LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi có chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đề ra, nền kinh tế
Việt Nam đang có những bước tiến vượt bậc, tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm
luôn đạt trên 7%, là nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh thứ hai trên thế giới, chỉ
sau Trung Quốc. Nhân tố chủ chốt trong sự phát triển kinh tế này chính là các
doanh nghiệp, những người trực tiếp mang về nguồn thu cho nền kinh tế quốc dân.
Chính vì vậy, việc tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam, giúp các doanh nghiệp bắt kịp với trình độ sản xuất, công nghệ trên thế giới,
sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào trong nước… là những mục tiêu hàng
đầu mà Nhà nước ta đã đề ra ngay từ những ngày đầu hội nhập. Để thực hiện được
điều đó thì yếu tố vốn đầu tư là một trong những yếu tố then chốt, quyết định.
Có nhiều nguồn vốn doanh nghiệp có thể khai thác như huy động trong nhân
dân thông qua phát hành trái phiếu, thu hút đầu tư nước ngoài, góp vốn liên doanh,
cổ phần hóa… Tuy nhiên nguồn vốn thông dụng nhất vẫn là vay ngân hàng. Mối
quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp là một mối quan hệ bền chặt, chi phối lẫn
nhau và thường là lâu dài, mang lại lợi ích cho cả đôi bên.
Vì lẽ đó, các ngân hàng cũng thường xuyên đổi mới chính sách tín dụng nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp, góp phần vào công cuộc xây dựng đất
nước đang diễn ra từng ngày từng giờ. Tuy nhiên, do nền kinh tế của nước ta vẫn
còn đang trong quá trình phát triển, nên thị trường tiền tệ nói chung và thị trường
vốn tín dụng nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, chưa mang lại những hiệu quả như
mong đợi.
Vì vậy, trong quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần
Á Châu Hà Nội, được tìm hiểu về hoạt động cho vay doanh nghiệp của chi nhánh,
với mong muốn đóng góp những suy nghĩ của mình, em đã chọn đề tài: “Mở rộng
cho vay doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu chi nhánh Hà
Nội”.
1
Chuyên đề gồm ba chương với những nội dung chính như sau:
Chương 1: Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay doanh nghiệp tại chi nhánh ACB Hà Nội
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay doanh nghiệp tại chi nhánh ACB
Hà Nội
Do còn hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn, nên chuyên đề
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được ý kiến đóng góp
của thầy cô và bạn bè để chuyên đề của em hoàn thiện hơn.
2
CHƯƠNG 1
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại (NHTM)
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế.
Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội
đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội.
Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia
đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh,…). Đối với các doanh nghiệp,
ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá
dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và người
tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử
dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi họ cần thông
tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính họ thường đến các ngân hàng để nhận được
lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua
chứng khoán Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. Ngân
hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là công
cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền
vững.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế.
Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không
ngừng thay đổi. Thực tế rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm các công ty kinh
3
doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo
hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại,
ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi
giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực
hiện nhiều dịch vụ mới khác. Vì vậy, ta có thể định nghĩa ngân hàng theo những
loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp.
Ngân hàng là các tổ chức trung gian tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
Còn nếu dựa trên các hoạt động chủ yếu thì có thể hiểu : Hoạt động ngân hàng
là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán.
Các loại hình NHTM rất phong phú, căn cứ theo nhiều tiêu thức người ta có
thể phân ra thành ngân hàng sở hữu tư nhân, ngân hàng sở hữu cổ đông, ngân hàng
sở hữu Nhà nước, ngân hàng liên doanh; hay ngân hàng đơn năng, ngân hàng đa
năng; ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ…
1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.2.1. Huy động vốn
Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM - đóng vai trò quan
trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân
hàng bao gồm hai loại chính nếu phân chia theo hình thức sở hữu: vốn của chủ
ngân hàng và vốn nợ.
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng
phải có một lượng vốn nhất định, gọi là vốn chủ sở hữu. Đây là loại vốn ngân
hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng
và là cơ sở để huy động vốn từ công chúng, tạo “đòn bẩy” cho hoạt động. Trên
4
thực tế, các ngân hàng là những doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính (tài trợ bằng nợ)
lớn nhất. Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) chiếm không quá 10% giá trị tổng tài sản.
