TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN Số 6 - Tháng 6/2011
146
CÁC VẤN ĐỀ MƠI TRƯỜNG CẦN QUAN TÂM TRONG Q
TRÌNH TRIỂN KHAI VÀ VẬN HÀNH DỰ ÁN QUY HOẠCH THỦY
LỢI CHỐNG NGẬP ÚNG KHU VỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHẠM HỒNG NHẬT
(*)
LÊ VĂN TÂM, NGUYỄN PHÚ BẢO
(**)
TRẦN THỊ THANH THÙY
(***)
TĨM TẮT
Quy hoạch thuỷ lợi chống ngập úng khu vực thành phố Hồ Chí Minh đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1547/QĐ-TTg kí ngày 28/10/2008 với mục
tiêu đề ra các giải pháp chống ngập úng và góp phần cải tạo mơi trường nước trong khu
vực. Các vấn đề mơi trường của dự án này đang được nghiên cứu trong đề tài cấp Nhà
nước mã số ĐTĐL 2009.G/50 “Nghiên cứu ảnh hưởng của hệ thống cơng trình chống
ngập úng khu vực thành phố Hồ Chí Minh đến mơi trường và đề xuất các giải pháp phát
huy và giảm thiểu”. Qua nghiên cứu, một bức tranh tổng thể về các vấn đề mơi trường của
dự án đã được hình thành, là cơ sở khoa học quan trọng cho các nghiên cứu sâu hơn về
các ảnh hưởng đến mơi trường và đề xuất các giải pháp giảm thiểu các tác động tiêu cực
của dự án.
ABSTRACT
The water conservation project against floods in HCM City was approved by the
Prime Minister under Decision No. 1547/QĐ-TTg signed on October 28, 2008, the
purpose of which is to suggest solutions to prevent floods and improve the water
environment in the area. The environmental problems mentioned in the project have been
studied in the national level research coded ĐTĐL 2009.G/50 “A Study of the Impacts of
the Anti-Floods System in HCM City on the Environment and Some Proposed Solutions”.
Through the study, we can see completely the environmental problems of the project,
which serves as a good basis for further scientific research on the impacts on the
environment so that we can suggest solutions to reduce their negative effects.
1. GIỚI THIỆU
(*)
Quy hoạch thuỷ lợi chống ngập úng
khu vực thành phố Hồ Chí Minh [1,2] được
()
TS, Viện Kĩ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ mơi
trường, TP. Hồ Chí Minh.
()
ThS, Viện Kĩ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ mơi
trường, TP. Hồ Chí Minh.
()
ThS, Viện Mơi trường và Tài ngun, TP. Hồ
Chí Minh
nghiên cứu thực hiện trên diện tích 968.500
ha, bao gồm thành phố Hồ Chí Minh (diện
tích 209.500 ha) và các vùng phụ cận là hạ
du các sơng Đồng Nai (từ hồ Trị An đến
biển có diện tích 235.000 ha), sơng Sài
Gòn (từ hồ Dầu Tiếng đến thành phố Hồ
Chí Minh, có diện tích 243.000 ha và sơng
Vàm Cỏ Đơng có diện tích 281 ha). Khu
147
vực chống ngập úng được chia làm 3 vùng
kiểm soát nước (Hình 1):
Vùng I: Khu vực giữa sông Sài Gòn
– Nhà Bè và sông Vàm Cỏ Đông với tổng
diện tích tự nhiên vào khoảng 2.180 km
2
sẽ được xây dựng hệ thống cống khép kín
tuyến đê bao được đặt tại các cửa sông,
rạch đổ ra sông Sài Gòn, Nhà Bè, Vàm
Cỏ và Vàm Cỏ Đông với 12 cống chính
có nhiệm vụ kiểm soát mức nước và cải
thiện môi trường nước trong khu vực
nghiên cứu.
Vùng II: bao gồm toàn bộ khu vực ngã
ba sông Đồng Nai - Sài Gòn với tổng diện
tích 22.482 hecta với mục tiêu kiểm soát lũ
thượng lưu, kiểm soát triều nhằm giải
quyết bài toán chống ngập cho thành phố
trong điều kiện có lũ lớn ở thượng lưu và
nước biển dâng trong tương lai; gắn kết
việc vận hành công trình kiểm soát nước
với việc cải thiện môi trường kênh rạch và
cải tạo các vùng đất phèn.
Vùng III: bao gồm toàn bộ bờ tả khu
vực bờ tả sông Nhà Bè - Soài Rạp là vùng
sinh quyển mở, có thể xây dựng các công
trình kiểm soát nước quy mô lớn trong
tương lai tuỳ thuộc vào tình hình diễn biến
nước biển dâng và quá trình phát triển đô
thị phía Nam thành phố.
Trọng tâm của quy hoạch là Vùng I.
2. CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
CỦA DỰ ÁN
Qua quá trình nghiên cứu và tham vấn
ý kiến của nhiều chuyên gia, có thể hình
dung một bức tranh tổng quan về các vấn
đề môi trường cần lưu ý của dự án chống
ngập úng khu vực thành phố Hồ Chí Minh.
