai trò của khoa học và công nghệ ở nước ta.
Một là, tạo lập và thúc đẩy thị trường khoa học và công nghệ phát triển
Để tạo lập và thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ, thì cần phát
triển các yếu tố về thể chế hỗ trợ thị trường "đẩy cung" và "đẩy cầu" các sản phẩm khoa
học và công nghệ, tăng cường quản lý vĩ mô của nhà nước.
Hai là, tạo vốn cho hoạt động khoa học và công nghệ
Vốn là nguồn lực quan trọng để phát triển khoa học và công nghệ. Để có vốn
8
cho phát triển khoa học và công nghệ cần huy động từ các nguồn vốn ngân sách nhà
nước, từ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và nguồn vốn tài trợ từ nước
ngoài. Triển khai thành lập các quỹ phát triển khoa học và công nghệ của quốc gia, bộ
ngành, địa phương, doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân; tăng tỷ lệ chi từ ngân sách
nhà nước cho phát triển khoa học và công nghệ.
Ba là, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ
Để mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ cần đa phương hóa
phương thức hợp tác, coi trọng hợp tác nghiên cứu cơ bản và phát triển công nghệ cao;
khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài lập

cơ sở nghiên cứu, mở các trường dạy nghề, trường đại học chất lượng cao ở Việt Nam;
tạo điều kiện cho cán bộ khoa học Việt Nam tham gia các hội nghị khoa học quốc tế,
trao đổi nghiên cứu, giảng dạy ở nước ngoài; thu hút chuyên gia việt kiều và nước
ngoài vào nghiên cứu, giảng dạy ở nước ta.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ cần phải:
Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, đào tạo,
bồi dưỡng nhân tài, nhất là các cán bộ đầu đàn thuộc các lĩnh vực, ngành kinh tế trọng
điểm và các ngành công nghệ cao.
Có chính sách tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ thích đáng đối với cán bộ khoa
học, công nghệ; khuyến khích tự do sáng tạo khoa học.
Năm là, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ
Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng:
Phân định rõ chức năng nhiệm vụ, phân cấp quản lý trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ.
Sắp xếp và đổi mới tổ chức các viện nghiên cứu khoa học và công nghệ, phát
triển các loạt hình tư vấn khoa học và công nghệ.
Xây dựng cơ chế liên kết các doanh nghiệp với các Trường đại học và viện
nghiên cứu.
Đổi mới cơ chế kế hoạch, tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công
nghệ phù hợp với cơ chế thị trường.
Bốn, Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai, được hình thành, tồn
tại trong tự nhiên và tất cả những gì thuộc về thiên nhiên mà con người có thể khai thác,
sử dụng thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
- Phân loại về tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên rất đa dạng và phong phú, song để nghiên cứu chúng ta
có thể chia làm hai loại cơ bản.
Loại thứ nhất: Tài nguyên hữu hạn, đây là loại tài nguyên có trữ lượng nhất
định, không được cung cấp liên tục, sử dụng nhiều sẽ hết.

9
Loại này, lại có thể chia thành hai nhóm:
Nhóm tài nguyên có thể tái tạo được như: nước, thổ nhưỡng, hệ động vật, thực
vật
Nhóm tài nguyên không tái tạo được, đó là các loại khoáng sản.
Loại thứ hai: Tài nguyên vô hạn, đây là loại tài nguyên có trữ lượng vô định,
được cung cấp liên tục, phân chia theo địa giới hành chính và khi khai thác, sử dụng
không gây ô nhiễm môi trường.
- Vai trò của tài nguyên thiên nhiên đối với phát triển
Tài nguyên thiên nhiên là một trong các nguồn lực cơ bản của quá trình sản
xuất, là đối tượng lao động.
Tài nguyên thiên nhiên là không gian sống, là nguồn cung cấp nhu yếu phẩm
cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn vốn cho quá trình sản xuất, khi con người biết
khai thác sử dụng nó.
b. Đặc điểm nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta
Tài nguyên thiên nhiên ở nước ta rất phong phú, đa dạng, song hầu hết có trữ lượng
vừa và nhỏ, phân tán rải rác trên khắp cac vùng, miền trong cả nước.
Các loại quặng có lượng tài nguyên thiên nhiên không cao lại nằm sâu dươi
lòng đất, điều kiện khai thác khó khăn.
Đất đai ít mầu mỡ, lại bị xói mòn do tác động của mưa , lũ và địa hình dốc.
Rừng bị cạn kiện do chiến tranh tàn phá và nạn khai thác rừng bừa bãi nhiều
năm qua. Rừng trồng còn thưa thớt chưa hội đủ các sinh thái rừng. Độ che phủ có tỷ lệ
thấp khoảng 35% .
Tài nguyên biển nước ta có diện tích mặt nước biển rộng hơn 1,0 triệu km2, có
gần 3000 hòn đảo lớn nhỏ, nguồn thủy sản phong phú, song trữ lượng không lớn, lại là
vùng thường xuyên xảy ra dông, bão nên khai thác khó khăn, kém hiệu quả .
Nguồn nước ngọt khá dồi dào, nước ta có tới 2860 sông có chiều dài từ 10 km
trở lên, lượng mưa hàng năm trung bình từ 1800 mm đến 2000 mm, song phân bố
không đều, nên có hai mùa mưa lũ và khô hạn rất rõ rệt.