Vốn nợ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng nguồn vốn của NHTM, được hình
thành chủ yếu từ hai nguồn tiền gửi và các khoản vay.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, thể
hiện các yêu cầu tài chính đối với ngân hàng từ phía doanh nghiệp, hộ gia đình và
Chính phủ. Có 5 loại hình tiền gửi chính:
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch). Đây là tiền của doanh nghiệp
hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong
phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được
ngân hàng thực hiện. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng
không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với
mức phí thấp.
- Tiền gửi tiết kiệm. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời
chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm), họ có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các
mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo
toàn.
- Tài khoản NOW. Đây là những tài khoản chỉ có thể được nắm giữ bởi cá
nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Đây là tài khoản hưởng lãi và cho phép người
gửi tiền phát séc để thực hiện thanh toán cho bên thứ ba.
- Tiền gửi có kỳ hạn. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân
hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Hình thức này có lãi suất cao hơn tiền
gửi thanh toán, tùy theo độ dài của kỳ hạn, nhưng không được áp dụng các hình
thức thanh toán như tiền gửi thanh toán.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác. Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và
một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại NHTM khác. Tuy nhiên quy
mô nguồn này thường không lớn.
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần, NHTM
thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước Ngân hàng Trung ương thường quy định tỷ
5
lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Vì vậy nhiều ngân hàng vào những
giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy
động bị hạn chế. Các khoản vay chủ yếu của ngân hàng là:
- Vay Ngân hàng Trung ương (NHNN). Đây là khoản vay nhằm giải quyết
nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ
(thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), NHTM thường vay Ngân hàng Trung
ương. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Trung ương là tái chiết khấu
(hoặc tái cấp vốn).
- Vay các tổ chức tín dụng khác. Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn
nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.
- Vay trên thị trường vốn. Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng
cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu)
trên thị trường vốn. Đây là các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các
nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn.
1.2.2. Hoạt động tín dụng
Hoạt động sinh lợi chủ yếu của các ngân hàng thương mại là hoạt động tín
dụng (cho vay). Cho đến hiện nay, khoản mục tài sản lớn nhất trong ngân hàng vẫn
là những khoản cho vay. Khoản mục này thường chiếm từ 1/2 đến 3/4 giá trị tổng
tài sản của ngân hàng.
Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của nhà quản lý ngân hàng là
kiếm được lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Mức
độ thanh khoản của các hợp đồng tín dụng, mặc dù là rất quan trọng, nhưng ở vào
vị trí thứ yếu. Những phát triển gần đây về “sự bảo đảm an toàn” đã góp phần tạo
ra thanh khoản cho các khoản cho vay khác nhau. Sự bảo đảm an toàn nảy sinh khi
các thưong phiếu hoặc tín phiếu được phát hành và dựa trên các khoản tín dụng có
liên quan, như tín dụng thương mại hoặc tín dụng tiêu dùng. Điều này cho phép
chủ nợ đầu tiên thu hồi vốn một cách gián tiếp, khi vốn vẫn đang hoạt động.
Nhà quản lý ngân hàng cũng phải quyết định phân chia vốn trong phạm vi các
khoản mục cho vay, nghĩa là vốn phải được phân thành các khoản cho vay tiêu
6
dùng, cho vay thương mại, cho vay bất động sản và các loại cho vay khác. Sự phân
chia này được thực hiện trên cơ sở khả năng sinh lợi và nhu cầu tín dụng, phù hợp
với các giới hạn và những quy định phải tuân theo.
1.2.3. Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và
dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng
đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy
nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối
các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện
thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các
trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao
khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh
toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng
rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong
thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân
hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng
hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh
toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
2.1. Khái niệm
Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển
giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng
thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận. Theo
lẽ đó, cho vay là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn gọi là tín
dụng ngân hàng). Cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất, là hoạt động chủ yếu
trong quan hệ tín dụng của NHTM, song đem lại rủi ro cao nhất cho NHTM.
Trong quan hệ cho vay thể hiện các nội dung sau:
7
+ Trái chủ, hay còn gọi là người cho vay, chuyển giao cho người thụ trái, hay
còn gọi là người đi vay, một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình
thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hóa, máy móc, thiết bị, bất động
sản.
+ Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau
khi hết thời hạn sử dụng theo thỏa thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho
vay. Trong quan hệ tín dụng người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả vào
một ngày nào đó trong tương lai mà hai bên đã thỏa thuận.
+ Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách
khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Marx viết: “Đem tiền cho vay với tư
cách là một việc có đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó, mà vẫn giữ
được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm trong quá trình vận
động”.
