Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

nghiên cứu giải pháp việc làm cho lao động nông thôn ở vùng đô thị hóa thuộc thành phố bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.66 KB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

NGUYỄN VIỆT GIANG
NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP VIỆC LÀM CHO
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở VÙNG ĐÔ THỊ HOÁ
THUỘC THÀNH PHỐ BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 31 10
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Đỗ Kim Chung
HÀ NỘI - 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được sử
dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi việc giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã
được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Bắc Ninh, tháng 10 năm 2011
TÁC GIẢ
Nguyễn Việt Giang
i
LỜI CẢM ƠN
*
Thông qua Luận văn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới
viện sau Đại học Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội, Tỉnh uỷ - HĐND -
UBND Tỉnh Bắc Ninh, Sở lao động, thương binh và xã hội Tỉnh, Thành uỷ -
HĐND - UBND Thành phố Bắc Ninh và các thày, cô giáo đã đào tạo giúp
đỡ, cung cấp tài liệu phối hợp hỗ trợ tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu. Đặc biệt là giáo sư - tiến sĩ ĐỖ KIM CHUNG đã trực tiếp hướng dẫn
và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, viết và hoàn thiện luận văn.


Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các tập thể, cá nhân, bạn bè và gia
đình đã quan tâm và giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và viết luận văn này.
Bắc Ninh, tháng 10 năm 2011
TÁC GIẢ
Nguyễn Việt Giang
ii
DANH MỤC VIẾT TẮT
DDI : Vốn đầu tư trong nước
ĐH : Đại học
DN : Doanh nghiệp
FDI : Vốn Đầu tư nước ngoài
GDP : Tổng thu nhập quốc dân
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
LĐTBXH : Lao động thương binh xã hội
PTNT : Phát triển nông thôn
THCS : Trung học cơ sở.
THPT : Trung học phổ thông.
TNHH : Trach nhiệm hữu hạn
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
TW : Trung ương
UBND : Ủy ban nhân dân.
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
DANH MỤC VIẾT TẮT iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU vii

PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
A. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
B. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2
1. Mục tiêu chung 2
2. Mục tiêu cụ thể 2
3. Câu hỏi nghiên cứu 3
C. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3
1. Đối tượng nghiên cứu 3
2. Phạm vi nghiên cứu 3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN VÙNG ĐÔ THỊ HOÁ 4
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 4
1.1.1 Lao động nông thôn và đặc điểm của lao động nông thôn 4
1.1.2 Đô thị hóa và tác động của đô thị hóa đến việc làm của lao động
nông thôn 12
1.1.3 Việc làm và một số lý thuyết hiện đại về giải quyết việc làm 22
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn trong quá trình đô thị hóa 25
1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN 33
1.2.1 Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong quá trình đô thị hóa 33
1.2.2 Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước 37
1.3. MỘT SỐ BÀI HỌC RÚT RA TRONG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA 50
CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 52
iv
2.1 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 52
2.1.1 Tổng quan thành phố Bắc Ninh 52
2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 58
2.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 58
2.2.2 Phương pháp thu thập thông tin 59

2.2.3 Phương pháp xử lý thông tin 61
2.2.4 Phương pháp phân tích 61
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 64
3.1 THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYấT VIỆC LÀM CHO
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN VÙNG ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ
BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 64
3.1.1. Thực trạng việc làm của lao động nông thôn trong vùng đô thị
hóa 64
3.1.2 Thực trạng của việc áp dụng những giải pháp giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn vùng đô thị hóa giai đoạn 2006 - 2010
và những kết quả đạt được 66
3.1.3. Đánh giá chung về tình hình giải quyết việc làm trong quá trình
đô thị hoá ở thành phố Bắc Ninh 79
3.1.4. Những vấn đề đặt ra trong giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn vùng bị thu hồi đất ở thành phố bắc ninh 83
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ NHỮNG ĐỀ
XUẤT CHO GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO
ĐỘNG NÔNG THÔN VÙNG ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ BẮC
NINH TRONG NHỮNG NĂM TIẾP THEO 90
3.2.1 Phương hướng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
vùng đô thị hóa ở thành phố Bắc Ninh trong những năm tiếp theo
90
3.2.2 Những đề xuất cho giải pháp giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn vùng đô thị hóa thuộc thành phố Bắc Ninh trong thời
gian tới 95
v
3.3 NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG
THÔN VÙNG ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ BẮC NINH TRONG
NHỮNG NĂM TIẾP THEO 108

Phần III: KẾT LUẬN 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Số TT SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU TRANG
Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất thành phố Bắc Ninh năm 2010 53
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố Bắc Ninh 54
Bảng 2.3: Tỷ trọng cơ cấu kinh tế các ngành của Thành phố 54
Bảng 2.4: GDP bình quân đầu người (Theo giá cố định năm 1994) 55
Bảng 3.1: Tình hình dân số và nguồn lao động trên địa bàn thành phố Bắc Ninh
trong năm 2007, 2008 , 2009;2010 64
Bảng 3.2: Cơ cấu lao động trên địa bàn thành phố Bắc Ninh 66
Bảng 3.3: Kết quả giải quyết việc làm từ 2007-2010 70
Bảng 3.4: Phân tích lao động được giải quyết việc làm theo các lĩnh vực: 71
Bảng 3.4: Phõn tích lao động được giải quyết việc làm theo các lĩnh vực 72
Bảng 3.5: Kết quả công tác dạy nghề của thành phố được tổng hợp theo biểu dưới
đây 73
Bảng 3.6: Dự báo tình hình phát triển dân số và nguồn lao động từ 2010-2015 90
Bảng 3.7: Dự kiến cụ thể dân số và nguồn lao động từ 2010-2015 91
Bảng 3.8: Dự kiến cơ cấu lao động theo các ngành từ 2010-2015 91
Bảng 3.9: Kế hoạch giải quyết việc làm cho người lao động từ 2010-2015 93
Bảng 3.10: Mục tiêu kế hoạch đào tạo nghề từ năm 2010-2015 95
vii
PHẦN I: MỞ ĐẦU
A. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Giải quyết việc làm cho người lao động giúp họ ổn định đời sống đó là vấn
đề cốt yếu để đảm bảo sự phát triển vững chắc của bất kỳ một quốc gia, một chế
độ chính trị nào. Ở Việt Nam, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế (từ
sau đại hội đảng lần thứ 6), cơ cấu lao động, vấn đề việc làm của người lao động
đó cú những thay đổi đáng kể: tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp giảm (do

diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp), tỷ trọng lao động các ngành phi
nông nghiệp có xu hướng tăng, bên cạnh đó cũng phải kể đến một tỷ lệ không
nhỏ lao động thiếu và không có việc làm.
Tại thành phố Bắc Ninh từ khi tỉnh Bắc Ninh được tái lập, Thành phố Bắc
Ninh trở thành trung tâm tỉnh lỵ thì vấn đề phát triển kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đó luụn được các cấp ủy đảng, chính quyền nhất quán
chỉ đạo thực hiện. Thực tế hơn 10 năm qua cho thấy việc phát triển nhanh chúng
cỏc khu đô thị, khu công nghiệp tại nơi đây đã làm thay đổi đáng kể diện mạo
của Thành phố Bắc Ninh.
Tuy nhiên, cùng với việc phát triển nhanh đô thị, việc thu hồi và chuyển
đất nông nghiệp sang nhu cầu xây dựng đô thị và khu công nghiệp thực hiện
khá khẩn trương: từ năm 1997 đến nay, Thành phố đó thu hồi trên 2000 ha
đất nông nghiệp, kéo theo một lượng lao động khá lớn mất và không có việc
làm. Theo số liệu điều tra Thành phố Bắc Ninh có khoảng 15.959 lao động
không có việc làm (thất nghiệp), chiếm 9,8% dân số và hơn 10% số lao động
trong độ tuổi; tổng số lượng người lao động yêu cầu có việc làm ở Thành phố
mỗi năm có khoảng 5.600 người, phát sinh từ các nguồn: lao động mất đất
nông nghiệp, bộ đội xuất ngũ, học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học,
(UBND Thành phố Bắc Ninh)
Vấn đề đặt ra phải có giải pháp tích cực trong đó việc nghiên cứu ban hành
chính sách để giải quyết việc làm cho số lao động này và cả lực lượng tồn từ
năm 2010 trở về trước là hết sức cấp bách và bức xúc, đảm bảo ổn định tình hình
1
và góp phần sớm đưa Thành phố Bắc Ninh đạt mục tiêu trở thành đô thị loại II
trước năm 2015.
Mặc dù, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động, nhưng khi được áp dụng vào thực tế thỡ cũn nhiều điều
chưa thực sự phù hợp. Việc nghiên cứu hoàn thiện chính sách việc làm cho các đô thị
đang trong quá trình phát triển nói chung và Thành phố Bắc Ninh nói riêng có ý
nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn cần trả lời.

Về mặt lý luận giúp làm rõ lý luận và quan điểm về giải quyết việc làm cho
người lao động tại các đô thị trong qỳa trỡnh đô thị hoá.
Về mặt thực tiễn đề tài sẽ góp phần đánh giá thực trạng lao động và việc
làm, những vấn đề đặt ra và phương hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách
nhằm giải quyết có hiệu quả tình hình thiếu việc làm trên địa bàn Thành phố
Bắc Ninh trong quá trình đô thị hoá rất nhanh như hiện nay.
Để làm rõ cho các vấn đề nêu trên tôi tiến hành thực hiện đề
tài:“Nghiờn cứu giải pháp việc làm cho lao động nông thôn ở vùng đô thị hoá
thuộc Thành phố Bắc Ninh ”.
B. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu giải pháp và đề xuất chính sách việc làm cho lao động nông
thôn ở vùng đô thị hóa thuộc Thành phố Bắc Ninh.
2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn ở vùng đô thị hóa.
- Đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn vùng đô thị hóa thuộc Thành phố Bắc Ninh.
2
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu và đề xuất chính sách việc làm cho lao
động nông thôn vùng đô thị hóa của địa phương.
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn nào làm rõ vấn đề việc làm và giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn vùng đô thị hóa ?
- Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong
vùng đô thị hóa của địa phương ra sao?
- Giải pháp và chính sách nào nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn thuộc vùng đô thị hóa thuộc Thành phố Bắc
Ninh?
C. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu một số giải pháp chủ yếu và đề xuất chính
sách việc làm cho lao động thụng thụn vựng đô thị hóa thuộc Thành phố Bắc
Ninh.
Đối tượng khảo sát là lực lượng lao động nông thôn trong độ tuổi lao động
vùng đô thị hóa.
2. Phạm vi nghiên cứu
* Nội dung:
Trong phạm vi đề tài chúng tôi chủ yếu nghiên cứu thực trạng việc làm và
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn vùng đô thị hóa trên cơ sở đó đưa ra
các giải pháp về việc làm cho lao động nông thôn vùng đô thị hóa thuộc Thành
phố Bắc Ninh.
* Không gian:
Đề tài được thực hiện trên địa bàn thành phố Bắc Ninh đặc biệt là những
vùng đô thị hóa.
* Thời gian:
Đề tài nghiên cứu thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động
của địa phương trong giai đoạn từ 2005-2010.
3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN VÙNG
ĐÔ THỊ HOÁ
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
Một số lý luận về:
- Lao động nông thôn và đặc điểm của lao động nông thôn;
- Đô thị hóa và tác động của nó đến việc làm của lao động nông thôn;
- Việc làm và một số lý thuyết hiện đại về giải quyết việc làm;
- Các nhân tố ảnh hưởng tới giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
trong quá trình đô thị hóa.
1.1.1 Lao động nông thôn và đặc điểm của lao động nông thôn

