Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

nghiên cứu khả năng thích ứng của một số giống lúa thuộc loài phụ japonica tại thành phố yên bái, tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 111 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




PHẠM THU HÀ






NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA MỘT SỐ
GIỐNG LÚA CÓ TRIỂN VỌNG THUỘC LOÀI PHỤ
JAPONICA TẠI THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60.62.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP









Thái Nguyên, 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




PHẠM THU HÀ






NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA MỘT SỐ
GIỐNG LÚA CÓ TRIỂN VỌNG THUỘC LOÀI PHỤ
JAPONICA TẠI THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60.62.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. TRẦN NGỌC NGOẠN
TS. ĐẶNG QUÝ NHÂN




Thái Nguyên, 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn này là hoàn toàn trung thực, chƣa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị
nào. Mọi sự giúp đỡ cho hoàn thành luận văn đều đã đƣợc cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã đƣợc ghi rõ nguồn gốc tham
khảo.
Tác giả







Phạm Thu Hà













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

4
LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực tập thực hiện đề tài, tôi đã nhận đƣợc sự quan
tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học trƣờng Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên, Thành ủy, UBND thành phố Yên Bái, Ủy ban nhân
dân xã Tân Thịnh, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Yên Bái.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
GS.TS Trần Ngọc Ngoạn - phó Hiệu trƣởng, TS Đặng Quý Nhân
Trƣờng Đại học Nông lâm Thái Nguyên là những ngƣời Thầy đã tận tình giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Ban giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học trƣờng Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, và các thầy cô giáo đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức, tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Thành ủy, UBND thành phố Yên Bái, Ủy ban nhân dân xã Tân Thịnh,
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Yên Bái, cùng bạn bè đồng
nghiệp và ngƣời thân đã quan tâm giúp đỡ và động viên tối trong quá trình

học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !


Tác giả




Phạm Thu Hà





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 7
1. Đặt vấn đề 8
2. Mục tiêu của đề tài 10
2.1 Mục tiêu tổng quát:…………………………………………………………… 3
2.2 Mục tiêu cụ thể: 11
3. Ý nghĩa của đề tài 11
Chƣơng 1 12
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 12
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 12
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa trên thế giới 14
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới 14

1.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới 19
1.2.3. Tình hình nghiên cứu giống lúa thuộc loài phụ Japonica trên thế giới 26
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa ở Việt Nam 28
1.3.1. Tình hình sản xuất lúa trong nƣớc 28
1.3.2. Tình hình nghiên cứu lúa trong nƣớc 33
1.3.3. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống lúa chất lƣợng ở Việt Nam 36
1.3.4. Tình hình sản xuất lúa gạo chất lƣợng cao ở Việt Nam 39
1.3.5. Tình hình nhập nội và sản xuất giống lúa thuộc loài phụ Japonica 40
Chƣơng 2 44
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 44
2.1. Đối tƣợng, nội dung và địa điểm nghiên cứu 44
2.1.1 Đối tƣợng nghiên cứu 44
2.1.2. Nội dung nghiên cứu 44
2.1.3.Thời gian, địa điểm tiến hành nghiên cứu 45
2.2. Bố trí thí nghiệm 45
2.3 Các chỉ tiêu cần theo dõi:…………………………………………… .38
2.3.1. Chỉ tiêu chất lƣợng mạ………………………………………………. . .38
2.3.2. Chỉ tiêu về khả năng đẻ nhánh 47
2.3.3. Chiều cao cây cuối cùng 47
2.3.4. Các chỉ tiêu về sâu bệnh hại 47
2.3.5. Tính chịu lạnh ở giai đoạn mạ 50
2.3.6. Tính chống đổ 50
2.3.7. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 50
2.3.8. Đánh giá phẩm chất, chất lƣợng các giống lúa 51
2.3.9. Đánh giá hiệu quả kinh tế 52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

6
2.4. Phƣơng pháp sử lý số liệu 52

Chƣơng 3 53
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 53
3.2. Kết quả thí nghiệm so sánh ở vụ Mùa 2010 và vụ Xuân 2011 55
3.2.1 Sinh trƣởng và phát triển của mạ 55
3.2.2. Các thời kỳ sinh
trƣởng,
phát triển của các giống lúa thí nghiệm 57
3.2.3. Chiều cao cây của các giống lúa thí nghiệm 59
3.2.4. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm 61
3.2.5. Khả năng chống chịu sâu bệnh chính hại lúa 63
3.2.6 Tính chống đổ 65
3.2.7 Các yếu tố cấu thành năng suất lúa 65
3.2.7.1. Chiều dài bông 66
3.2.7.2. Số bông/m
2
67
3.2.7.3. Số hạt/bông 68
3.2.7.4. Số hạt chắc/bông 69
3.2.7.5. Khối lƣợng 1000 hạt 69
3.2.7.6. Năng suất lý thuyết 70
3.2.7.7. Năng suất thực thu của các giống lúa thí nghiệm 71
3.3. Phẩm chất và chất lƣợng các giống lúa 72
3.3.1 Chất lƣợng xay xát 74
3.3.2. Chất lƣợng thƣơng trƣờng 74
3.3.3. Chất lƣợng chế biến (chất lƣợng cơm) 75
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 76
1.Kết luận 76
2. Đề nghị 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

7
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa của thế giới từ năm 1995 -2009 16
Bảng 1.2 Tình hình sản xuất lúa của 10 nƣớc đứng đầu thế giới năm 2009 19
Bảng 1.3: Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa của Việt Nam
giai đoạn từ năm
1961 đến năm 2009
32
Bảng 3.1:Tình hình sử dụng đất đai của Thành phố Yên Bái 53
Biểu đồ 3.1: Tình hình sử dụng đất đai của thành phố Yên Bái 53
Bảng 3.2. Diện tích, năng suất, sản lƣợng lúa giai đoạn 2005-2010 54
Biểu đồ 3.2: Diện tích, năng suất, sản lƣợng lúa giai đoạn 2005-2010 54
Bảng 3.3. Sinh trƣởng và phát triển của mạ vụ Mùa 2010 và vụ Xuân 2011 56
Bảng 3.4. Các thời kỳ sinh trƣởng, phát triển của các giống lúa 58
Bảng 3.5. Chiều cao cây cuối cùng của các giống lúa thí nghiệm 60
Bảng 3.6. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ mùa 2010 61
Bảng 3.7. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ Xuân 2011 62
Bảng 3.8 Tình hình sâu bệnh hại các giống lúa thí nghiệm 64
Bảng 3.9: Các yếu tố cấu thành và năng suất của các giống lúa thí nghiệm vụ Mùa
2010 66
Bảng 3.10: Các yếu tố cấu thành và năng suất của các giống lúa thí nghiệm 67
vụ Xuân 2011 67
Biểu đồ 3.3: Năng suất lý thuyết và năng suất thực thu 72
Bảng 3.11. Chất lƣợng gạo của các giống lúa tham gia thí nghiệm 73