Như vậy quan hệ cho vay có thể được hiểu theo nghĩa rộng là sự vận dộng của
luồng vốn từ nơi đang tạm thời thừa sang nơi thiếu vốn, hoặc đang cần vốn. Quan
hệ cho vay có thể diễn ra giữa nhiều chủ thể khác nhau như doanh nghiệp, cá nhân,
ngân hàng, chính phủ...
2.2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại
2.2.1. Căn cứ vào mục đích
♦ Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
♦ Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ.
♦ Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…
8
♦ Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngân hàng còn cho vay để trang trải các chi phí
thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay
♦ Cho vay ngắn hạn. Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, được sử
dụng nhằm mục đích tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn
hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất và cá nhân. Đối với NHTM tín dụng
ngắn hạn chiếm tỉ trọng cao nhất.
♦ Cho vay trung hạn. Theo quy định hiện nay của Nhà nước Việt Nam, cho
vay trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm, còn đối với các nước trên thế giới
loại cho vay này có thời hạn đến 7 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng
các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp,
chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng: máy cày, máy bơm nước,
xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều, hồ tiêu…
♦ Cho vay dài hạn. Đây là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm (Việt Nam),
hoặc trên 7 năm (đối với các nước trên thế giới).
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài
hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, các dự án
lớn của quốc gia, xây dựng các xí nghiệp mới…
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
♦ Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả
năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa
vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ
sung.
9
♦ Cho vay có đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có tài
sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với các
khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có
đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn một
nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
2.2.4. Căn cứ vào hình thái tài sản
♦ Cho vay bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và việc thực
hiện bằng các kỹ thuật khác nhau như: tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời
vụ, tín dụng trả góp…
♦ Cho vay bằng hiện vật (thuê-mua). Hoạt động chủ yếu của NHTM là cho
vay để khách hàng mua tài sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, khách hàng
không đủ (hoặc chưa đủ) điều kiện vay. Để mở rộng tín dụng, NHTM đã mua các
tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê
thuộc sở hữu ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác
thuê khi người thuê không trả nợ được. Điều này góp phần giảm bớt thiệt hại cho
ngân hàng.
Hoạt động cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho
thuê tài chính. Cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn,
người đi thuê không có dự định “mua” tài sản đó để sử dụng lâu dài. Cho thuê tài
chính đáp ứng nhu cầu cho thuê trong thời gian dài và người đi thuê có quyền mua
tài sản khi hết hợp đồng thuê. Hoạt động cho thuê của NHTM chủ yếu là cho thuê
tài chính.
2.2.5. Căn cứ vào hình thức cho vay
♦ Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có
điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và
tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất
đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai
10
đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi món vay được tách biệt nhau
thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Cho vay từng lần
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát
từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
♦ Cho vay theo hạn mức. Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa
thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc
cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ
sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Cho vay theo hạn mức
Quy mô vay
Thời gian vay
: Quy mô và thời gian cho vay
Thời gian
Dư nợ
Dư nợ trong kỳ
Hạn mức được duyệt trong kỳ
11
Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không
được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp, ngân hàng quy định hạn mức
cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách
hàng phải trả nợ để giảm dư nợ, sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn
mức.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường
xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong
nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu
nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng.
Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng
khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn
đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
♦ Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để
mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Ngân hàng và khách hàng thỏa
thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng
hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một năm
hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng
xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không
Thời gian
Dư nợ
Hạn mức được duyệt cuối kỳ
Dư nợ
12
tùy mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của
khách hàng.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp
hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả
thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần
thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp
thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ (hàng hóa tồn đọng…) thì ngân
hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không
được quy định rõ ràng.
♦ Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố
định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả
năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu
nhập hàng kỳ của người tiêu dùng). Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với
người tiêu dùng thông qua hạn mức tín dụng.
Thời gian
Cho vay
Dự trữ hàng hóa (Tăng khi mua và giảm khi bán)
Vay ( ), trả( )
13
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua
trả góp. Khả năng tài trợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu
người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng
cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi
suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
♦ Cho vay hoàn trả theo yêu cầu (thấu chi):
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi
trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một thời hạn nhất định và
trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian
và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ
song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn
là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong
tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng…
Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao,
thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
Trục y: Số dư tiền gửi thanh toán (đồng)
Trục x: Thời gian
Hạn mức thấu chi
Vay ngân hàng (thực hiện thấu chi)
Số dư tiền gửi
x
y
14
2.2.6. Căn cứ vào mối quan hệ với người vay
♦ Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
♦ Cho vay gián tiếp, bao gồm các loại sau:
+ Chiết khấu thương mại (discount)
Người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn trong hạn thanh toán có thể
nhượng lại cho ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng cấp cho khách hàng
một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. Khi các chứng
từ này đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người có trách nhiệm
thanh toán cho ngân hàng. Cần lưu ý trong nghiệp vụ chiết khấu thương mại người
được cấp tín dụng và người chịu trách nhiệm thanh toán chính cho ngân hàng là hai
người khác nhau.
+ Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp
Do sự tác động của phương thức tiêu thụ hàng hóa gần phương pháp tiếp thị
mới đã thúc đẩy các ngân hàng thương mại đưa vào áp dụng loại cho vay gián tiếp.
Trong điều kiện hiện nay các doanh nghiệp thương mại đang tìm mọi biện pháp đã
cạnh tranh trong việc tiêu thụ hàng hóa, trong đó bán chịu hàng hóa được coi là
biện pháp để mở rộng tiêu thụ hàng hóa có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nguồn vốn của
các doanh nghiệp có hạn, vì vậy cần phải có nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua
nhượng lại các phiếu bán hàng trả góp.
Cho vay gián tiếp thông qua mua các phiếu bán hàng được thực hiện theo quy
trình như sau:
Ngân hàng Khách hàng
Cấp vốn (1)
Thanh toán nợ (2)
15
(1) Doanh nghiệp thương mại bán chịu hàng hóa cho người mua – người
tiêu dùng hoặc người nông dân
(2) Doanh nghiệp thương mại chuyển nhượng phiếu bán hàng trả góp cho
ngân hàng để được tài trợ vốn.
(3) Người mua thanh toán cho ngân hàng theo định kỳ.
+ Mua các khoản nợ của doanh nghiệp (nghiệp vụ factoring)
Nghiệp vụ factoring hay còn gọi là mua các tích trái là một hình thức tài trợ
vốn ngắn hạn. Nghiệp vụ này thường do các công ty mua nợ (factor) thực hiện
Nghiệp vụ factoring được thực hiện như sau:
(1) Khách hàng bán các tích trái (khoản phải thu theo hóa đơn) cho người
mua nợ (factor- thường là công ty con của ngân hàng )
(2) Người mua nợ thanh toán một khoản tiền bằng số tiền trên tài khoản
nợ trừ đi lãi và hoa hồng mà người mua nợ được hưởng, đồng thời người
mua nợ còn giữ lại một phần để phòng ngừa hàng trả lại.
(3) Khi đến hạn con nợ phải thanh toán cho người mua nợ.
Ngoài các loại cho vay trên đây, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo
lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ này ngân hàng
Ngân hàng Doanh nghiệp
thương mại
Người mua
(2)
(3) (1)
Khách hàng
(client)
Con nợ
(debtor)
Người mua nợ
(factor)
(2)
(1)
16
không phải cung cấp hàng tiền, nhưng khi người bảo lãnh không thực hiện được
nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ
thanh toán. Chính vì lí do trên đây mà người ta gọi hành vi cam kết bảo lãnh của
ngân hàng là tín dụng bằng chữ kí.
2.2.7. Tín dụng bằng uy tín của ngân hàng (nghiệp vụ bảo lãnh)
♦ Tín dụng chấp nhận: Tín dụng chấp nhận là việc khách hàng phát hành
một hối phiếu mà trong đó ngân hàng đóng vai trò là người thụ lệnh. Khách hàng
dùng hối phiếu này để chiết khấu ở một ngân hàng khác để nhận tiền. Trước khi
hối phiếu đến hạn thanh toán khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng thụ lệnh
để ngân hàng này chi trả cho ngân hàng chiết khấu.
Trong quan hệ này ngân hàng không phải là người thiếu nợ, mà ngân hàng cho
mượn uy tín của mình để khách hàng được vay vốn.
♦ Tín dụng chứng từ: Ngân hàng mở tín dụng chứng từ cho khách hàng là
nhà nhập khẩu và người hưởng thụ là nhà xuất khẩu ở nước ngoài. Điều này có
nghĩa là ngân hàng đã cam kết trả tiền khi nhà xuất khẩu đã gửi hàng và xuất trình
các chứng từ theo đúng các điều kiện của tín dụng thư.