Lao động nông thôn là lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh nông nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của lao động nông thôn gán
liền với đối tượng cây trồng, vật nuôi có những đặc điểm rất riêng, không giống
với lao động ở các lĩnh vực khác. Có thể chỉ ra một số đặc điểm của lao động
nông thôn như sau (chủ yếu là của lao động nông thôn ở nước ta).
1.1.1.1 Cung lao động nông thôn mang tính chất tự có
Đây là đặc điểm cơ bản tạo nên sự không ăn khớp giữa cung lao động
nông thôn với cầu lao động nông thôn và cầu lao động cả nước. Đặc điểm này
xuất phát từ nhũng lý do sau đây:
- Cung lao động nông thôn chủ yếu là do dân số quyết định. Sinh đẻ cung
cấp lao động tương lai cho thị trường sức lao động không thuần túy là hành vi
sản xuất “hàng húa” theo nhu cầu của thị trường như những hàng hóa khỏc. Cỏc
nghiên cứu hiện nay về gia đình cho thấy, gia đình nông dân, nông thôn có ba
chức năng cơ bản
Thứ nhất, chức năng sinh đẻ để duy trì nòi giống
Thứ hai, chức năng làm kinh tế để tồn tại và phát triển
Thứ ba, chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đào tạo những người chưa đến
độ tuổi lao động và quá tuổi lao động.
4
Thực tiễn tăng dân số ở các nước trên thế giới và trong từng quốc gia cho
thấy, chức năng sinh đẻ duy trì nòi giống thường không vận động cùng chiều với
trình độ phát triển và hoàn cảnh của kinh tế. Hiện tượng phổ biến là: 1- Các nước
phát triển có tốc độ tăng dân số và lao động tăng tự nhiên thấp hơn các nước
đang phát triển và các nước nghèo; 2 – Trong mỗi quốc gia, bình quân số con đẻ
ra của một phụ nữ nông thôn trong độ tuổi sinh đẻ cao hơn ở thành thị và bình
quân số con của một phụ nữ chí thức thường thấp hơn cỏc nhúm xã hội khác. Ở
nước ta tình hình cũng diễn ra tương tự.
Như vậy, khác với sản xuất hàng hóa thông thường chủ yếu dựa vào nhu
cầu thị trường, còn hàng hóa sức lao động thì không hoàn toàn như vậy. Dưới
đây là so sánh những khác biệt giữa quá trình sản xuất hàng hóa thông thường

với sản xuất hàng hóa sức lao động của các gia đình nông dân nông thôn
Hàng hóa Thông thường Sức lao động
Mục đích Sản xuất để bán sản phẩm
cho nhu cầu thị trường
Bản năng tự nhiên, chức năng cơ
bản của gia đình, duy trì nòi
giống, nối dõi tụngđường…
Quy mô hàng
hóa
Phụ thuộc vào quy mô,
nhu cầu thị trường
Khả năng nguồn lực của
doanh nghiệp. Khả năng
ít, sản xuất sẽ ít
Không phụ thuộc, thậm chí không
quan tâm tới nhu cầu thị trường
sức lao động
Nguồn lực gia đình càng ít, sinh
đẻ càng nhiều
Nhân tố ảnh
hưởng tới chất
lượng hàng hóa
Thời gian ngắn và thuần
túy trong doanh nghiệp
Công nghệ và thiết bị,
trình độ của người sản
xuất
Phải qua hàng chục năm và là kết
quả của ba quá trình: đẻ, nuôi,
dạy.

Gia đình, xã hội, người lao động.
Tính chủ động
trong sản xuất
Mức độ cao trong chủ
động lựa chọn mặt hàng
Chủ động tạo ra cơ cấu,
chủng loại theo nhu cầu
thị trường và lựa chọn
nguyên liệu, thiết bị, công
nghệ
Không chủ động được trong việc
lựa chọn giới tính. Nếu dùng khoa
học thuần túy sẽ dẫn đến nhiều
nguy cơ lâu dài cho xã hội
Người “sản xuất” không hoàn
toàn chu động trong quyết định
chất lượng sản phẩm
5
Như vậy, ngay từ đầu, nguồn cung lao động nông thôn đó cú sự không
tính toán từ cầu lao động,từ sự cân đối giữa lao động với các điều kiện để tạo
việc làm trong tương lai như vốn, tư liệu sản xuất, tốc độ tăng trưởng và cơ cấu
việc làm của xã hội.
Lao động nông thôn là một bộ phận của dân số gắn liền với đặc điểm từng
gia đình, dân tộc, tụn giỏo… Là sản phẩm của dân cư nông thôn nên lao động
nông thôn có độ thuần nhất, đồng đều thấp hơn ở thành thị, thậm chí khác nhau
giữa các dân tộc trong một xã, một huyện. Dấu ấn mà mỗi lao động trưởng thành
từ cỏc vựng nông thôn mang nặng tính riêng biệt của vùng xuất cư và hàm chứa
nhiều mặt tích cực nhưng cũng có vô vàn hạn chế của từng làng, xã, dòng họ,
dân tộc, tôn giáo, gia đình.
1.1.1.2 Cầu lao động nông thôn có tính chất thời vụ