c. Các quan điểm và giải pháp khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên
- Các quan điểm khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên
Quan điểm về thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên, tập trung đầu tư phát
triển ngành khoa học địa chất để có đủ khả năng khảo sát, thăm dò, đánh giá trữ lượng,
chất lượng từng loại tài nguyên, xác lập bản đồ địa chất chính xác làm cơ sở lập kế
hoạch khai thác, sử dụng.
Quan điểm sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Đối với tài nguyên hữu hạn, phải gắn kế hoạch khai thác với sản xuất và tiêu
dùng sản phẩm, hạn chế đến mức thấp nhất xuất khẩu nguyên liệu thô, ứng dụng tiến
10
bộ khoa học, công nghệ khai thác để tăng năng suất, hiệu quả kinh tế, gắn với khai
thác bảo vệ môi trường, tránh lãng phí tài nguyên thiên nhiên trong công nghệ khai
thác.
Đối với tài nguyên vô hạn phải hoàn thiện hệ thống chính sách, khuyến khích
ứng dụng để tận dụng lợi thế của loại tài nguyên này.
- Các giải pháp khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên nước ta
Xác lập quy hoạch, lộ trình và hình thành các dự án khai thác tài nguyên thiên
nhiên. Các dự án đó phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong mỗi
giai đoạn phát triển nhất định.
Các giải pháp về kỹ thuật, công nghệ khai thác, chế biến.
- Các giải pháp về vốn thực hiện các dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Các giải pháp về đào tạo cán bộ công nhân thăm dò, khai thác chế biến tài
nguyên thiên nhiên.
Tăng cường quản lý Nhà nước đối với khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Khai thác tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường.
Câu 2: Các nội dung tái cơ cấu. Phân tích và đưa ra giải pháp của 1 trong
những nội dung nêu trên.
* Khái niệm về cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu kinh tế:
11
- Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế, với vị trí,

quy mô, tỷ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp
thành
Xét về tổng thể có ba loại cơ cấu kinh tế, đó là: cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh vực;
cơ cấu vùng miền và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong đó, cơ cấu ngành, lĩnh vực
đóng vai trò cốt lõi trong thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế.
- Tái cơ cấu kinh tế là quá trình cấu trúc lại hay biến đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng tiến bộ, hiện đại, phù hợp với tiến trình chủ động hội nhập quốc tế, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Bản chất của tái cơ cấu kinh tế chính là quá trình:
+ Cơ cấu lại hay biến đổi một các quyết liệt, mạnh mẽ, sâu sắc tổng thể, toàn
diện các ngành, các lĩnh vực kinh tế hiện có của nền kinh tế quốc dân. Trong đó các
trụ cột của ngành, lĩnh vực là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ được cấu trúc lại,
sắp xếp lại theo hướng phát huy lợi thế của ngành, lĩnh vực gắn với bố trí, sắp xếp lại
các nguồn lực hiện có, đảm bảo cho ngành, lĩnh vực phát triển bền vững.
+ Tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực kinh tế phải đặt trong vị trí, vai trò và lợi thế
cạnh tranh tổng thể cỷa vùng, miền và thành phần kinh tế theo xu hướng tiến bộ, hiện
đại, hợp lý, hiệu quả.
+ Biến đổi cơ cấu kinh tế phải gắn và phù hợp với tiến trình chủ động hội nhập
quốc tế.
+ Tiến trình tái cơ cấu kinh tế phải đảm bảo thúc đẩu nền kinh tế phát triển
nhanh, bền vững.
Nội dung chủ yếu của tái cơ cấu nền kinh tế:
+ Xây dựng chiến lược tái cơ cấu nền kinh tế. Để đảm bảo thực hiện hiệu quả,
thành công nhiệm vụ tái cơ cấu kinh tế phải xây dựng chiến lược tái cơ cấu kinh tế với
chất lượng cao. Thông qua việc xây dựng chiến lược tái cơ cấi kinh tế, có thể xác định
rõ mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, kế hoạch, lộ trình tái cơ cấu kinh tế; xác định tầm
nhìn hay hướng đích cần phải đạt được trong tiến trình tái cơ cấu kinh tế. Chiến lược
tái cơ cấu kinh tế trước hết phải:
1) Xây dựng và thực hiện chiến lược tái cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh vực. Trong
đó, chiến lược tái cơ cấu kinh tế các ngành: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ phải