♦ Bảo lãnh của ngân hàng: Trong hình thức tín dụng bằng chữ kí, bảo lãnh
là loại tín dụng được áp dụng phổ biến. Để đảm bảo thực hiện một nghĩa vụ của
khách hàng, ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho khách hàng bằng việc phát hành các
chứng thư bảo lãnh.
Chứng thư bảo lãnh là giấy cam kết của ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện nghĩa vụ.
Bảo lãnh ngân hàng có các loại thông dụng sau:
+ Bảo lãnh thuế quan: Ngân hàng phát hành chứng thư bảo lãnh cho nhà nhập
khẩu để người này được lấy hàng ra khỏi cảng mà chưa phải đóng thuế cho Nhà
nước. Người hưởng thụ của cam kết bảo lãnh này là tổ chức thuế quan của Nhà
nước.
+ Bảo lãnh khoản tiền giữ lại: Đối với các công trình xây dựng, bên chủ đầu tư
không thanh toán toàn bộ số tiền theo hợp đồng mà thường giữ lại một khoản
17
khoảng 10%. Khoản tiền 10% có thể giữ lại cho đến khi hoàn thành công trình và
được chủ đầu tư (bên A) nghiệm thu hoặc cũng có thể giữ lại trong một khoảng
thời gian sau khi đã hoàn thành công trình. Nếu chủ thầu xây dựng muốn nhận toàn
bộ số tiền theo hợp đồng thì phải được ngân hàng đứng ra bảo lãnh.
+ Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước: Nhiều người cung cấp yêu cầu
khách (người mua hàng hóa dịch vụ) phải đặt trước một phần tiền trong giá trị hợp
đồng cung cấp. Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có một phần vốn để sản xuất
kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải mua hàng đã đặt. Tuy
nhiên, đề phòng người cung cấp không cung cấp hàng đồng thời lại không trả tiền
đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có bảo lãnh của ngân hàng về việc sẽ
trả tiền ứng trước. Vậy bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của
ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua (người hưởng bảo lãnh)
nếu bên cung cấp (người được bảo lãnh) không trả.
+ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn
thất thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như
cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba.
Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hóa, xây dựng, thiết
kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không đúng hạn, không
đúng chất lượng cam kết… đều có thể gây tổn thất cho bên thứ ba. Bảo lãnh của
ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy
khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng.
+ Bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu: Là cam kết của ngân hàng với chủ đầu
tư (hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu.
Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu
thầu như đấu thầu cung cấp thiết bị, xây dựng. Để tìm kiếm được các nhà thầu có
đủ năng lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham dự
thầu như trúng thầu nhưng không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu
cầu của chủ đầu tư… chủ đầu tư thường xuyên yêu cầu bên dự thầu phải ký quỹ
(đặt cọc) dự thầu. Nếu vi phạm, bên dự thầu sẽ bị mất tiền ký quỹ. Do ký quỹ gây
18
ra nhiều thủ tục phiền phức cho cả hai bên, đặc biệt làm đọng vốn của bên tham gia
dự thầu, nhiều chủ thầu yêu cầu thay thế tiền ký quỹ bằng bảo lãnh của ngân hàng.
+ Bảo lãnh hoàn trả vốn vay (bảo lãnh vay vốn): Nhiều tổ chức tín dụng khi
cho vay đòi hỏi phải có đảm bảo hoặc bằng hàng hóa, chứng khoán, bất động sản,
hoặc bảo lãnh cả người thứ ba… Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức tín dụng có nhu
cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu song nếu uy tín của người vay trên thị
trường đó chưa cao, việc phát hành sẽ rất khó khăn. Điều đó nảy sinh nhu cầu bảo
lãnh vay vốn. Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân hàng đối với
người cho vay (tổ chức tín dụng, các cá nhân,…) về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn
nếu khách hàng (người đi vay) không trả được.