Cầu lao động nông thôn có tính chất thời vụ bắt nguồn từ sự khác biệt
giữa sản xuất nông nghiệp với sản xuất công nghiệp và các ngành kinh tế dịch vụ
khác. Nếu trong công nghiệp, người lao động tiến hành quá trình sản xuất, thì
đồng thời đó cũng là quá trình tạo ra sản phẩm. Còn trong nông nghiệp thì không
phải như vậy. Do đối tượng của sản xuất nông thôn gắn liền với cây trồng vật
nuôi nên quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình gắn kết giữa hoạt động kinh
tế của con người với chu kỳ sống của cây trồng vật nuôi. Chính điều này làm cho
cầu lao động nông thôn mang sắc thái riêng – có tính thời vụ. Lúc thì cầu lao
động nông thôn cao(vớ dụ trồng lúa 2,3 vụ trong năm thì sẽ có 4 đến 6 thời điểm
cần cầu lao động nông thôn cao – đó là thời điểm gieo cấy và thu hoạch), lúc lại
nhàn rỗi(khụng phải thời điểm mùa vụ). Tình trạng thiếu việc làm tạm thời của
lao động nông thôn là phổ biến. Do thu nhập thấp, thời gian nhàn rỗi lại tương
đối dài, nên lao động nông nghiệp, nông thôn đều muốn tìm kiếm việc làm thêm.
Thực tế có người tìm được việc làm thêm, có người không. Những người không
tìm được việc làm thêm này là nhưng người thất nghiệp tạm thời, tức là thất
nghiệp phát sinh do thay đổi các giai đoạn làm việc trong sản xuất nông nghiệp,
6
do tính chất thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Đây là phạm trù dùng để phân
biệt với thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp chu kỳ.
Trong các nền kinh tế phát triển, sản xuất nông nghiệp được công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, năng suất lao động rất cao, thời gian làm việc ngoài đồng của
nông dân ít hơn với nông dân các nước đang phát triển, nhưng do phát triển đa
canh, phát triển công nghiệp chế biến nông sản, nên thời gian nhàn rỗi của nông
dân các nước này giảm xuống. Mặt khác, do năng xuất lao động nông nghiệp
cao, thu nhập của người làm nông cao, thậm chí còn cao hơn những người làm
việc trong khu vực công nghiệp, dịch vụ, vì thế họ không có nhu cầu tìm kiếm
việc làm thêm. Tình trạng thất nghiệp tạm thời(nụng nhàn) ở các nước này
không bức thiết. Thực tế ở nước ta lại khác hẳn, do lực lượng lao động nông
nghiệp đông, đất đai canh tác nông nghiệp ớt(bỡnh quõn đất nông nghiệp cho
một nhân khẩu nông nghiệp là 0,17ha, chỉ tiêu này của Campuchia là 0,54ha,

Thái lan là 0,66ha… - theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tư liệu của các nước
ASEAN). Năng suất lao động của lao động nông thôn thấp(năng suất lao động
nông nghiệp nông thôn của ta chỉ bằng 75.7% của Trung Quốc, 0.8% của Nhật
bản, 0.4% của Đan Mạch… - theo Báo cáo phát triển thế giới 2005, Nxb. Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 2004, tr.374.), nên tình trạng thất nghiệp tam thời của lao
động nông thôn lớn, trở thành một vấn đề kinh tế - xã hội cấp thiết cần phải được
giải quyết. Nguyên thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải đã khẳng định, nếu một
lao động nông nghiệp phải làm việc 250 ngày trong một năm thì lực lượng lao
động nông nghiệp bị dôi dư khoảng 9 đến 10 triệu lao động.
1.1.1.3 Chất lượng lao động nông nghiệp nông thôn thấp
Không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các quốc gia trên thế giới, chất lượng
nguồn lực lao động nông nghiệp, nông thôn đều thấp hơn ở thành thị. Mặc dù,
trong xếp hạng chỉ số phát triển con người(HDI), Việt Nam thường được xếp cao
hơn nhiều nước cùng thu nhập theo đầu người do thành công của phát triển giáo
dục – đào tạo, nhưng tổng thể - ngoài căn bệnh chạy theo thành tích, kê khai
không đúng sự thật thì chất lượng giáo dục – đào tạo của Việt Nam còn rất thấp.
7
Các kết quả nghiên cứu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, nhiều
cơ quan và cá nhân đều cho thấy chất lượng thấp kém của nguồn lực lao động
nông thôn. Sự thấp kém này không chỉ thể hiện ở trình độ tay nghề mà còn ở thể
chất, thái độ, thói quen lao động… Cá biệt, còn một bộ phận không nhỏ lao động
nông thôn thiếu ý thức vươn lên, ỷ lại vào nhà nước và cộng đồng, nặng về khai
thác tự nhiên. Kết quả nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo của Việt Nam cho thấy
đang tồn tại một bộ phận nông dân được nhà nước và cộng đồng cấp đất nông
nghiệp, cho vay vốn, hướng dẫn làm ăn… nhưng không đủ bản lĩnh và ý chí
vươn lên.
Ở nước ta, kỹ năng phổ biến của lao động nông nghiệp, nông thôn là trồng
lương thực, trước hết là trồng lúa. Thuần nông, thuần trồng trọt diễn ra nhiều thế
kỷ nên kỹ năng của đa số lao động nông nghiệp nông thôn là canh tác trồng trọt.
Trong hoàn cảnh đó, đất đai là phương tiện sinh tồn gần như là duy nhất đối với