theo hướng mở cửa, hội nhập; đảm bảo cho các ngành đó phát huy tốt nhất lợi thế để
phát triển. Đồng thời, trong chiến lượng tái cơ cấu kinh tế cần phải chớp lấy thời cơ,
chủ động và quyết đoán trong việc loại bỏ, thậm chí là hi sinh những lợi ích trước mắt
trong phát triển ngành, lĩnh vực kinh tế, hướng tới mục tiêu dài hạn để ngành, lĩnh vực
kinh tế đóng góp tích cực, có chất lượng trong tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh
tế.
2) Xây dựng và thực hiện chiến lược tái cơ cấu vùng, miền. Chiến lược tái cơ
cấu kinh tế vùng, miền. Trong đó, xác định rõ tiềm năng, thế mạnh của từng vung,
miền; thực hiện kết nối phát triển giữa các vùng, miền kinh tế, đảm bảo tính hệ thống,
tính toàn diện và tổng thể của vùng và các tiểu vùng. Đặc biệt, xây dựng chiến lược
12
phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, đảm bảo cho các vùng kinh tế trọng điểm hoạt
động hiệu quả, tạo động lực đầu tàu trong phát triển, tạo nên sự tác động lan tỏa, thúc
đẩy các vùng, miền khác nhau cùng phát triển.
3) Xây dựng và thực hiện chiến lược tái cơ cấu thành phần kinh tế. Chiến lược
tái cơ cấu thành phần kinh tế phải đảm bảo mọi thành phần kinh tế phát huy được mọi
lợi thế để phát triển, có đóng góp tích cực vào phát triển nhanh, bền vững. Trong đó,
xây dựng hạt nhân trong thành phần kinh tế để tạo thời cơ, cơ hội về nguồn lực, về cơ
chế, chính sách cho hạt nhân của thành phần kinh tế đó phát triển.
+ Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu nền
kinh tế. Tái cơ cấu kinh tế phải có các nguồn lực, bao gồm cả nguồn lực vật chất và
nguồn lực phi vật chât. Trong đó, nguồn lực vật chất luôn có giới hạn. Do đó, cùng với
quá trình tái cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh vực, vùng và thành phần kinh tế phải xây dựng
chiến lược huy động, phát huy và sử dụng hiệu quả các nguồn lực vật chất, đảm bảo
cho công cuộc tái cơ cấu kinh tế thành công. Trong quá trình cơ cấu lại nguồn lực vật
chất phải chú trọng, tập trung phân bổ, sử dụng nguồn lực vật chất (tài nguyên thiên
nhiên, vốn, lao động, khoa học và công nghệ) gắn với chiến lược phát triển bền vững.
Nguồn lực phi vật chất là nguồn lực tiềm năng. Nguồn lực tiềm năng chỉ được bộc lộ,
phát huy khi có chiến lược động viên, phát triển hiệu quả. Trong các nguồn lực phi vật
chất, văn hóa, lịch sử và truyền thống chính là các giá trị, là động lực cần thiết phải