+ Bảo lãnh bảo đảm thanh toán: Là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh
toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của
ngân hàng không thanh toán đủ.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của NHTM
3.1. Các nhân tố khách quan
• Môi trường kinh tế
Doanh ngiệp hoạt động trong môi trường kinh tế, vì thế bất cứ sự biến động
nào của môi trường kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp tới doanh nghiệp, qua đó ảnh
hưởng gián tiếp tới ngân hàng. Nếu nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện
lợi cho hoạt động tín dụng phát triển lành mạnh. Khi đó, các quá trình sản xuất
kinh doanh trong nền kinh tế sẽ phát triển lành mạnh, các doanh nghiệp làm ăn có
lãi, khoản cho vay của ngân hàng được sử dụng có hiệu quả và có khả năng thu hồi
cao. Một khi môi trường kinh tế không ổn định, môi trường kinh doanh biến động
sẽ gây khó khăn cho hoạt động của người vay làm họ mất khả năng thanh toán cho
ngân hàng, dẫn đến ngân hàng cũng kinh doanh thua lỗ do không thu được nợ
• Môi trường xã hội
Các yếu tố như trật tự xã hội, an toàn an ninh xã hội có ảnh hưởng trực tiếp
đến lòng tin của khách hàng. Thật vậy, nếu như một địa bàn có an ninh trật tự
không tốt sẽ gây tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư, họ sẽ không bỏ vốn vào đó, hạn
19
chế nhu cầu vay vốn, ngân hàng sẽ không thể cho vay đươc. Hoặc ngân hàng lại
đóng trên một địa bàn có tình hình an ninh kém cũng sẽ không thu hút được các
nhà đầu tư đến liên hệ vay vốn, ngân hàng đó cũng không thể mở rộng cho vay.
• Môi trường pháp lý
Hoạt động của ngân hàng nằm trong hành lang pháp lý hẹp, chịu sự điều chỉnh
của Ngân hàng Trung ương để phù hợp với chính sách kinh tế của đất nước, và
phải tuân theo một hệ thống các văn bản pháp luật, văn bản dưới luật kết cấu với
nhau một cách chặt chẽ, thống nhất.
Nếu Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, kìm hãm
lạm phát thì ngân hàng thương mại không thể mở rộng cho vay. Ngược lại, nếu
Ngân hâng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, khuyến khích đầu tư,
thì ngân hàng thương mại có thể mở rộng cho vay.
Bên cạnh đó, các hoạt động của ngân hàng phải tuân thủ theo pháp luật. Nếu
những quy định của pháp luật không rõ ràng, đồng bộ, kịp thời sẽ gây khó khăn
trong hoạt động tín dụng, đồng thời cũng tạo tâm lý bất an cho doanh nghiệp, họ
không thể đẩy mạnh kinh doanh được. Ngược lại, một hệ thống pháp luật rõ ràng,
tạo môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh. Vì vậy nhân tố pháp luật có vị
trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay
nói riêng. Việc tuân thủ nghiêm túc các quy định của Ngân hàng Nhà nước, Luật
các tổ chức tín dụng, Luật dân sự… không chỉ giúp ngân hàng và doanh nghiệp yên
tâm kinh doanh mà cũng tạo ra sự canh tranh bình đẳng, chống độc quyền, thao
túng thị trường tín dụng.
• Môi trường chính trị
Môi trường chính trị phản ánh sự bình ổn của một quốc gia. Một đất nước
luôn có khủng bố, đảo chính, chiến tranh… thì không những nền kinh tế bị phá
hủy, phát triển chậm chạp mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư, không thu
hút được đầu tư. Do đó ngân hàng cũng không thể mở rộng cho vay, hoạt động của
ngân hàng cũng vì thế mà ỳ trệ, không phát triển được.
20
3.2. Các nhân tố chủ quan
• Về phía người vay
Doanh nghiệp đi vay có ảnh hưởng quan trọng đến quy mô và chất lượng
khoản vay. Nếu doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, có khả năng dự đoán các vấn
đề kinh doanh tốt, làm ăn với ngân hàng lâu năm, uy tín cao thì chắc chắn nhu cầu
tín dụng của họ sẽ được ngân hàng đáp ứng đầy đủ. Ngược lại nếu trình độ yếu
kém, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì, làm ăn thua lỗ… thì khả năng
ngân hàng cho vay là không có thể xảy ra, ngân hàng không mở rộng cho vay.
• Về phía NHTM
+ Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho cán bộ tín dụng ngân hàng thực
hiện một khoản cho vay tốt. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều
doanh nghiệp đến xin vay vốn, đảm bảo khả năng sinh lời của khoản vay. Căn cứ
vào chính sách tín dụng, cán bộ tín dụng sẽ biêt cách phân tán rủi ro, tuân thủ pháp
luật, đường lối chính sách của Nhà nước. Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp
tín dụng nói chung đều được xem xét và đưa ra trong chính sách như: quy mô, lãi
suất, kỳ hạn, tài sản đảm bảo, các khoản tín dụng có vấn đề… Điều này có nghĩa là
việc mở rộng cho vay doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào chính sách tín dụng của
ngân hàng đó.