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

8
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza sativa . L) là cây trồng có từ lâu đời và gắn liền với quá
trình phát triển của loài ngƣời. Từ buổi ban đầu của nền văn minh, cây lúa là
cây đƣợc trồng gắn liền với quá trình phát triển của loài ngƣời và đã trở thành
cây lƣơng thực chính của Châu Á nói chung, ngƣời Việt Nam ta nói riêng và
có vai trò quan trọng trong nét văn hoá ẩm thực của dân tộc ta.
Khi xã hội càng phát triển, nhu cầu ăn ngon của ngƣời dân ngày càng
tăng vì cây lúa đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày
của ngƣời dân trong và ngoài nƣớc.
Diện tích trồng lúa trên thế giới không ngừng tăng, hiện có khoảng 154
triệu ha. Tổng sản lƣợng lúa gạo đạt trên 615 triệu tấn, cung cấp cho cả thế
giới [FAO STAT 2005].
Tại Việt Nam từ khi giành đƣợc độc lập (1945) đến nay, diện tích trồng
lúa gạo không ngừng đƣợc mở rộng, năng suất ngày càng tăng, nhân dân ta có
truyền thống cần cù trong lao động, thông minh sáng tạo trong thực hiện lao
động sản xuất, biết tận dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để
không ngừng nâng cao năng suất của lúa gạo. Từ những năm đầu thực hiện
công cuộc đổi mới của đất nƣớc (1986) chúng ta vẫn nằm trong các nƣớc
thiếu lƣơng thực trầm trọng, song với đƣờng lối đổi mới của Đảng ngành
nông nghiệp đã có bƣớc khởi sắc, chúng ta từ một nƣớc nhập khẩu lƣơng thực
đã trở thành nƣớc xuất khẩu lƣơng thực đứng thứ 2 thế giới (sau Thái Lan).
Thành phố Yên Bái là đô thị loại 2, là trung tâm chính trị, kinh tế của
tỉnh Yên Bái. Thành phố Yên Bái có dân số 94.915 ngƣời, đời sống vật chất
không ngừng nâng cao, nhu cầu lƣơng thực ngày càng tăng theo xu hƣớng sử
dụng gạo có chất lƣợng trong bữa ăn hàng ngày của ngƣời dân đô thị. Nhƣng
hiện tại mới có vài nơi gieo trồng lúa có chất lƣợng cao với quy mô nhỏ hẹp với

tổng diện tích ƣớc khoảng 80 ha, số lƣợng này chỉ đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu
dùng tại chỗ từ 5-10%, còn lại toàn bộ lƣợng thiếu hụt phải nhập từ các tỉnh lân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

9
cận khác. Trong khi đó đất đai Yên Bái màu mỡ, lao động dƣ thừa, khí hậu ôn
hoà phù hợp cho mở rộng, phát triển diện tích lúa có triển vọng về năng suất
và chất lƣợng.
Sở dĩ chúng ta chƣa khai thác lợi thế về tiềm năng và thị trƣờng tiêu thụ
bởi những năm qua chúng ta chƣa có đề tài nghiên cứu và ứng dụng đƣa các
giống lúa có năng suất cao, chất lƣợng tốt vào sản suất và nâng cao hiệu quả
kinh tế trên đơn vị diện tích. Ngƣời dân chủ yếu trồng lúa bằng những giống
lúa thuần, theo tính chất tự phát, thiếu bộ giống tốt, thiếu kỹ thuật, thiếu định
hƣớng từ các cơ quan quản lý và các nhà chuyên môn, do đó diện tích lúa chất
lƣợng tại thành phố Yên Bái còn ít, năng suất thấp vì vậy hiệu quả kinh tế đem
lại không cao.
Cơ cấu giống lúa nhất là giống chất lƣợng có giá thành cao, có hiệu quả
kinh tế tại địa bàn Thành phố còn đơn điệu, chƣa có nhiều giống có năng suất
cao, chất lƣợng tốt phù hợp với thị hiếu ngƣời tiêu dùng, ổn định và có thể
sản xuất bền vững, đảm bảo đáp ứng đƣợc mục tiêu chung của xã hội.
Thành phố Yên Bái có diện tích đất tự nhiên 10.815 ha, trong đó diện
tích đất nông nghiệp là 2.833 ha, đất 2 vụ lúa có 728 ha. Hàng năm diện tích
đất 2 vụ ở Thành phố Yên Bái thƣờng đƣợc trồng 2 vụ lúa nƣớc vào vụ Xuân
và vụ Mùa.
Việc khai thác và sử dụng đất 2 vụ trong vụ Xuân và vụ Mùa hiện nay
ở Thành phố Yên Bái đang đƣợc thúc đẩy theo hƣớng chuyển dịch cơ cấu sản
xuất, nhằm nâng cao năng suất, chất lƣợng và hiệu quả kinh tế góp phần
không nhỏ trong công cuộc xoá đói giảm nghèo của Thành phố, giải quyết
vấn đề lƣơng thực nhất là gạo có chất lƣợng cho ngƣời dân tại địa phƣơng và

các vùng lân cận, tận dụng nguồn lao động nông nhàn sẵn có, ngoài ra khai
thác đất 2 vụ gieo trồng bằng các giống lúa triển vọng cũng góp phần làm
thay đổi tập quán, phƣơng thức sản xuất tự cung, tự cấp, chuyển sang sản xuất
hàng hoá của một bộ phận nông dân nông thôn, đó là những mặt tích cực mà
việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nhất là chuyển dịch cơ cấu giống lúa trong
nông nghiệp đem lại cho nông dân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

10
Tuy nhiên do bƣớc đầu triển khai thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng nhất là giống lúa có triển vọng còn gặp phải khó khăn đó là thay đổi tập
quán lâu đời của ngƣời dân khi họ chỉ biết sản xuất ra các sản phẩm tự cung,
tự cấp, họ ít quan tâm đến sản xuất hàng hoá. Vì vậy ngƣời dân còn đang lúng
túng chƣa tìm ra đƣợc giống lúa có triển vọng về năng suất và chất lƣợng, có
giá trị kinh tế vào sản xuất.
Mục tiêu phấn đấu trong thời gian tới là góp phần nâng cao thu nhập cho
nông dân trên đơn vị diện tích, thực hiện thành công chủ trƣơng chuyển dịch cơ
cấu cây trồng trong vụ Xuân và vụ Mùa tiến tới khai thác các cây trồng vụ
đông. Xây dựng thành công mô hình những cánh đồng đạt và vƣợt 50 triệu
đồng trên 1 ha theo phong trào thi đua mà ngành nông nghiệp phát động.
Để thực hiện chủ trƣơng của Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân Thành phố
Yên Bái về thực hiện chủ trƣơng chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hƣớng
mở rộng diện tích gieo cây lúa có triển vọng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế
trên đơn vị diện tích, góp phần cung cấp lƣơng thực lúa gạo chất lƣợng phục
vụ cho tiêu dùng tại chỗ, theo hƣớng đó Thành phố Yên Bái cũng cần có vùng
chuyên canh gieo cấy lúa triển vọng về năng suất khá và chất lƣợng tốt, có
hiệu quả kinh tế, để thoả mãn cho nhu cầu tiêu dùng tại chỗ và cung cấp cho 1
số tỉnh bạn, Hà Nội và có thể tham gia vào chƣơng trình xuất khẩu chung của
toàn ngành. Tuy nhiên muốn làm đƣợc điều đó, trƣớc hết cần phải có nghiên