khơi dậy, phát huy trong thúc đẩy phát triển bền vững.
+ Xây dựng, đổi mới và hoàn thiện chính sách nhằm tài cơ cấu nền kinh tế hiệu
quả, bền vững. Chính sách có tác động thúc đẩy hay kìm hãm quá trình tái cơ cấu kinh
tế. Các chính sách có tác động tời quá trình tái cơ cấu kinh tế lớn nhất, đó là:
. Chính sách quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, vùng, thành phần KT
. Chính sách tài chính, tiền tệ và đầu tư
. Chính sách phát triển thị trường.
. Chính sách phát triển khoa học – công nghệ và chính sách phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao.
* Tái cơ cấu kinh tế Việt Nam và giải pháp chủ yếu.
Bối cảnh thực hiện tái cơ cấu kinh tế tại Việt Nam
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn về phát triển kinh tế xã hội. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
hơn 7%, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, vươn lên trở thành nước có
thu nhập trung bình. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch phù hợp với mục tiêu công
nghiệp hóa-hiện đại hóa, các ngành công nghiệp và dịch vụ đã chiếm gần 80% tỷ trọng
GDP. Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại như xuất khẩu, thu hút FDI, xuất khẩu lao động,
du lịch… được chú trọng phát triển và có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP.
Từ những đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế và phù hợp với xu hướng tái cấu trúc
kinh tế thế giới, Việt Nam đã xác định tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình
tăng trưởng theo hướng bền vững là một trong những trọng tâm phát triển kinh tế-xã
hội. Chủ trương này được cụ thể hóa bởi Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với
13
chuyển đổi mô hình tăng trưởng được thông qua vào tháng 2/2013 cùng với các Đề án
chuyên biệt tái cơ cấu một số lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế.
Quan điểm về tái cơ cấu được xác định rõ trong Đề án tổng thể như sau:
Một là, tiếp tục đổi mới tư duy, phân định rõ vai trò, chức năng của Nhà nước
và thị trường; nâng cao năng lực và hiệu lực quản trị quốc gia, phát huy vai trò kiến
tạo và hỗ trợ phát triển của Nhà nước thông qua các cơ chế, chính sách, đòn bẩy kinh
tế, giảm thiểu sử dụng các biện pháp can thiệp hành chính.

Hai là, kết hợp hài hòa giữa giải quyết các vấn đề quan trọng, cấp bách với các
vấn đề cơ bản, dài hạn, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững; ưu tiên mục tiêu
trung và dài hạn, chất lượng tăng trưởng; gắn với kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô.
Ba là, thúc đẩy phát huy lợi thế cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực, vùng kinh
tế và của các địa phương; coi trọng và phát huy các lợi thế về nông nghiệp, phát triển
mạnh kinh tế dịch vụ, du lịch; tiếp tục mở cửa, tích cực và hội nhập quốc tế…
Về nội dung tái cơ cấu, ba lĩnh vực trọng tâm được xác định bao gồm tái cơ
cấu doanh nghiệp nhà nước (trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước); tái cơ
cấu đầu tư công và tái cơ cấu hệ thống tài chính-ngân hàng (trọng tâm là các ngân
hàng thương mại).
* Về tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước:
DNNN là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước đi đầu trong hệ thống doanh
nghiệp VN và cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. DNNN tiên
phong đi trước, mở đường ở các ngành, các lĩnh vực mà các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác không muốn làm hoặc làm không được khi đã tạo điều kiện
thuận lợi, hỗ trợ từ phía nhà nước, những ngành đòi hỏi vốn lớn, công nghệ hiện đại,
công nghệ cao tạo nền tảng cơ bản cho những ngành sản xuất với công nghệ tiên tiến,
hiện đại, giá trị gia tăng cao.
Thực trạng và giải pháp thực hiện tái cơ cấu DNNN
Tái cơ cấu DNNN là một trong ba trụ cột trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế
đến năm 2015. Quá trình cải cách DNNN đã được thực hiện với nhiều kết quả tích
cực. Tuy nhiên, việc sắp xếp, cổ phần hoá DNNN còn chậm, chưa chặt chẽ; chức năng
quản lý nhà nước và sở hữu nhà nước chưa được phân định rõ. Năng lực quản trị DN
của nhiều DNNN vẫn còn hạn chế, chậm đổi mới và chưa vận dụng đầy đủ những
nguyên tắc quản trị DN theo thông lệ quốc tế. Một số DN vi phạm các quy định của
Nhà nước, gây thất thoát, lãng phí vốn và tài sản
Trước tình hình đó, việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN
là yêu cầu cấp bách. Để đạt yêu cầu này, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án

“Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai
đoạn 2011 - 2015” tại Quyết định 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012. Sau khi Đề án được
phê duyệt, các bộ, ngành, địa phương, các TĐ, TCT đã tích cực triển khai xây dựng cơ
chế chính sách và Đề án tái cơ cấu cho từng DN.
14
Thời gian qua, cả nước đã sắp xếp được 272 doanh nghiệp, trong đó cổ phần
hóa 170 doanh nghiệp và sắp xếp theo các hình thức khác 81 doanh nghiệp. Nhiều
doanh nghiệp sau tái cơ cấu đã có sự chuyển biến tích cực về năng lực tài chính, khả
năng thanh toán nợ, hoạt động kinh doanh ổn định, hiệu quả, bảo đảm chỉ tiêu nộp
NSNN. Tuy nhiên tiến độ thực hiện tái cơ cấu các DNNN còn chậm so với yêu cầu,
chưa có chuyển biến về phân bổ lại nguồn lực và phương thức quản trị doanh nghiệp
hiện đại, nhất là việc sắp xếp, cổ phần hóa các DNNN có tỷ lệ nắm giữ cổ phần của
Nhà nước, ngoài ra thoái vốn còn chậm so với yêu cầu, một số khoản đầu tư thu lỗ nên
khó thu hút được các nhà đầu tư.
Giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN với trọng tâm là tái cơ cấu các TĐ,
TCT trong thời gian tới:
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý DNNN để DN kinh doanh hoạt động trong
môi trường pháp lý chung và cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh
tế khác. Ưu tiên hoàn thiện quy định về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở
hữu nhà nước đối với DNNN; quy định về giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt
động đối với DN do Nhà nước làm chủ sở hữu và DN có vốn nhà nước. Hoàn thiện
mô hình quản lý vốn nhà nước tại các DN gắn với xây dựng Luật Quản lý, sử dụng
vốn nhà nước; thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các
định chế nhà nước có chức năng hỗ trợ cho quá trình sắp xếp, cổ phần hoá DNNN
như: SCIC và Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC).
- Đẩy mạnh thực hiện tổ chức phân loại DNNN, tập trung đầu tư tăng cường
năng lực vào một số lĩnh vực then chốt mà Nhà nước cần nắm giữ 100% cổ phần như:
an ninh, quốc phòng; cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công thiết yếu Đối với
các DN còn lại sẽ cổ phần hóa với lộ trình phù hợp. Tuy nhiên, cơ chế cổ phần hoá cần
rà soát, sửa đổi theo hướng tạo thuận lợi cho các DN trong quá trình cổ phần hoá, rút

ngắn thời gian tổ chức triển khai, cũng như thu hút được nhà đầu tư chiến lược. Đồng
thời, nâng cao hiệu quả quản trị DN sau cổ phần hoá như: điều chỉnh quy định chỉ thực
hiện áp dụng Kiểm toán Nhà nước đối với các DN cần thiết theo yêu cầu của Thủ
tướng Chính phủ; quy định áp dụng cơ chế thuê đất đối với toàn bộ DN cổ phần hoá,
ngoại trừ các DN kinh doanh hạ tầng, bất động sản mới thực hiện cơ chế giao đất; điều
chỉnh quy định xử lý rõ trách nhiệm đối với các khoản công nợ phải thu, phải trả chưa
đối chiếu kịp thời tại thời điểm định giá; hướng dẫn rõ việc cổ phần hoá các TĐ, TCT
có đơn vị sự nghiệp có thu
- Thực hiện tái cơ cấu DN theo ngành, lĩnh vực, không phân biệt cấp, cơ quan
quản lý. Tái cơ cấu các TĐ, TCT toàn diện từ mô hình tổ chức, nguồn nhân lực, chiến
lược phát triển, đến thị trường, sản phẩm Nêu cao vai trò và trách nhiệm của cơ quan
được giao thực hiện quyền của chủ sở hữu. Gắn và làm rõ trách nhiệm của Bộ trưởng
các bộ quản lý ngành trong việc tổ chức xây dựng, triển khai thực hiện quy hoạch phát
triển kinh tế ngành đã được Chính phủ phê duyệt.
- Quan triệt thực hiện thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào ngành, lĩnh vực ngoài
ngành kinh doanh chính hoặc không trực tiếp liên quan với ngành kinh doanh chính;
vốn nhà nước ở công ty cổ phần mà nhà nước không cần chi phối theo nguyên tắc thị
trường việc. Trường hợp các TĐ, TCT khó khăn trong thoái vốn, thì giao SCIC hỗ trợ,
15
mua lại các khoản đầu tư này để các TĐ, TCT tập trung vào các giải pháp khác của
quá trình tái cơ cấu theo Đề án được phê duyệt.
- Hình thành tổ chức để thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối
với DNNN. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp, phân công giữa
Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chức năng
của cơ quan đại diện chủ sở hữu DNNN. Đổi mới quy trình, xác định rõ quyền và
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc xem xét, quyết định nhân
sự lãnh đạo chủ chốt của DNNN. Tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý, giám sát
tài chính DN nhằm hướng tới quản lý nhà nước chuyên sâu về tài chính DN. Cùng với
đó, ban hành cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả trong hoạt động DNNN trên
cơ sở yêu cầu DNNN công khai minh bạch thông tin như các DN niêm yết trên thị