+ Quy trình tín dụng. Để chuẩn hóa quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và
thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín
dụng. Đó là các bước mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong ngân
hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Nếu việc ứng dụng quy trình tín
dụng linh hoạt, có sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý giữa các bước sẽ vừa làm hài lòng
khách hàng tạo uy tín để khách hàng xin vay những nguồn vốn lớn, vừa đảm bảo
an toàn cho khoản vay, tạo điều kiện mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp.
+ Trình độ cán bộ. Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng có vai trò
quan trọng trong việc mở rộng cho vay. Với một đội ngũ cán bộ giỏi am hiểu
nghiệp vụ của mình thì việc lựa chọn đánh giá khách hàng chuẩn xác, mức độ an
toàn cao là cơ sở để ngân hàng có thể tin tưởng mở rộng quy mô cho vay của mình.
21
Nếu chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá
không tốt, cố tình làm sai… là những nguyên nhân dẫn tới mất tín nhiệm với doanh
nghiệp, hoạt động cho vay bị hạn chế.
+ Công nghệ ngân hàng. Trong thời đại công nghệ thông tin, khoa học kỹ
thuật như hiện nay, bất cứ ngành nghề nào cũng có sự đóng góp của công nghệ
hiện đại. Ứng dụng công nghệ vào trong ngân hàng giúp tăng tốc độ xử lý công
việc, tăng sự chính xác, khai thác được nhiều thông tin về doanh nghiệp để đưa ra
quyết định cho vay chính xác. Thủ tục giản tiện hơn cũng khuyến khích doanh
nghiệp tìm đến ngân hàng vay vốn
+ Hoạt động huy động vốn. Một trong những hoạt động chính của NHTM là
tìm kiếm các khoản vốn (huy động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Ngân
hàng càng thu hút được nhiều nguồn vốn thì càng có nhiều khả năng mở rộng cho
vay.
+ Thông tin tín dụng là những thông tin về khách hàng, môi trường kinh
doanh của khách hàng, tình hình kinh doanh của khách hàng… thông tin càng
chính xác, nhanh nhạy thì khả năng phòng ngừa rủi ro của ngân hàng càng lớn,
càng có cơ sở để mở rộng thêm nhiều loại hình cho vay phù hợp với nhu cầu của
khách hàng. Mặt khác, một ngân hàng với lượng thông tin phong phú có thể đưa ra
những tư vấn hữu ích cho khách hàng và đây cũng là yếu tố mở rộng quy mô cho
vay.
22
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHO VAY DOANH NGHIỆP
TẠI CHI NHÁNH ACB HÀ NỘI
1. Khái quát về chi nhánh ACB Hà Nội
1.1. Sự ra đời và nhiệm vụ chính của chi nhánh ACB Hà Nội
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (gọi tắt là ngân hàng ACB) là một
ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam đăng ký hoạt động tại nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp
giấy phép hoạt động số 0032/NH-GP ngày 24-04-1993. Vốn điều lệ ban đầu là 20
tỷ VND cho thời hạn hoạt động 50 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04-
06-1993. Năm 1994, ngân hàng tiếp tục tăng vốn điều lệ lên 70 tỷ VND, năm 1996
vốn điều lệ là 341 tỷ VND, năm 2003 ACB lại tăng vốn điều lệ lên 424 tỷ VND và
tính đến ngày 23-08-2005 vốn điều lệ của ACB là 948,32 tỷ VND.
Sau hơn 10 năm hoạt động, đến nay ACB đã có 61 chi nhánh và phòng giao
dịch tại những vùng kinh tế phát triển trên toàn quốc.
• Tại TP Hồ Chí Minh: 23 chi nhánh và 13 phòng giao dịch
• Tại khu vực phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh): 6 chi
nhánh và 6 phòng giao dịch
• Tại khu vực miền Trung (Đà Nẵng, Daklak, Khánh Hoà, Hội An, Huế): 5
chi nhánh và 1 phòng giao dịch
• Tại khu vực miền Tây (Cần Thơ, An Giang, và Cà Mau): 3 chi nhánh
• Tại khu vực miền Đông (Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu): 3 chi nhánh
và 1 phòng giao dịch.
• 5.584 đại lý chấp nhận thanh toán thẻ của Trung tâm thẻ ACB (31/12/2005)
• 360 đại lý chi trả của Trung tâm chuyển tiền nhanh ACB-Western Union
(tháng 03/2005)
• E-banking.