cứu thử nghiệm ban đầu để làm mô hình khuyến cáo mở rộng.
Xuất phát từ tình hình trên chúng tôi thực hiện đề tài:"Nghiên cứu khả
năng thích ứng của một số giống lúa thuộc loài phụ Japonica tại Thành
phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái"
2. Mục tiêu của đề tài
2.1 Mục tiêu tổng quát:
- Đánh giá khả năng thích ứng của một số giống lúa thuần thuộc loài
phụ Japonica trong vụ mùa và vụ xuân nhằm bƣớc đầu xác định đƣợc giống
có khả năng đạt năng suất cao và phù hợp với điều kiện của tỉnh Yên Bái để
khuyến cáo phát triển bổ sung cơ cấu giống lúa của địa phƣơng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

11
2.2 Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá khả năng sinh trƣởng và phát triển của một số giống lúa
thuần thuộc loài phụ Japonica trong vụ mùa 2010 và vụ xuân 2011
- Đánh giá khả năng chống chịu sâu, bệnh của các giống lúa thuần
thuộc loài phụ Japonica trong vụ mùa 2010 và vụ xuân 2011.
- Đánh giá khả năng cho năng suất của các giống lúa thí nghiệm trong
vụ mùa 2010 và vụ xuân 2011.
- Đánh giá chất lƣợng gạo bằng phƣơng pháp phân tích hoá học và kết
hợp với đánh giá cảm quan.
3. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa khoa học
- Nghiên cứu xác định đƣợc thời gian sinh trƣởng, phát triển, khả năng
thích ứng của các giống lúa thuần thuộc loài phụ Japonica.
- Là cơ sở cho việc đề xuất chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng theo
hƣớng sản xuất hàng hoá.
* Ý nghĩa thực tiễn

- Lựa chọn đƣợc một vài giống lúa có chất lƣợng, có hiệu quả kinh tế
cao, khuyến cáo nhân rộng mô hình với quy mô hợp lý.
- Góp phần định hƣớng cho nông dân chuyển từ sản xuất tự cung, tự
cấp, sang sản xuất hàng hoá.
- Đa dạng hoá thêm các giống lúa chất lƣợng tại địa phƣơng.
- Đề tài mang tính ứng dụng cao, đƣợc ứng dụng vào thực tiễn sản xuất,
góp phần làm thay đổi tập quán sản xuất tự cung, tự cấp, chuyển sang sản
xuất hàng hoá của nông dân.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

12
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Trong điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhƣỡng cần có những giống
cây trồng tốt phù hợp với điều kiện canh tác. Vì vậy một trong những biện
pháp kinh tế kỹ thuật nhằm tận dụng các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, là
bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp với một vùng hay một đơn vị sản xuất nông
nghiệp. Trong việc xác định giống cây trồng hợp lý đạt hiệu quả kinh tế cao,
đất đai là một trong những căn cứ quan trọng sau điều kiện khí hậu, cho nên
cần phải nắm vững mối quan hệ giữa một nhóm cây trồng với đặc điểm đất
đai thì mới xác định đƣợc cơ cấu cây trồng hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Giống là tƣ liệu sản xuất vô cùng quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp, cũng nhƣ đất đai, phân bón và công cụ sản xuất.Nếu không có giống
thì không thể sản xuất ra một loại nông sản nào. Ngày nay, quan niệm
“nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” đã không còn phù hợp nữa.
Nếu xếp giống vào hệ thống các khâu kỹ thuật canh tác thì giống tốt phải
đƣợc xếp vào vị trí trung tâm. Trong những năm gần đây, sản lƣợng lƣơng

thực ở một số nƣớc tăng lên khá nhanh, chủ yếu nhờ áp dụng trên quy mô
lớn các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp thích hợp mà chủ yếu là cải tiến
giống. Vì giống lúa là một trong những điều kiện quyết định đến năng suất
và phẩm chất của sản phẩm thu hoạch.
Theo Thanh Tri-1987 [20] giống lúa là một trong những biện pháp
quan trọng trong việc tăng năng suất sản lƣợng lƣơng thực, trong thực tiễn sản
xuất ở nhiều địa phƣơng nếu có cơ cấu giống phù hợp với điều kiện tự nhiên
và sử dụng loại giống có độ thuần cao, phẩm chất giống tốt thì có thể nâng
cao đƣợc năng suất lúa lên từ 15-20% trở lên .
Các giống lúa khác nhau có khả năng thích ứng với điều kiện sinh thái,
thổ nhƣỡng ở mỗi vùng khác nhau. Để xác định đƣợc giống tốt cho một vùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

13
sản xuất nào đó cần phải tiến hành khảo nghiệm, gieo cấy thử nghiệm qua
một vài vụ sản xuất để đánh giá khả năng thích ứng của giống đó. Do đó việc
xác định tính thích nghi của giống nào đó trƣớc khi đƣa ra sản xuất trên diện
tích rộng phải tiến hành bố trí gieo trồng tại nhiều vùng có đặc điểm sinh thái
khác nhau nhằm đánh giá khả năng thích ứng, độ đồng đều, tính ổn định, khả
năng chống chịu sâu, bệnh, mức độ chịu đất chua mặn, khả năng cho năng
suất, hiệu quả kinh tế của giống đó so với các giống đang gieo trồng đại trà
hiện có tại một khu vực hoặc một địa phƣơng nào đó.
Ở đề tài này với mục tiêu đánh giá khả năng thích ứng của một số
giống lúa có triển vọng thuộc loài phụ Japonica với mục đích chuyển dịch cơ
cấu cây trồng có giá trị, thay thế những cây trồng hiện có chƣa đáp ứng đƣợc
nhu cầu thực tiễn, cải tiến để đƣa giống lúa có năng suất cao, chất lƣợng tốt
vào sản xuất phù hợp với điều kiện của nông dân và vùng sinh thái.
Cần phải tạo ra các giống lúa triển vọng, tạo ra sản phẩm hàng hoá, sử
dụng hợp lý phân bón, thuốc trừ sâu, giống mới có triển vọng song vẫn đảm