đa số nông dân Việt Nam. Để tạo cho người nông dân có việc làm, thu nhập khỏi
lâm vào bần cùng, sau giải phóng nông dân khỏi ách bóc lột của đế quốc, phong
kiến, Nhà nước Việt Nam và nhiều Nhà nước khác buộc phải thực hiện cải cách,
điều chỉnh đất đai, thực hiện yêu cầu “người cày có ruộng”. Yêu cầu này không
chỉ thể hiện sự quan tâm của nhà nước đến nông dân về mặt chính trị mà còn về
mặt kinh tế. Bởi vì, kỹ năng duy nhất của người nông dân là làm nông nghiệp,
thuần trồng trọt. Họ chủ yếu được truyền kinh nghiệm canh tác từ thế hệ trước.
Vì thế cung cấp cho nông dân đất đai chính là cung cấp cho họ phương tiện đầu
tiên để có việc làm, thu nhập. Yêu cầu này đã phần nào chi phối việc chia đất đai
cho nông dân sau chỉ thị 100(1 - 1981), Nghị quyết 10(4 - 1988) và các bộ luật
đất đai trong những năm đổi mới. Như vậy, trong chính sách đất đai hiện nay,
việc dồn điền đổi thửa là việc có thể làm nhanh, còn việc tích tụ đất đai nhiều
hơn cho một số hộ nông dân là việc làm không đơn giản. Bởi vì, thực chất của
dồn điền đổi thửa chỉ là chuyển đổi vị trí đất đai giữa các hộ nông dân, làm cho
đất đai của các hộ nông dân ít thửa hơn, ít cánh đồng hơn, mở đường cho cỏc
8
vựng chuyên canh , thúc đẩy hiện đại hóa nông nghiệp; còn thực chất của việc
tích tụ đất đai vào một số hộ nhiều hơn là biến một bộ phận nông dân từ ít đất
thành nhiều đất và một số hộ nông dân từ nhiều đất hoặc ít đất thành người ít đất
hoặc không có đất nông nghiệp.
Cần nhận thức rằng ở tất cả các nước trên thế giới và ở Việt Nam, cơ cấu
lao động và cơ cấu hộ dân cư đều vận động theo những xu hướng có tính quy
luật sau đây:
Thứ nhất, từ hộ nông dân chiếm vị trí tuyệt đối trong nông thôn chuyển
sang xuất hiện những hộ chuyên công nghiệp,dịch vụ nông thôn và hộ nông
nghiệp kiêm công nghiệp, dịch vụ và tỷ lệ hộ thuần nông ngày càng giảm; tỷ lệ
hộ nông nghiệp kiêm công nghiệp, dịch vụ và hộ chuyên công nghiệp, dịch vụ
trong nông thôn ngày càng tăng.
Thứ hai, từ lao động nông nghiệp chiếm vị trí tuyệt đối chuyển sang xuất
hiện lao động chuyên công nghiệp, dịch vụ và lao động nông nghiệp kiêm công

nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Như vậy nếu để quá trình trên tự thân vận động, “tự tìm đường đi” thỡ cỏc
xu hướng trên vận động sẽ rất chậm. Vấn đề là làm thế nào để nhà nước, cộng
đồng và dân cư nông thôn chủ động thúc đẩy các xu hướng đó tiến nhanh, hợp
quy luật mà không gây hậu quả xấu.
Việc di chuyển đất đai của nông dân này cho nông dân khác để đảm bảo
quy mô bình quân đất đai cho một đơn vị kinh doanh nông nghiệp là yêu cầu
bức thiết. Tuy vậy việc làm này chỉ có hiệu quả kinh tế - xã hội tốt nếu thực
hiện tốt các việc sau đây: 1 – tạo việc làm phi nông nghiệp để những hộ nông
dân chuyển sang phi nông nghiệp có nhiều việc làm, thu nhập cao hơn và ổn
định hơn khi làm nông nghiệp; 2 – Nâng cao chất lượng nguồn lao động nông
nghiệp nông thôn nước ta không những có thể tự tạo việc làm phi nông nghiệp
tại nông thôn hoặc đủ năng lực để tham gia vào thị trường sức lao động ở thành
thị hoặc xuất khẩu.
9
1.1.1.4 Lao động nông nghiệp nông thôn hoạt động ở quy mô hộ gia đình
Sự phân công lao động trong gia đình nông dân chưa thật rạch ròi. Hiện
tượng lao động gia đình nông dân vừa làm nông nghiệp vừa làm công nghiệp
dịch vụ là hiện tượng mang tính phổ biến. Trong các gia đình nông dân, hiện
tượng buổi sáng làm nông nghiệp, buổi chiều làm công việc phi nông nghiệp
hoặc những lúc nông nhàn thì đi làm thuê ở thành thị, làm thuê cho các chủ trang
trại, chủ làng nghề, v.v…
Tính chất gia đình của lao động không chỉ thể hiện trong khi thực hiện
quá trình lao động mà còn ở phân phối kết quả, thụ hưởng lợi ích. Ở đây, hình
thành những nguyên tắc gia đình rất linh hoạt trong phân công lao động và thụ
hưởng kết quả. Nếu đưa những nguyên tắc thói quen gia đình của nông dân vào
các hoạt động kinh tế - xã hội khác sẽ không thành công. Tính chất gia đình của
lao động nông nghiệp, nông thôn vừa tạo thuận lợi cho sự bền vững của kinh tế
tiểu nông, sự bền vững của gia đình nhưng vừa gây khó khăn cho sự hòa nhập
của lao động nông nghiệp, nông thôn vào thị trường sức lao động đòi hỏi tính