23
Trong hệ thống ngân hàng ACB thì Chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần
Á Châu tại Hà Nội (viết tắt là ACB Hà Nội) là chi nhánh cấp một đầu tiên trên cả
nước, đã được khai trương và đi vào hoạt động từ ngày 14/12/1993, tại địa chỉ 184
- 186 Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hiện nay ACB Hà Nội có một chi nhánh
cấp hai là chi nhánh Cửa Nam tại 6 Nguyễn Thái Học và năm phòng giao dịch
(PGD) là:
- PGD Kim Liên tại số 1 Chùa Bộc, quận Đống Đa
- PGD Bát Đàn tại 46B Phố Bát Đàn, quận Hoàn Kiếm
- PGD Chùa Hà tại 18 Trần Đăng Ninh, quận Cầu Giấy
- PGD Ngọc Lâm tại 225 Phố Ngọc Lâm, quận Long Biên
- PGD Nội Bài tại Khu C, tầng 1, Sân Bay Quốc tế Nội Bài
Nhiệm vụ chính của ACB Hà Nội là cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng nhằm phục vụ tốt nhất, đáp ứng tốt nhất nhu cầu cho mọi đối tượng khách
hàng. Đồng thời đóng góp vào sự phát triển chung của ngân hàng ACB cũng như
cả hệ thống ngân hàng Việt Nam. Những sản phẩm dịch vụ chính mà ACB Hà Nội
cung cấp bao gồm:
• Huy động vốn (nhận tiền gửi của khách hàng) bằng đồng Việt Nam, ngoại
tệ và vàng
• Sử dụng vốn (cung cấp tín dụng, đầu tư, hùn vốn liên doanh) bằng đồng
Việt Nam, ngoại tệ và vàng
• Các dịch vụ trung gian (thực hiện thanh toán trong và ngoài nước, thực hiện
dịch vụ ngân quỹ, chuyển tiền kiều hối và chuyển tiền nhanh, bảo hiểm
nhân thọ qua ngân hàng.
• Kinh doanh ngoại tệ và vàng.
• Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ.
Bên cạnh đó ACB còn là nơi đặt chi nhánh của Công ty cổ phần địa ốc ACB
(công ty liên kết với ngân hàng ACB) hoạt động trong lĩnh vực bất động sản.
24
1.2. Cơ cấu tổ chức của ACB Hà Nội
Cơ cấu tổ chức của ACB Hà Nội gồm 01 giám đốc, 02 phó giám đốc và các
khối, phòng ban: Phòng tổ chức hành chính, Phòng kế toán, Bộ phận pháp lý chứng
từ, Bộ phận thẻ, Bộ phận thẩm định tài sản, Tổ xử lý nợ, Phòng khách hàng doanh
nghiệp và Phòng khách hàng cá nhân.
Giám đốc phụ trách các công việc chung của ngân hàng. 01 phó giám đốc phụ
trách và chịu trách nhiệm về hoạt động tín dụng. 01 phó giám đốc phụ trách về hoạt
động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ.
1.2.1. Phòng tổ chức hành chính
Phòng tổ chức hành chính thực hiện các công tác hành chính, tổ chức của chi
nhánh. Nhiệm vụ chung của phòng tổ chức hành chính:
• Tham mưu cho giám đốc và hướng dẫn cán bộ thực hiện các chế độ, chính
sách của pháp luật về trách nhiệm, quyền lợi của người sử dụng lao động và
người lao động; tham mưu việc tổ chức, sắp xếp bố trí nhân sự.
• Lập kế hoạch và tổ chức tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu hoạt động của
chi nhánh. Thực hiện chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm của cán bộ nhân
viên, quản lý lao động, ngày công lao động, việc thực hiện nội quy của cơ
quan.
• Làm công tác cơ yếu, văn thư, hành chính, lưu trữ, in ấn, điện thoại,
telex/fax, liên lạc, tống đạt văn thư phục vụ cho hoạt động của ngân hàng.
• Trang bị, sửa chữa và bảo quản tài sản, kho tàng, nhà cửa, vật tư kỹ thuật,
thiết bị máy móc và phương tiện làm việc cho ngân hàng.
• Lập dự toán và thực hiện dự toán chi tiêu hành chính của chi nhánh.
• Làm công tác lễ tân.
• Làm công tác lao vụ.
• Làm công tác y tế, bảo hiểm.
• Bảo quản và sử dụng xe công tác.
• Làm công tác tổ chức cán bộ.
25