bảo có năng suất khá, sử dụng nƣớc tƣới và các biện pháp kỹ thuật không
khác nhiều so với tập quán canh tác của địa phƣơng.
Đối với lúa trong sản xuất hiện nay khi đƣa giống mới vào sản xuất
ngƣời ta thƣờng quan tâm đến thị hiếu ngƣời tiêu dùng và việc tiêu thụ sản
phẩm đó ra sao.
Trong thực tế sản xuất thì mỗi giống lúa đều có ƣu, nhƣợc điểm song
sự chuyển dịch cơ cấu giống lúa nhƣ thế nào để giải quyết đƣợc nhu cầu cấp
bách của ngƣời dân nghèo mà vẫn có lợi về mặt tài chính, đem lại hiệu quả
kinh tế cao và phù hợp với đặc điểm của vùng sản xuất, của một không gian,
thời gian nhất định và đƣợc ngƣời nông dân chấp nhận và mở rộng.
Cơ cấu các giống lúa đang đƣợc gieo trồng đƣợc chọn dựa trên lợi ích
cho đa số ngƣời dân, cơ cấu các giống lúa triển vọng phải đƣợc bố trí hợp lý,
có độ an toàn, xác suất gặp rủi ro thấp nhất, phù hợp với tập quán canh tác của
địa phƣơng, đảm bảo an toàn hệ sinh thái trong vùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

14
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa trên thế giới
Trải qua các thời kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn
khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xƣớng và lãnh đạo trong những năm qua
cũng lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá. Chỉ thị 100
của ban Bí thƣ (khoá IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) đƣợc
triển khai đã đƣa đến những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn
nƣớc ta. (Chủ trƣơng chính sách của Đảng và nhà nƣớc về tiếp tục đổi mới và
phát triển nông nghiệp - nông thôn) [
Website: Faostat.fao.org
]
Ngày nay trong cơ chế thị trƣờng, Đảng và Nhà nƣớc có chủ trƣơng

phát triển kinh tế nông nghiệp bằng việc thâm canh tăng vụ, ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất trong đó vấn đề tiến bộ về giống đƣợc đặc biệt
quan tâm. Trong những năm gần đây thực hiện chủ trƣơng chuyển dịch cơ cấu
cây trồng trong nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lƣợng và hiệu quả
kinh tế, Nhà nƣớc luôn khuyến khích và mong muốn sản phẩm của nông dân
phải trở thành hàng hoá và ngƣời nông dân phải có thu nhập ổn định. Chuyển
dịch cơ cấu cây trồng nhất là cơ cấu giống lúa cần khuyến khích sự phát triển
theo hƣớng nằm trong khuôn khổ của sự kết hợp của 4 nhà: Nhà nƣớc, nhà
Doanh nghiệp, nhà Khoa học và nhà nông. Sản phẩm làm ra phục vụ cho thị
trƣờng hay nói cách khác sản xuất ra sản phẩm theo tiếng gọi của thị trƣờng,
đảm bảo thu nhập cho ngƣời nông dân.
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới
Dân số thế giới không ngừng tăng cao. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao về lƣơng thực, sản xuất lúa gạo trong vài thập kỷ gần đây đã có mức tăng
trƣởng đáng kể, nhƣng phân bố không đều do các trở ngại về tiếp cận lƣơng
thực, thu nhập quốc gia và thu nhập của hộ gia đình không đủ để mua lƣơng
thực, sự bất ổn giữa cung cầu, thiệt hại do thiên tai mang lại là những nhân tố
khiến cho vấn đề lƣơng thực trở nên cấp thiết hơn lúc nào hết. Tuy tổng sản
lƣợng lúa không ngừng đƣợc gia tăng, năm sau cao hơn năm trƣớc nhƣng dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

15
số tăng nhanh hơn, nhất là ở các nƣớc đang phát triển, nên lƣơng thực vẫn là
vấn đề cấp bách phải quan tâm trong những năm trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài.
Cây lúa là một loại cây ngũ cốc có lịch sử lâu đời, trải qua một quá
trình biến đổi và chọn lọc từ cây lúa dại thành cây lúa ngày nay. Cây lúa có
nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, có khả năng thích nghi rộng nên cây lúa có thể
trồng ở nhiều vùng khí hậu khác nhau và đƣợc trồng ở nhiều nơi trên thế giới.
Cây lúa trên thế giới đƣợc trồng ở 5 vùng đất chính là: Vùng chủ động

tƣới tiêu, vùng đất thấp chịu nƣớc trời, vùng đất cao, vùng ngập nƣớc, vùng
đất ngập do thủy triều. Có khoảng 80 triệu ha hoặc 55% diện tích đất trồng
lúa của thế giới đƣợc tƣới tiêu chủ động trong suốt vụ gieo trồng. Ngƣời ta
ƣớc tính khoảng 75% sản lƣợng lúa của thế giới thu từ các vùng đƣợc tƣới
tiêu này. Diện tích lúa của thế giới vào khoảng 150 triệu ha hàng năm (chiếm
11% đất gieo trồng của thế giới) [19]. Trên thế giới có khoảng trên 100 nƣớc
đang trồng lúa thì đa số nằm ở Châu Á. Cây lúa gắn bó mật thiết với các quốc
gia thuộc Đông Nam Á và Nam Á, trải rộng từ Pakistan đến Nhật Bản. Trong
số 25 nƣớc sản xuất lúa chính của thế giới có 17 nƣớc nằm trong vùng này và
8 nƣớc nằm ngoài vùng (Jay Maclean, 1985). Trên 85% sản lƣợng lúa trên thế
giới phụ thuộc 8 nƣớc mà những nƣớc này đều tập trung ở Châu Á (gồm
Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Banladesh, Việt Nam, Thái Lan, Myanmar và
Nhật Bản) [4].
Từ năm 1995 đến nay diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa trên thế giới
có tăng nhƣng với mức độ chậm, thậm chí sản lƣợng năm 2003 thấp hơn năm
1999. Bởi vì giai đoạn này trình độ sản xuất lúa của nhiều nƣớc trên thế giới
đã phát triển tƣơng đối cao, một số nƣớc năng suất đã vƣợt trần, diện tích khai
hoang đã hết, tốc độ chuyển đổi cơ cấu cây trồng tăng, đô thị hoá diễn ra
nhanh chóng. Chúng ta thấy đƣợc điều này qua bảng 1.1.
Cây lúa còn đƣợc trồng ở nhiều nƣớc khác trên thế giới. Riêng khối châu
Âu có 10 nƣớc trồng lúa, với sản lƣợng của tất cả các vùng là 3,2 triệu tấn
(1992), chiếm 0,6% sản lƣợng lúa thế giới, ở Châu Phi ngƣời ta cũng đã tự túc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