trường chứng khoán.
- Tăng cường hơn nữa tính công khai, minh bạch trong hoạt động của DNNN;
kết quả sản xuất kinh doanh phải được công bố công khai, minh bạch, trung thực, kịp
thời với báo chí, dư luận để xã hội hiểu đúng về DNNN. Chủ tịch hội đồng quản trị
DNNN, bộ quản lý ngành phải chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ này. Các bộ,
ngành Trung ương và các địa phương cần hết sức quan tâm, tập trung xây dựng, hoàn
thiện thể chế, chính sách góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy quá trình
đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN.
- Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ, nhất là kiểm soát rủi ro tài chính để kịp
thời có biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro và điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh
doanh cho phù hợp. Những đơn vị đang có khó khăn về tài chính, cần làm rõ trách
nhiệm của cán bộ quản lý có liên quan, mặt khác cần cơ cấu lại vốn, tài sản theo
hướng đánh giá thực trạng, xác định nhu cầu vốn để có cơ chế xử lý bổ sung vốn tiếp
tục thực hiện các dự án đầu tư có hiệu quả, hạn chế thất thoát vốn do kéo dài thời gian
dự án…
* Về tái cơ cấu đầu tư công:
Đầu tư công được hiểu là đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước theo quy định của
pháp luật hiện hành, bao gồm vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo
lãnh, vốn tín dung đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp Nhà nước và các nguồn vốn khác do Nhà nước quản lý.
Thực tế đầu tư công ở Việt Nam
1. Tái cơ cấu còn chậm
Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn liền với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 339/QĐ-TTg, ngày
19/2/2013. Trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ tái cơ cấu đầu tư công
mà Đề án đặt ra, có hai điểm tích cực sau:
- Tốc độ tăng vốn đầu tư của khu vực nhà nước bước đầu đã giảm. Nhờ việc
cắt giảm nhiều dự án đầu tư chưa thực sự cấp bách hoặc kém hiệu quả, nên tốc độ tăng
vốn đầu tư của khu vực nhà nước theo giá thực tế đã giảm từ 9,6% năm 2012 xuống