chuyên môn hóa, sự sòng phẳng trong làm việc và thụ hưởng ngày càng cao.
Như vậy khi mất đất nông nghiệp, lao động nước ta phải “nhảy một bước”
quá xa, không chỉ khác nhau về nghề nghiệp mà còn khác nhau về quan hệ lao
động. Bước nhảy này chưa được tạo lập bởi ngành nghề phi nông nghiệp, nền
nông nghiệp hàng hóa và đa số hộ nông dân Việt Nam vẫn chưa được rèn luyện
trong cơ chế thị trường.
1.1.1.5 Khả năng tự tạo việc làm của lao động nông nghiệp, nông thôn hạn chế
- Do bình quân đất nông nghiệp đầu người thấp
+ Bình quân đất nông nghiệp theo đầu người của Việt Nam vào loại thấp
nhất thế giới. Theo điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm
2001, số hộ nông dân có đất nông nghiệp từ một ha trở xuống chiếm 80,76% số
hộ làm nông nghiệp.
+ Nguồn lực của bản thân lao động nông nghiệp, nông thôn thấp mà
nguyên nhân cơ bản là do thu nhập thấp.
10
- Thu nhập của lao động nông nghiệp nông thôn thấp nên ít có khả năng
mở rộng sản xuất.
+ Đến cuối năm 2005, bình quân thu nhập một nhân khẩu nông thôn một
tháng chỉ khoảng 375.000 đồng. trong khi đó chuẩn nghèo (giai đoạn 2006 -
2010) là từ 200.000 đồng – 260.000 đồng/người/thỏng; hiện nay theo chuẩn
nghèo mới nhất là 400.000 đồng/người/thỏng cho khu vực nông thôn và 500000
đồng/người/thỏng cho khu vực thành thị. Nhiều tỉnh như Bắc Kạn, dù theo chuẩn
nghèo thấp kém này thì cũng có khoảng 50% hộ nông dân thuộc hộ nông dân
thuộc diện hộ nghèo.
+ Không những thu nhập thấp mà tình trạng phụ thu, lạm bổ, đóng góp
ngoài chính sách của nông dân đang làm cho nguồn nhân lực tại chỗ của nông
dân thêm khó khăn. Điều tra tại 135 xã năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn cho thấy bình quân mỗi hộ nông dân phải đúng trờn 20 khoản
ngoài quy định của Nhà nước. Nơi thấp nhất, bình quân một năm một hộ nông
thôn phải đóng 400000đồng, nơi cao nhất mỗi hội 2 triệu đồng.

- Việc thực hiện một số chính sách Nhà nước đã làm giảm cơ hội tự tạo ra
việc làm của lao động nông nghiệp, nông thôn.
+ Các giải pháp nâng cao chất lượng nông sản, phát triển công nghiệp chế
biến, ứng phó với nông sản thường xuyên thay đổi chưa hữu hiệu. Do đó, một số
bộ phận nông dân tổn thất nguồn lực, giảm cơ hội tự tạo việc làm của dân cư
nông thôn.
+ Phân bổ nguồn lực đất đai chưa hợp lý và nhiều thiếu sót trong chính
sách đất đai đã làm giảm nguồn lực và cơ hội tạo việc làm cho dân cư nông thôn.
Ví dụ, điều tra 4 tỉnh ở Tõy Nguyờn cho thấy, năm 2002, ở 3 tỉnh Tõy Nguyờn
được điều tra, số lao động nông nghiệp khu vực nhà nước chỉ chiếm 10 – 13%
tổng số lao động nông nghiệp trên địa bàn nhưng được giao sử dụng 60 – 70%
quỹ đất đai các loại. Hộ gia đình nông dân chiếm gần 90% lao động nhưng chỉ
được giao 30 - 40% đất đai các loại. Thậm chí các lâm trường ở Tõy Nguyờn
chiếm 4.8% lao động nhưng lại giao quản lý 64.5% đất lâm nghiệp của vùng.
11
+ Giá cả nhiều loại đầu vào thời gian dài biến động thường xuyên. Ví dụ
giá phân hóa học năm 2005 tăng 2 lần so với năm 2003. Trong 2 năm 2004 –
2005, giá xăng dầu tăng 7 lần. Chi phí sắt thép xăng, dầu, phân bón có thời kỳ
tăng đột biến… làm giảm lợi nhuận tớch lũy của nông dân. Ví dụ, riêng chi phí
xăng dầu tăng đã làm cho giá xay sát, vận chuyển 1 tấn gạo từ 120 ngàn đồng lên
150 ngàn đồng.
+ Thiên tai dịch bệnh xảy ra thường xuyên với mật độ và cường độ ngày
càng gia tăng. Ví dụ, năm 2006, thiên tai đã gây thiệt hại cho nền kinh tế nước ta
trên 18 ngàn tỷ đồng. Năm 2007, lũ lụt, bóo, ỳng, lũ quột đó gây thiệt hại trên
7,8 ngàn tỷ đồng. Trong đó, một phần tổn thất không nhỏ thuộc về nông nghiệp,
nông thôn mà nông dân phải gánh chịu. Năm 2004, bệnh vàng lụi, xoắn lỏ gõy
tổn thất cho 500 ngàn ha lúa ở đồng bằng sông Cửu Long làm tổn thất thu nhập
của gần 500 ngàn hộ nông dân. Hoặc năm 2003 đầu năm 2004, dịch cúm gia cầm
đã làm chết, hoặc thiêu hủy cộng với giá hạ trong tiêu thụ đã làm thiệt hại của
các hộ nuôi gia cầm cả nước khoảng 1800 tỷ đồng.

1.1.2 Đô thị hóa và tác động của đô thị hóa đến việc làm của lao động nông
thôn
1.1.2.1 Khái niệm đô thị hóa
Có nhiều cách hiểu khác nhau về đô thị hóa. Theo cách tiếp cận của nhân
khẩu học và địa lý kinh tế thì đô thị hóa chính là sự di cư từ nông thôn vào thành
thị, sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống trong lãnh thổ địa lý hạn chế được
gọi là các đô thị. Đó là quá trình gia tăng tỷ lệ dân cư đô thị trong tổng số dân
của một quốc gia. Theo cách tiếp cận này, chỉ tiêu tỷ lệ phần trăm dân số đô thị
trên tổng dân số dường như là chỉ tiêu duy nhất đo lường mức độ đô thị hóa. Vì
thế nú khụng giải thích được tầm quan trọng và vai trò của đô thị hóa đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội hiện đại.
Theo cách tiếp cận xã hội học, đô thị hóa được hiểu rộng hơn, đó là quá
trình tổ chức lại môi trường cư trú của nhân loại, là sự thay đổi những phương
thức hay hình thức cư trú của nhân loại. Theo cách hiểu này, đô thị hóa không
12
chỉ thay đổi phương thức sản xuất, tiến hành các hoạt động kinh tế, mà còn là sự
thay đổi lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân, trong đó
các quan hệ xã hội, các mô hình hành vi và ứng xử tương ứng với điều kiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa. Theo quan điểm một vùng, đô thị hóa là
quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Theo quan điểm nền kinh tế quốc dân, đô thị hóa là quá trình biến đổi về sự phân
bố các yếu tố lực lượng sản xuất, bố chí dân cư những vùng không phải thành thị
thành đô thị. Ngày nay, khi mà đô thị hóa luôn gắn liền với công nghiệp hóa
đang diễn ra mạnh mẽ và phổ biến trên thế giới thì cách hiểu về đô thị hóa cũng
có những thay đổi, cách hiểu được nhiều người chấp nhận, đô thị hóa là quá trình
mang tính quy luật gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội từ
nông nghiệp – nông dân - nông thôn sang công nghiệp – thị dân – đô thị với
những đặc trưng sau:
Một là, đô thị hóa không phải là kết quả, mà là một quá trình lâu dài diễn ra
trên một không gian lãnh thổ rộng lớn;