16
đƣợc 2/3 nhu cầu lƣơng thực bằng lúa gạo, với năng suất chỉ bằng 40% năng
suất bình quân của thế giới, số còn lại phải nhập khẩu [12].
Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa ngày một tăng nhƣng tốc độ tăng
diện tích chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng sản lƣợng, nhƣ vậy sản lƣợng

tăng là do tăng năng suất là chủ yếu. Trong những năm gần đây, do việc sử
dụng các giống lúa mới cộng với việc áp dụng các biện pháp canh tác và bố
trí cơ cấu các trà lúa hợp lý, làm cho sản lƣợng lúa tăng một cách đáng kể ở
hầu hết các quốc gia trồng lúa.
Bảng 1.1: Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa của thế giới từ năm 1995 -2009
Năm
Diện tích (triệu ha)
Năng suất (tạ/ha)
Sản lƣợng (triệu tấn)
1995
149,490
36,6
547,133
1996
150,171
37,8
567,646
1997
150,999
38,2
576,816
1998
151,678
38,2
579,409
1999
156,944
38,9
610,512
2000

154,106
38,8
597,931
2001
151,966
39,3
597,226
2002
147,700
39,1
577,507
2003
149,208
39,0
581,911
2004
151,027
40,2
607,128
2005
153,511
40,0
614,044
2006
156,300
41,2
644,100
2007
156,950
41,5

651,700
2008
158,955
43,1
685,013
2009
158,300
43,3
685,240
Nguồn: FAO STAT 2010
Tuy vậy, trong tƣơng lai, sản lƣợng lúa của thế giới sẽ phải tăng ở mức
1,6%/năm giai đoạn 2000-2025 mới đáp ứng nhu cầu dân số ngày càng tăng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

17
của thế giới. Đối với những nƣớc đứng đầu về sản xuất lúa của Châu Á thì tỷ
lệ tăng này đòi hỏi ở mức 2,0%/năm. Đây là nhiệm vụ không dễ của các nhà
hoạch định chính sách và các nhà khoa học trong thời gian tới.
Sản lƣợng lúa gạo trong vài thập kỷ gần đây tăng đáng kể: Năm 1970,
sản lƣợng lúa chỉ là 308,8 triệu tấn. Năm 2001, diện tích lúa của thế giới là
151,966 triệu ha, năng suất 39,3 tạ/ha, sản lƣợng đạt 597,226 triệu tấn.
Đến năm 2002 đạt 577,507 triệu tấn. Năm 2003 đạt 581,911 triệu tấn,
năm 2004 đạt 607,128 triệu tấn và đến năm 2005 đạt 614,044 triệu tấn.
Năm 2006 đạt 644,100 triệu tấn. Năm 2007 tăng lên 651,7 triệu tấn. Sản
lƣợng đạt 685,013 triệu tấn năm 2008. Năm 2009 tiếp tục tăng lên 685,240
triệu tấn.[14]
Ở Trung Quốc, trong các loại cây lƣơng thực (gồm lúa, tiểu mạch, ngô,
đậu và khoai) thì cây lúa nƣớc là loại cây lƣơng thực chủ yếu, sản lƣợng
chiếm khoảng 40% tổng sản lƣợng lƣơng thực trong cả nƣớc. Diện tích trồng

lúa nƣớc chủ yếu ở các vùng lƣu vực sông Trƣờng Giang, vùng Hoa Nam và
vùng cao nguyên Vân Quý. Năm 2003, Trung Quốc đã tích cực điều chỉnh cơ
cấu nông nghiệp và nông thôn mang tính chiến lƣợc. Diện tích lúa mạch hè
thu đạt 100 triệu mẫu, tăng 15 triệu mẫu so với năm 2002, diện tích giống lúa
ngắn ngày chất lƣợng cao tăng 70%. Tuy nhiên, dự đoán trong năm 2004
lƣợng gạo trong nƣớc của Trung Quốc vẫn không đủ cầu. Từ tháng 9 năm
2003 tới tháng 6 năm 2004, giá gạo bán liên tục tăng ở đất nƣớc này. Để giảm
áp lực về thiếu lƣơng thực, Trung Quốc đang có chính sách khuyến khích
thúc đẩy nông dân tích cực sản xuất mở rộng diện tích trồng lúa, gia tăng sản
lƣợng và quan tâm đến vấn đề chất lƣợng lúa gạo. Quốc vụ viện Trung Quốc
đã quyết định giao cho Tài chính Trung Ƣơng hỗ trợ cung cấp giống lúa ngắn
ngày chất lƣợng cao cho 7 tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy, Hắc
Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh với trị giá 450 triệu NDT (đồng nhân dân
tệ) nhằm giúp nông dân có giống tốt để sản xuất. Trung Quốc đang có dự kiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

18
mở rộng phạm vi và qui mô thí điểm hỗ trợ lai tạo giống tốt và khởi động
chƣơng trình lƣơng thực chất lƣợng cao.
Năm 2009 diện tích trồng lúa ở Trung Quốc là 29,88 triệu ha, năng suất đạt
65,82 tạ/ha còn sản lƣợng đạt 196,68 triệu tấn[14]
Ở Thái Lan, lúa là cây lƣơng thực quan trọng nhất. Lúa đƣợc trồng rải
rác ở các vùng và phân bố nhƣ sau: Gần 1/2 diện tích đất lúa ở vùng Đông
Bắc, khoảng 1/5 ở miền Trung, 1/5 ở miền Bắc và vùng núi phía Nam chỉ có
6%. Tổng diện tích đất lúa vào khoảng 10 triệu ha, trong đó 1/4 đƣợc tƣới
tiêu. Sản lƣợng lúa bị hạn chế, dao động xung quanh 20 triệu tấn/năm kể từ
1985, đến năm 2009 sản lƣợng đạt 31,46 triệu tấn [14]
Indonesia là nƣớc có diện tích trồng lúa khá lớn trong tốp 10 nƣớc đứng
đầu thế giới. 70% đất trồng lúa đƣợc tƣới tiêu với 2 vụ lúa/ năm. Việc sử dụng

các giống lúa cải tiến có năng suất cao ở đây đƣợc tăng cƣờng đáng kể. Trên
85% diện tích lúa đƣợc trồng bằng các giống lúa mới. Tuy nhiên, đất trồng
lúa ở đây đang bị lấn dần do xây dựng nhà cửa và phát triển khu công nghiệp.
Trƣớc kia, Indonesia là một nƣớc thiếu lƣơng thực, vào cuối những năm 1980
nƣớc này đã xuất khẩu đƣợc lƣợng nhỏ sau đó lại trở lại tình trạng nhập khẩu
gạo. Tổng diện tích đất lúa vào khoảng 12 triệu ha, năm 2001 năng suất đạt
43,8 tạ/ha, đến năm 2009 năng suất đạt 49,98 tạ/ha và sản lƣợng 64,39 triệu
tấn diện tích đã tăng lên 12,88 triệu ha. [14]
Myanmar có 52% diện tích đất lúa là vùng đất thấp chịu nƣớc trời, 18%
đất thấp có tƣới tiêu. Lúa ngập nƣớc đƣợc trồng khoảng 24% và đất cao chỉ
chiếm 6%. Năm 2008 diện tích đất lúa 8,2 triệu ha, sản lƣợng 30,5 triệu tấn .
Năm 2009 diện tích đất lúa giảm xuống 8,0 triệu ha nhƣng sản lƣợng lại tăng
32,68 triệu tấn. Hiện nay Myanmar đang tăng cƣờng sản xuất lúa với các loại
giống cải tiến có năng suất cao. Các nhà khoa học ở đây đã tích cực thu nhập
nguồn vật liệu từ INGER và nguồn gen lúa cổ truyền địa phƣơng để lai tạo,
chọn lọc ra các giống lúa tốt. Myanmar hiện đang đạt năng suất lúa ở mức
40,85 tấn/ha.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