còn 8,4% năm 2013.
16
- Tình trạng dàn trải, lãng phí trong đầu tư công đã được chú trọng khắc
phục, bước đầu đạt kết quả tích cực. Với việc xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của các cơ quan liên quan trong đầu tư công; chú trọng hoàn thiện và
tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra đầu tư công, nên các dự án đầu tư từ
nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ được rà soát, sắp xếp, phân loại
theo thứ tự ưu tiên thực hiện. Nhiều dự án đầu tư chưa thực sự cấp bách hoặc không
hiệu quả đã được đình hoãn hoặc cắt giảm. Việc phân bổ vốn đầu tư được điều chỉnh
lại theo hướng tập trung hơn cho các dự án thuộc diện ưu tiên; tiến độ thực hiện các dự
án được đảm bảo hơn Điều này đã góp phần quan trọng vào việc khắc phục tình
trạng dàn trải, chậm tiến độ, lãng phí, cải thiện được hiệu quả đầu tư công.
Tuy nhiên, tái cơ cấu đầu tư công cũng còn những mặt chưa được như sau:
- Quá trình tái cơ cấu đầu tư công diễn ra chậm, chưa làm thay đổi mạnh mẽ
xu hướng đầu tư của khu vực này. Đầu tư của khu vực nhà nước vẫn tiếp tục lấn át
đầu tư của khu vực tư nhân trong và ngoài nước, việc cắt giảm đầu tư công chưa đạt
được kết quả đáng kể.
Trong bối cảnh thu ngân sách không đủ cho chi thường xuyên, đầu tư phát triển
từ ngân sách nhà nước chủ yếu là đi vay, thì việc tăng tỷ trọng đầu tư công trong tổng
vốn đầu tư toàn xã hội là hiện tượng cần xem xét. Nhất là gần đây đang có nhu cầu
vay 1 tỷ USD để đảo nợ quốc gia.
Với tỷ trọng trên, đầu tư khu vực nhà nước của Việt Nam tiếp tục chiếm tỷ lệ
cao so với các nước trong khu vực. Trong suốt giai đoạn 2000-2012, đầu tư của khu
vực này hàng năm luôn chiếm khoảng 17%-20% GDP, năm 2013 giảm xuống còn
12,3%, song vẫn cao hơn rất nhiều so với mức dưới 5% GDP của các nước trong khu
vực .
- Tái cơ cấu đầu tư công chưa cải thiện đáng kể hiệu quả đầu tư của khu vực
này. Tình trạng đầu tư công tràn lan, chưa đúng hướng (Nhà nước đầu tư vào cả
những lĩnh vực mà tư nhân hoàn toàn có thể làm được và làm tốt), chất lượng công
trình đầu tư thấp, dự án đầu tư chậm tiến độ, phải điều chỉnh tăng vốn so với dự toán

ban đầu vẫn còn có dấu hiệu tiếp diễn.
2. Do khung pháp lý chưa hoàn thiện.
Tái cơ cấu đầu tư công chưa đạt được nhiều kết quả, ngoài một số nguyên nhân
khách quan như thời gian triển khai thực hiện tái cơ cấu chưa đủ dài và do một số
nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, nhận thức về đầu tư công chưa rõ ràng. Vấn đề này xuất phát từ nhiều lý
do, song trước hết là do sự nhận thức thiếu rõ ràng về vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự lúng túng trong tư duy phát triển
kinh tế - xã hội (tư duy về phát triển vùng, ngành; liên kết vùng, ngành; tư duy về giải
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển ). Điều đó đã ảnh hưởng
tiêu cực đến hoạt động đầu tư công và tái cơ cấu đầu tư công.
Hai là, chưa xây dựng được chương trình tổng thể về tái cơ cấu đầu tư công,
mặc dù Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế được phê duyệt từ đầu năm 2013. Điều này
gây khó khăn cho việc triển khai tái cơ cấu đầu tư công trên thực tế.
17
Ba là, khung khổ pháp lý còn nhiều hạn chế. Trong thời gian qua, mặc dù Việt
Nam đã rất nỗ lực hoàn thiện khung khổ pháp lý liên quan đến đầu tư công nhằm nâng
cao hiệu quả đầu tư của khu vực này. Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều văn bản quy
phạm pháp luật quan trọng liên quan đến lĩnh vực này vẫn còn thiếu, hoặc đang trong
quá trình xây dựng hay hướng dẫn thực hiện. Chẳng hạn: Luật Đầu tư công - phải đến
1/1/2015 mới có hiệu lực thi hành; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (sửa đổi),
Luật Đấu thầu (sửa đổi), hiện vẫn đang trong quá trình xây dựng các văn bản hướng
dẫn thực hiện; Luật Quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp chưa được ban
hành; Luật Ngân sách nhà nước (Luật số 01/2002/QH11) hiện đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Bốn là, vẫn chưa xây dựng được hệ thống tiêu chí cụ thể, định lượng để đánh
giá hiệu quả của các DA đầu tư công, làm cơ sở cho việc chấp thuận đầu tư và phân bổ
vốn.
Năm là, công tác kiểm tra, giám sát trong và sau khi đầu tư (hậu kiểm) đối với
các dự án đầu tư công còn nhiều hạn chế, bị buông lỏng, hiệu lực không cao.
* Giải pháp cần tập trung thực hiện:

Thứ nhất, xác định lại vai trò của đầu tư công đối với quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Đầu tư công phải phản ánh đúng chức năng xã hội của Nhà
nước. Theo đó, đầu tư công chỉ tập trung vào những lĩnh vực mà tư nhân không làm
được hoặc không muốn làm, nhưng lại có ý nghĩa to lớn đối với việc đảm bảo công
bằng và an sinh xã hội, tạo điều kiện thiết yếu cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, khẩn trương xây dựng chương trình tổng thể về tái cơ cấu đầu tư công
với lộ trình, cách thức thực hiện cụ thể. Chương trình này phải có sự gắn kết chặt chẽ
với việc thực hiện các nội dung khác của tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng và dựa trên cơ sở của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương
cũng như trên phạm vi cả nước. Đồng thời, chương trình phải đặt trong bối cảnh Việt
Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng vào kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, cần xác định rõ
trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan liên quan trong quá trình tái cơ cấu đầu tư
công. Định kỳ tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm cho việc thực hiện chương trình
trong giai đoạn tiếp theo.
Thứ ba, khẩn trương hoàn thiện khung khổ pháp lỳ về đầu tư công. Cụ thể: Cần
tập trung ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư công; Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (sửa đổi); Luật Đấu thầu (sửa đổi); Sớm ban hành
Luật Quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp; đẩy nhanh quá trình sửa đổi
Luật Ngân sách nhà nước; Hoàn thiện khung khổ pháp lý về hợp tác công-tư trong đầu
tư công (cần làm rõ một số vấn đề, như: các lĩnh vực ưu tiên đầu tư theo hình thức hợp
tác công-tư; quy trình thủ tục trong đầu tư theo hình thức hợp tác công tư; trách nhiệm,
quyền hạn của các bên liên quan ); Sớm ban hành khung pháp lý về quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, nhằm đảm bảo tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn trong các quy
hoạch.
Thứ tư, sớm xây dựng bộ tiêu chí (cả định lượng và định tính) đánh giá hiệu
quả kinh tế - xã hội của các dự án đầu tư công để làm cơ sở cho việc phê duyệt dự án
đầu tư, phân bổ vốn cũng như kiểm tra, giám sát, đánh giá dự án đầu tư công trong và
sau quá trình thực hiện đầu tư.
18
Thứ năm, hoàn thiện công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm về đầu tư

công, đảm bảo sự công khai, minh bạch. Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan liên
quan trong kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong đầu tư công phải được xác định
rõ. Đồng thời, khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế giám sát cộng
đồng đối với các dự án đầu tư công. Việc kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm phải
được thực hiện ở tất cả các khâu, từ lập dự án, thẩm định, bố trí vốn đầu tư, đến thanh
quyết toán và khai thác kết quả đầu tư. trong công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm về đầu tư công.
*) Về tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng
Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng được triển khai trong tất cả các tổ chức tín dụng,
an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng được bảo đảm và khả năng chi trả của các
TCTD được cải thiện. Hiện đã phê duyệt 8/9 phương án cơ cấu lại của các NHTM cổ
phần yếu kém. Xử lý nợ xấu NHTM đạt được nhiều kết quả ban đầu, đến nay toàn hệ
thống đã xử lý được 214.000 tỷ đồng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống hiện nay là
3,8%. Tuy nhiên điểm hạn chế trong việc thực hiện tái cơ cấu hệ thống tài chính –
ngân hàng là các giải pháp hỗ trợ tái cơ cấu TCTD, xử lý nợ xấu chưa được triển khai
đồng bộ.
Trong thời gian tới việc tái cơ cấu thị trường tài chính mà trọng tâm là hệ thống
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng với mục tiêu tổng quát: lành mạnh hóa
hệ thống, tăng “sức khỏe” của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, cần hướng
vào các biện pháp trọng tâm như:
- Xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại một cách công khai, minh
bạch
- Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường
chứng khoán; thị trường bất động sản, thị trường tiền tệ…
- Cải thiện quản trị ngân hàng, áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế, tăng
cường tinh minh bạch, nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng.
- Hoàn thiện tiêu chí quản lý dịch vụ ngân hàng của các tổ chức tín dụng, tăng
cường giám sát và kiểm tra, xử lý nghiêm trọng các vi phạm, bảo đảm an toàn hệ
thống.
19

×