Hai là, tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, hay công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong quá trình đô thị hóa có sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp, thương
mại và dịch vụ;
Ba là, đô thị hóa là quá trình hình thành, nâng cấp và mở rộng quy mô đô thị
với cơ sở hạ tầng hiện đại;
Bốn là, các làn sóng di cư từ nông thôn đến đô thị làm tăng nhanh quy mô
dân số đô thị, tạo sự chuyển dịch từ lối sống phân tán, mật đọ dân số thưa thớt
sang lối sống tập trung, mật độ dân số cao. Điều đó dẫn đến sự bố trí lại dân cư,
thay đổi cơ cấu giai cấp, phân tầng xã hội;
Năm là, không gian đô thị ngày càng mở rộng, cùng với nó là sự thu hẹp đất
nông nghiệp để phát triển các khu đô thị mới, khu công nghiệp, thương mại, dịch
vụ, du lịch;
13
Sáu là, tốc độ và quy mô hội tụ kinh tế đô thị ngày càng gia tăng, thể hiện ở
sự gia tăng của quy mô và tốc độ thu hút vốn, gia tăng số lượng và quy mô các
đơn vị kinh tế;
Bảy là, chuyển từ lối sống nông thôn sang lối sống đô thị, từ văn hóa làng xã
sang văn hóa đô thị, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp;
Tám là, cùng với quá trình đô thị hóa là sự thay đổi về cơ chế, chính sách
phát triển và quản lý đô thị.
Ngoài những đặc trưng chung nêu trên, đô thị hóa của Việt Nam cũn cú đặc
trưng riêng gắn liền với đặc điểm của nước nông nghiệp truyền thống, đó là đô
thị hóa có tính chất điển hình. Tính chất này có nguồn gốc từ sự tồn tại đan xen,
hòa trộn giữa nông thôn và thành thị ở mọi phương diện, từ không gian địa lý, cơ
sở hạ tầng, dân cư, tôn giáo, văn hóa cho đến các hoạt động kinh tế. Làng trong
phố, phường, cư dân nông thôn hoạt động nông nghiệp với nếp sống làng, xã
truyền thống vẫn còn đang hiện hữu ngay trong lòng hầu hết các đô thị ở Việt
Nam.
- Mức độ đô thị hóa gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu

lao động. Mức độ đô thị hóa thường được đo bằng các tiêu chí sau:
+ Mức độ tập trung dân số: mật độ dân số, quy mô dân số và tỷ trọng dân số
trong khu vực đô thị;
+ Tỷ lệ % lực lượng phi nông nghiệp;
+ Mức độ hiện đại của cơ sở hạ tầng;
+ Tỷ lệ % kinh tế phi nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế đô thị;
+ Vai trò của trung tâm hành chính, văn hóa, chính trị, kinh tế của đô thị.
Ở nước ta hiện nay, do nhiều nguyên nhân nên việc phân loại đô thị, chủ yếu
dựa vào tiêu chí về quy mô và mật độ dân số đô thị.
- Quá trình đô thị hóa là quá trình phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với sự
phát triển của khoa học – công nghệ, sự phát triển của các ngành nghề mới. Quá
trình đô thị hóa có thể chia ra thành 3 thời kỳ:
14
+ Thời kỳ tiền công nghiệp(trước thế kỷ XVIII). Đô thị hóa phát triển mang
đặc trưng của nền văn minh nông nghiệp. Các đô thị phân tán, quy mô nhỏ, phát
triển theo kiểu tập trung, cơ cấu đơn giản. Tính chất đô thị thời kỳ này chủ yếu là
hành chính, thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
+ Thời kỳ công nghiệp(từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX). Các đô thị phát
triển mạnh, song song với quá trình công nghiệp hóa. Cuộc cách mạng công
nghiệp đã làm cho nền văn minh đô thị phát triển nhanh chóng, sự tập trung sản
xuất và dân cư đã tạo nên những đô thị lớn và cực lớn. Cơ cấu đô thị phức tạp
hơn, đặc biệt là các thành phố mang nhiều chức năng khác nhau như thủ đô,
thành phố cảng. Đặc trưng của thời kỳ này là sự phát triển thiếu kiểm soát của
các thành phố (nửa sau thế kỷ XX)
+ Thời kỳ hậu công nghiệp(giữa thế kỷ XX trở lại đây). Sự phát triển của
công nghệ tin học đã làm thay đổi cơ cấu sản xuất và phương thức sinh hoạt ở
các đô thị. Không gian đô thị có cơ cấu tổ chức phức tạp, quy mô lớn. Hệ thống
tổ chức dân cư đô thị phát triển theo kiểu cụm, chùm và chuỗi.
Ở các nước đang phát triển nói chung, trong đó có Việt Nam, đặc trưng của
đô thị hóa là sự tăng nhanh dân số đô thị không hoàn toàn dựa trên cơ sở phát