19
Philippines tăng cƣờng sử dụng các giống lúa mới. Diện tích trồng các
giống mới tăng lên 87% vào năm 1991. Năng suất lúa bình quân đạt 3,0
tấn/ha năm 2000 và đến năm 2008 tăng lên 3,7 tấn/ha. Sản lƣợng lúa tăng từ
12,4 triệu tấn năm 2000 lên 16,8 triệu tấn năm 2008. Năng suất giảm xuống
3,55 tấn/ha và đồng thời sản lƣợng giảm xuống 16,2 triệu tấn vào năm
2009[14].
Ấn Độ, năm 2002 - 2003 sản lƣợng gạo là 72,7 triệu tấn, giảm 20,42
triệu tấn, tƣơng đƣơng 21,94% so với năm 2001 - 2002. Một trong những lý
do của sự giảm sụt sản lƣợng là do thời tiết xấu ở nhiều vùng nhƣ hạn, lụt, sâu

bệnh. Tuy nhiên đến năm 2003 - 2004, Ấn Độ đƣợc mùa và sản lƣợng gạo
của Ấn Độ đã đạt 87,94 triệu tấn, tăng 15,28 triệu tấn so với năm 2002 - 2003.
Đến năm 2008 sản lƣợng lúa của Ấn Độ đạt 148,26 triệu tấn. Nhƣng đến 2009
thì sản lƣợng lúa của Ấn Độ chỉ đạt 133,7 triệu tấn[14].
Bảng 1.2 Tình hình sản xuất lúa của 10 nƣớc đứng đầu thế giới năm 2009
Tên nƣớc
Diện tích
( triệu ha )
Năng suất
( tạ / ha )
Sản lƣợng
( triệu tấn)
Trung Quốc
29,881
65,82
196,681
Ấn Độ
41,850
31,94
133,700
Indonexia
12,883
49,98
64,398
Băngladesh
11,354
42,03
47,72
Việt Nam
7,440

52,27
38,895
Thái Lan
10,963
28,69
31,462
Myanma
8,000
40,85
32,682
Philippin
4,532
35,88
16,266
Braxin
2,872
44,05
12,65
Nhật Bản
1,624
65,22
10,59
[14] ( Nguồn: FAOSTAT, 2010 )
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới
Trên thế giới ngƣời ta quan tâm đến việc bảo tồn nguồn gen nói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

20
chung, và nguồn gen cây lúa nói riêng. Ngay từ những năm 1924 Viện

nghiên cứu cây trồng Liên Xô (cũ) đã đƣợc thành lập, nhiệm vụ chính là thu
nhập và đánh giá bảo tồn nguồn gen cây trồng. Tổ chức Lƣơng thực và
nông nghiệp Thế giới (FAO) đã tổng hợp các kết quả nghiên cứu và đề ra
phƣơng hƣớng thúc đẩy việc xây dựng ngân hàng gen phục vụ cho việc giữ
gìn tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ lợi ích lâu dài của nhân loại.
Trong vùng nhiệt đới và á nhiệt đới đã hình thành nhiều tổ chức quốc tế,
đảm nhận việc thu thập tập đoàn giống trên thế giới đồng thời cung cấp
nguồn gen để cải tạo giống lúa trồng [11]
Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế với tên tiếng Anh là
International Rice Research Institute (IRRI) ở Los Banos, Philippines đã
bắt đầu chƣơng trình thu thập, bảo tồn và đánh giá các giống cổ truyền và
các cây lúa dại từ năm 1962. Từ khi thành lập IRRI đã tiến hành thu thập
nguồn gen cây lúa, năm 1977 chính thức khai trƣơng ngân hàng gen, tại đây
đã thu thập tập đoàn cây lúa từ 110 quốc gia trên Thế giới trong bộ sƣu tập
có hơn 80 nghìn mẫu, trong đó các giống lúa trồng ở châu Á (O. sativa)
chiếm đến 95% [32]. Khoảng 90.000 giống lúa trồng trên khắp thế giới đã
đƣợc tồn trữ ở IRRI và cùng một số lƣợng giống lúa này đƣợc IRRI gửi bảo
quản ở Phòng Khảo nghiệm tồn trữ hạt giống quốc gia Mỹ (US. National Seed
Storage Laboratory) tại Fort Collins thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ, Colorado - Mỹ
và ở Viện Quốc gia Tài nguyên Nông sinh (National Institute of Agrobiological
Resources) ở Nhật Bản. Nhƣng sự bảo quản tại các phòng lạnh hiện nay có thể
làm ngăn trở sự tiến hóa của các giống lúa này với môi trƣờng. Vì vậy, bảo quản
các giống lúa ngoài ruộng rất cần thiết nhƣng tốn kém.
Trong hơn 40 năm tồn tại và phát triển IRRI đã lai tạo, chọn lọc
hàng trăm giống lúa tốt phổ biến khắp thế giới, tiêu biểu nhƣ các giống
IR, Jasmin. IR8 mở đầu cho cuộc cách mạng xanh ở các nƣớc Nam Á và
Đông Nam Á. Tiếp theo là sự ra đời của các giống lúa, mà sự ra đời của
các giống này đã tạo ra sự nhảy vọt về năng suất, phẩm chất lúa nhƣ: IR5,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


21
IR6, IR20, IR22, IR26, IR36, Những năm 80 (thế kỷ XX) giống IR8
đƣợc trồng phổ biến ở Việt Nam đã đƣa năng suất lúa tăng cao đáng kể.
Cuộc “cách mạng xanh” từ giữa thập niên 60 (thế kỷ XX) đã có ảnh
hƣởng tích cực đến sản lƣợng lúa của châu Á. Nhiều tiến bộ kỹ thuật đã
đƣợc tạo ra để nâng cao năng suất và sản lƣợng lúa gạo. Các nhà nghiên cứu
của viện lúa Quốc tế đã nhận thức rằng các giống lúa mới thấp cây, lá đứng,
tiềm năng năng suất cao cũng chỉ có thể giải quyết vấn đề lƣơng thực trong
phạm vi hạn chế. Hiện nay Viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu chọn
tạo ra các giống lúa cao sản (siêu lúa) có thể đạt 13 tấn/ha/vụ, đồng thời
phát huy kết quả chọn tạo 2 giống là IR64 và Jasmin là giống có phẩm chất
gạo tốt, đƣợc trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới. Trên cơ sở một số
giống lúa chất lƣợng cao Viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu, chọn
tạo các giống lúa có hàm lƣợng Vitamin và Protein cao, có mùi thơm, cơm
dẻo ) vừa để giải quyết vấn đề an ninh lƣơng thực, vừa đáp ứng đƣợc nhu
cầu đòi hỏi ngày càng cao của ngƣời tiêu dùng [27].
IRRI đã có quan hệ chính thức với Việt Nam từ năm 1975 trong
chƣơng trình thí nghiệm giống quốc tế trƣớc đây và hiện nay là chƣơng
trình đánh giá nguồn gen cây lúa. Trong quá trình hợp tác, Việt Nam đã
nhập đƣợc
279 tập đoàn lúa gồm hàng ngàn mẫu giống, mang nhiều đặc
điểm sinh học
tốt, chống chịu với sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất
thuận nhƣ nhiệt độ, nhiễm mặn, hạn hán, úng lụt vv [31].
Các nhà khoa học Ấn Độ và Nhật Bản là những ngƣời đầu tiên đề xuất mở
rộng sản xuất lúa lai thƣơng phẩm [29]. Tại viện nghiên cứu lúa quốc tế -
IRRI các nhà khoa học đã xây dựng chƣơng trình nghiên cứu về lúa lai làm
cơ sở cho phát triển sản xuất lúa lai thƣơng phẩm. Song tất cả họ đều chƣa
thành công vì chƣa tìm ra phƣơng pháp thích hợp để sản xuất hạt lai [30].

Nhƣng việc nghiên cứu chọn tạo giống lúa không chỉ dừng lại ở đó, sự miệt
mài của các nhà khoa học ở Viện nghiên cứu lúa Quốc tế đã lai tạo chọn lọc
hàng trăm giống lúa tốt đƣợc gieo trồng phổ biến trên thế giới. Các giống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

22
lúa IR5, IR6, IR8, IR30 và những giống lúa khác đã tạo ra sự nhảy vọt
về năng suất. Các viện khác nhƣ IRAT, EAT, ICRISAT cũng đã chọn lọc
ra nhiều những giống lúa tốt phục vụ sản xuất.
Hiện nay ngƣời ta ứng dụng ƣu thế lai trong sản xuất lúa. Trong lịch
sử phát triển lúa lai, Trung Quốc là nƣớc đầu tiên sử dụng thành công ƣu thế
này. Năm 1974, các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợp
lai có ƣu thế lai cao, đồng thời xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất hạt
lai hệ "3 dòng" đƣợc hoàn thiện và đƣa vào sản xuất năm 1975. Năm
1996, Trung Quốc lại thành công với quy trình sản xuất lúa lai "2 dòng"
và đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai 1 dòng và lúa lai siêu cao sản nhằm tăng
năng suất và sản lƣợng lúa gạo của đất nƣớc [35]. Cụ thể nhƣ sau: năm
1973 Shiming Song phát hiện ra đƣợc dòng bất dục mẫn cảm với ánh
sáng ngày ngắn (PGMS) từ giống Nongken 58. Nhiều kết quả nghiên cứu
khác về lúa lai hai dòng cũng đã đƣợc công bố. Năm 1991 các nhà khoa học
Nhật Bản đã áp
dụng phƣơng pháp gây đột biến nhân tạo để tạo ra dòng bất
dục đực mẫn cảm
với nhiệt độ [29].
Chƣơng trình phát triển lúa lai giữa các
loài phụ indica và japonica đƣợc bắt đầu từ năm 1987 nhờ sự phát hiện và sử
dụng gen tƣơng hợp rộng, mở ra tiềm năng về năng suất cao cho các giống lúa lai
hai dòng [34]. Những tổ hợp giữa các loài phụ nhƣ: Chen 232/26 Zhazao;
3037/02428 và 6154S/vaylava đƣa ra ở Trung Quốc nhƣng không đƣợc sử dụng

trong sản xuất đại trà, vì cây F1 quá to, bông quá lớn, số dảnh ít, dạng lá rộng.
Bởi thế, Yang Z và CS (1997) [37] đã đề xuất một lý thuyết chọn giống năng
suất siêu cao thông qua việc kết hợp hình dạng lý tƣởng và ƣu thế lai thích hợp.

Nhờ ƣu thế hơn hẳn về năng suất nên diện tích lúa lai của Trung Quốc
không ngừng đƣợc mở rộng. Năm 1992 diện tích gieo trồng lúa lai của
Trung Quốc là 15.000 ha với năng suất 9 - 10 tấn/ha, năng suất cao nhất
đạt 17 tấn/ha [3]. Năm 1997 đã có 640.000 ha, năng suất trung bình cao
hơn lúa lai 3 giống từ 5 - 15% [37]. Đến năm 2001 diện tích lúa lai 2 dòng
đạt 2,5 triệu ha. Một số tổ hợp lai hai giống điển hình có năng suất đạt hơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

23
10,5 tấn/ha ở điểm trình diễn và năng suất trung bình trên diện rộng là 9,1
tấn/ha. Đã có những tổ hợp lúa lai 2 dòng đều mới đạt 12 - 14 tấn/ha trong ô
thí nghiệm [36]. Hầu hết các tổ hợp lai hai dòng đều cho năng suất cao và
phẩm chất tốt hơn so với tổ hợp lai ba dòng [3]. Gần đây hƣớng nghiên cứu
phát triển lúa lai một giống là muc tiêu cuối cùng và rất quan trọng của công
tác chọn tạo lúa lai của Trung Quốc. Ý tƣởng của Yuan L.P là cố định ƣu
thế lai và sản xuất lúa lai thuần đã trở thành đề tài lớn, quan trọng trong
các chƣơng trình
quốc gia về phát triển khoa học và công nghệ cao.

Nhƣ vậy xu thế phát triển tất yếu của lúa lai theo Yuan Long Ping
đã khởi xƣớng là phát triển từ hệ thống ba dòng đến hệ thống hai dòng và
sau đó là hệ lai một dòng hay cố định ƣu thế lai ở F1 thành lúa lai thuần.
Sự phát triển thành công của công nghệ sản xuất lúa lai ở Trung
Quốc đã đƣợc ứng dụng rộng rãi ở nhiều nƣớc trên thế giới. Hiện nay có
17 nƣớc trên thế giới nghiên cứu và sản xuất lúa lai đã đƣa tổng diện tích