triển công nghiệp. Hiện tượng bùng nổ dân số bên cạnh sự phát triển yếu kém
của công nghiệp đã làm cho quá trình đô thị hóa và công nghiệp mất cân đối, sự
mâu thuẫn giữa đô thị và nông thôn tăng lên. Sự chênh lệch đú đó thúc đẩy sự
dịch chuyển dân cư nông thôn ra đô thị một cách ồ ạt, không kiểm soát được,
gây rất nhiều hậu quả nặng nề, trong đó có vấn đề việc làm, thất nghiệp.
1.1.2.2 Tác động của đô thị hóa đến việc làm của lao động nông nghiệp, nông thôn
- Tác động của đô thị hóa đến việc làm.
+ Đô thị hóa tạo nhiều việc làm mới.
* Đụ thị húa tạo nhiều việc làm mới trong các lĩnh vực công nghiệp, xây
dựng, thương mại và dịch vụ. Để tiến hành đô thị hóa đòi hỏi phải thúc đẩy xây
dựng, cải tạo, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật với việc hình thành các khu công
nghiệp, khu du lịch, khu thương mại, khu đô thị mới ngày càng hiện đại. Cơ sở
15
kỹ thuật hiện đại sẽ kích thích gia tăng hội tụ các nguồn lực đầu tư cho sản xuất
thúc đẩy hoạt động kinh tế phi nông nghiệp diễn ra ngày càng sôi động, đa dạng
hóa và phát triển các ngành nghề công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch
vụ…,đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, đô thị
hóa từ đó tạo nhiều việc làm mới trong công nghiệp, xây dựng, thương mại và
dịch vụ.
* Đô thị hóa tạo nhiều việc làm trong khu vực không chính thức. Đô thị hóa
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập và mức sống của cư dân đô thị,
làm nảy sinh các nhu cầu ngày càng cao về vật chất và tinh thần. Để đáp ứng nhu
cầu đó đòi hỏi sản xuất và dịch vụ phải dược mở rộng, kéo theo sự phát triển đa
dạng các ngành nghề, tạo nhiều việc làm mới. Trong đó, đáng chú ý là sự hình
thành và phát triển một cách tự phát từ khu vực kinh tế không chính thức với
những hoạt động kinh tế quy mô nhỏ, không đăng ký, không đòi hỏi chuyên môn
kỹ thuật như bán hàng rong, các dịch vụ, buôn bán nhỏ tại nhà, trên vỉa hè, giúp
việc gia đình, lao động tự do… Sự phát triển của khu vực kinh tế không chính
thức tạo ra nhiều việc làm tạm thời, góp phần giải quyết việc làm cho một lực
lượng lao động không nhỏ, không có tay nghề, lao động nhập cư, lao động nông

nghiệp thuộc diện thu hồi đất sản xuất, lao động dôi dư do sắp xếp lại các đơn vị
kinh tế…
* Đô thị hóa làm tăng việc làm tạm thời do quy hoạch mở rộng không gian
đô thị, cải tạo, nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Để tiến hành đô thị hóa
đòi hỏi quy hoạch mở rộng không gian đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế.
Theo đó, nhiều việc làm tạm thời trong lĩnh vực xây dựng và dịch vụ nhỏ được
tạo ra như phụ hồ, công nhân cầu đường, xe thồ… Với việc xuất hiện của những
việc làm tạm thời này sẽ góp phần giải quyết việc làm cho những lao động chân
tay, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật…
Ngoài ra, đô thị hóa còn thúc đẩy thực hiện các chương trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở khu vực nông thôn, đặc biệt là sự phát triển công nghiệp chế
biến và đa dạng hóa các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Từ đó, thu hút một bộ
16
phận lao động nông nhàn, lao động dư thừa từ nông nghiệp(do không còn đất
nông nghiệp để sản xuất) vào làm việc và tăng thời gian làm việc ở khu vực
nông thôn.
+ Đô thị hóa làm thay đổi cơ cấu việc làm. Trong quá trình đô thị hóa, do có
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang công
nghiệp, thương mại và dịch vụ mà cơ cấc việc làm thay đổi mạnh mẽ. Cùng với
sự phát triển kinh tế đô thị, cơ cấu việc làm thay đổi theo các xu hướng khách
quan sau:
* Tăng việc làm trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, giảm việc
làm trong lĩnh vực nông nghiệp;
* Tăng việc làm đòi hỏi trình độ lao động cao, giảm lao động đòi hỏi trình
độ lao động thấp, nhất là lao động phổ thông;
* Tăng việc làm có năng suất, thu nhập cao, giảm việc làm có năng suất,
thu nhập thấp.
Sự thay đổi cơ cấu việc làm trong quá trình đô thị hóa theo các xu hướng trên
đây xuất phát từ sự gia tăng hội tụ các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp ở đô thị
khi mà những lợi thế và các nguồn lực dồi dào ở đô thị ngày càng được tận dụng

khai thác tối ưu như: chi phí giao dịch thấp, giao thông vận tải thuận lợi, cơ sở
hạ tầng hiện đại, nguồn vốn đầu tư cho cho sản xuất phi nông nghiệp hội tụ ngày
càng nhiều, thông tin, tiến bộ khoa học kỹ thuật…Ở khía cạnh khác, việc tiến
hành thực hiện những nội dung để đẩy mạnh đô thị hóa như quy hoạch mở rộng
không gian đô thị, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp,
đường sá, xây dựng các khu thương mại, dịch vụ tập trung, thực hiện thay thế lao
động thủ công bằng cơ khí, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
phát triển tự động hóa nhiều lĩnh vực, ngành nghề… cũng là tác nhân làm thay
đổi cơ cấu việc làm.
+ Đô thị hóa làm tăng khả năng tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm của
người lao động.
* Do trình độ người lao động tăng lên.
17

×