lúa lai của thế giới lên tới khoảng 10% tổng diện tích trồng lúa và chiếm
20% tổng sản lƣợng lúa gạo toàn thế giới, song phát triển mạnh nhất vẫn là
Việt Nam và Ấn Độ. Lúa lai đã thực sự mở ra hƣớng phát triển mới để nâng
cao năng suất, sản lƣợng lúa cho xã hội loài ngƣời.
Ấn Độ là một nƣớc đi đầu trong cuộc “cách mạng xanh” và thành công
lớn trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhất là giống mới
vào sản xuất. Trong công tác nghiên cứu giống lúa, Viện nghiên cứu giống
lúa trung ƣơng của Ấn Độ đƣợc thành lập vào năm 1946 tại Cuttuck bang
Orisa là nơi tập trung nghiên cứu, lai tạo các giống lúa mới phục vụ sản xuất.
Ngoài ra tại các bang của Ấn Độ đều có các cơ sở nghiên cứu, trong đó các
cơ sở quan trọng ở Madras heydrabat, Kerala, hoặc Viện Nghiên cứu cây
trồng cạn Á nhiệt đới (ICRISAT). Nhờ vậy Ấn Độ là nƣớc có nhiều giống
lúa chất lƣợng cao nổi tiếng trên thế giới nhƣ: Basmati, Brimphun trong
đó giống lúa Basmati có giá trị trên thị trƣờng tới 850 Đô la Mỹ/tấn, trong
khi giống gạo thơm Thái Lan nổi tiếng trên Thế giới cũng chỉ có giá trị 460

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

24
Đô la Mỹ /tấn [9].
Mặt khác, Ấn Độ cũng là nƣớc nghiên cứu lúa lai khá sớm và đã
đạt đƣợc một số thành công nhất định, một số tổ hợp lai tốt đƣợc sử dụng
ở Ấn Độ nhƣ; IR58025A/IR9716, IR62829A/IR46, PMS8A/IR46, ORI 161,
ORI
136, 2RI 158, 3RI 160, 3RI 086, PA- 103 Một trong những giống
lúa chất
lƣợng cao do các nhà khoa học chọn tạo thành công đƣợc nhập về
Việt Nam là giống BTE-1, giống này đã đƣợc Bộ Nông nghiệp & PTNT Việt
Nam công nhận năm 2007 [9].
Thái Lan là nƣớc xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới. Với những

ƣu đãi của thiên nhiên Thái Lan có vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu,
mặc dù năng suất và sản lƣợng lúa gạo của Thái Lan không cao song họ
chú trọng đến việc chọn tạo giống có chất lƣợng gạo cao. Các trung tâm
nghiên cứu lúa của Thái Lan đƣợc thành lập ở nhiều tỉnh và các khu vực.
Các trung tâm này có nhiệm vụ tiến hành chọn lọc, phục tráng, lai tạo,
nhân giống phục vụ cho nhu cầu sản xuất của ngƣời dân với mục tiêu phục
vụ nhu cầu trong nƣớc và xuất khẩu. Các đặc điểm nổi bật của các giống
lúa mà các nhà khoa học tập trung nghiên cứu và lai tạo đó là hạt gạo dài
và trong, ít dập gãy khi xay sát, có hƣơng thơm, coi trọng chất lƣợng hơn là
năng suất, điều này cho chúng ta thấy rằng giá lúa gạo xuất khẩu của Thái
Lan bao giờ cũng cao hơn của Việt Nam. Một số giống lúa chất lƣợng cao
nổi tiếng thế giới của Thái Lan là: Khaodomali, Jasmin (Hƣơng nhài).
Đối với Nhật Bản, công tác giống lúa cũng đƣợc đặc biệt chú trọng
về giống chất lƣợng cao vì ngƣời Nhật giàu có, nên nhu cầu đòi hỏi lúa gạo
chất lƣợng cao. Để đáp ứng thị hiếu ngƣời tiêu dùng, các Viện và các Trạm
nghiên cứu giống lúa đƣợc thành lập ở hầu hết các tỉnh thành của Nhật Bản,
trong đó có các trung tâm quan trọng nhất đặt ở Sendai, Niigata, Nagoya,
Fukuoka, Kochi, Miyazaki, Sags, là những nơi diện tích trồng lúa lớn.
Trong công tác nghiên cứu giống lúa ở các Viện, các nhà khoa học Nhật
Bản đã tập trung lai tạo và đƣa vào sản xuất các giống lúa vừa có năng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

25
suất cao, chất lƣợng tốt nhƣ Koshihikari, Sasanisiki, Koenshu đặc biệt ở
Nhật đã lai tạo đƣợc 2
giống lúa có mùi thơm đặc biệt, chất lƣợng gạo
ngon và năng suất cao nhƣ
giống: Miyazaki1 và Miyazaki2. Cho đến giờ
các giống này vẫn giữ đƣợc vị trí hàng đầu về 2 chỉ tiêu quan trọng đó là

hàm lƣợng Protein cao tới 13%, hàm lƣợng Lysin cũng rất cao [Nguyễn
Hữu Hồng (1993) [8]. Ngoài ra, thành công trong công tác giống lúa của
Nhật Bản còn đƣợc đánh dấu bởi giống Tongil đã tạo ra bƣớc nhảy vọt về
năng suất lúa.
Các nƣớc Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Đài Loan chủ yếu nghiên cứu
và sử dụng giống lúa thuộc loại hình Japonica, hạt gạo tròn, cơm dẻo phù hợp
với thị hiếu tiêu dùng của ngƣời dân khu vực này. Các giống lúa nổi tiếng
của khu vực này là Tongil (Hàn Quốc), Tai chung 1, Tai chung 2, Gang
chan gi, Đee- Geo-Wô-Gen (Đài Loan)… đặc biệt giống Đee-Geo-Wô-Gen
là một vật liệu khởi đầu để tạo ra giống lúa IR8 nổi tiếng một thời [26].
Các chuyên gia nông nghiệp Đài Loan cho biết đã nghiên cứu phát
triển thành công các giống lúa mới giàu dinh dƣỡng. Các giống này không
phải là biến đổi gen sẵn có nhiều màu sắc khác nhau nhƣ đen, đỏ và vàng mà
màu sắc phụ thuộc vào hàm lƣợng dinh dƣỡng nhƣ Beta-carotene và
anthocyanins - một chất chống ôxy hoá. Đây là kết quả nghiên cứu gần 9
năm thí nghiệm để kết luận đột biến trên cây lúa với việc sử dụng các tác
nhân hoá học. Nhƣ trên ta thấy, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con
ngƣời các nhà chọn giống không những chọn tạo ra đƣợc những giống lúa có
năng suất cao mà còn chọn tạo ra những giống có chất lƣợng cao, hàm
lƣợng dinh dƣỡng lớn. Đây cũng là một giải pháp để giảm áp lực cho y
học. Vì vậy, một số viện nghiên cứu quốc tế đang tập trung vào giống lúa
mới “gạo vàng 2” để chống lại nguy cơ bệnh mù do thiếu vitamin A đang
tăng lên trên thế giới. So với giống "gạo vàng" phát triển vào năm 2000,
“gạo vàng 2” này có hàm lƣợng beta-
carotene cao gấp 23 lần.

Theo ông Jagadish Mittur - giám đốc Trung tâm nghiên cứu

×