Do phạm vi tác động rộng lớn của dự
án, để có thể đánh giá một cách toàn diện
và đầy đủ các vấn đề môi trường của dự án,
cần thiết phải đánh giá theo nhiều góc độ
và theo một trình tự sao cho người theo dõi
có thể nắm bắt vấn đề một cách dễ dàng.
Trình tự này được đề xuất như sau:
Theo các giai đoạn triển khai dự án:
(1) Chuẩn bị triển khai dự án; (2)Thi công;
(3)Vận hành và bảo dưỡng
Theo không gian: Kênh rạch nội
đồng; Sông chính; Cửa cống; Đê;
TPHCM; Long An
Theo đối tượng bị tác động:
- Chế độ thuỷ văn: Dòng chảy; Xói
lở, bồi lắng; Tắt nghẽn dòng chảy
- Các thành phần môi trường: Nước
mặt (Chất lượng nước, xâm nhập mặn);
Nước ngầm; Không khí; Đất.
- Hệ sinh thái
- Phát sinh dịch bệnh
Theo thời gian (theo mùa): Mùa
khô và mùa mưa
Theo cơ chế vận hành của hệ thống
cống.
Vùng II
Vùng III
Hình 1. Bản đồ phân
vùng nghiên cứu [2]
Vùng I
148
Theo các kịch bản sự cố:
- Tổ hợp các yếu tố bất lợi: triều,
mưa lớn, lũ
- Ý thức người dân: ví dụ xả rác
xuống kênh rạch, sông.
Ngoài ra, với mỗi một vấn đề sẽ được
đánh giá ở cả 02 mặt tích cực và tiêu cực để
từ đó đề ra biện pháp phát huy và khắc phục,
phù hợp với mục đích của nghiên cứu.
Theo trình tự các giai đoạn triển khai
của dự án, một số vấn đề môi trường nổi
bật của dự án chống ngập úng có thể được
nhận diện như sau:
2.1. Trong giai đoạn chuẩn bị dự án
Trong giai đoạn chuẩn bị thực hiện dự
án, nguồn gây tác động chủ yếu là công tác
đền bù, giải phóng mặt bằng. Việc thực
hiện dự án sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến nhiều hộ dân trong khu vực
dự án. Công tác giải phóng mặt bằng thu
hồi đất sẽ ảnh hưởng lớn đến những hộ có
diện tích canh tác hiện hữu nhỏ và có thu
nhập chính từ canh tác nông nghiệp [6,7].
Công tác chuẩn bị mặt bằng bao gồm
cả việc phát quang cây cối và san lấp mặt
bằng, những công tác này không chỉ làm
mất thảm thực vật tại khu vực thực hiện dự
án mà còn gây xáo trộn, thay đổi cấu trúc
đất và gia tăng bụi, tiếng ồn. Quá trình phát
quang cây cối là nguyên nhân gây xói mòn
đất. Sự suy thoái chất lượng đất có thể xảy
ra do việc trộn lẫn các loại đất có tính chất
khác nhau (cát, đá gia cố mặt bằng) hoặc
các lớp đất (lớp bề mặt và lớp đất sâu) với
nhau, do bị ô nhiễm đất đá hoặc chất thải vì
thiếu cẩn thận trong quá trình san lấp [8].
2.2. Trong giai đoạn triển khai thi
công dự án
2.2.1. Chế độ thuỷ văn
- Thay đổi mực nước: Kết quả tính
toán thuỷ lực cho thấy trong trường hợp chỉ
xây dựng cống Thủ Bộ hoặc xây dựng cả
ba cống (Thủ Bộ, Mương Chuối, Kinh Lộ),
mực nước giảm không đáng kể. Khi xây
dựng 5 cống thuộc khu Nam (Thủ Bộ,
Mương Chuối, Kinh Lộ, Sông Kinh, Kinh
Hàng), mực nước giảm đáng kể, từ 26-45
cm. Tuy nhiên, vận tốc tại các kênh Bến
Nghé, Kênh Tẻ, Phú Xuân sẽ tăng lên rất
nhiều so với hiện trạng, dẫn tới xói lở lòng
dẫn các kênh chưa có cống trong mùa triều
cường khi các cống này hoạt động. Vì vậy,
trong trường hợp này, cần phải nghiên cứu
kĩ hơn về vấn đề bồi lắng và xói lở. Trong
trường hợp xây dựng cả 8 cống thuộc khu
Nam, mực nước trong vùng thuộc khu Nam
hạ thấp nhiều. Khi hạ được mực nước, thì
các kênh rạch sẽ biến thành các hồ điều tiết
với khả năng trữ nước lớn, góp phần giảm
ngập úng cho thành phố Hồ Chí Minh [4].
- Xói mòn/Ngập lụt: Về cơ bản, các
công trình trong dự án sẽ được thiết kế theo
hình thức đặt ngay trên dòng chảy, thi công
trong nước, không chặn dòng. Do đó, việc
ngập cục bộ không xảy ra. Xói lở cục bộ
thượng hạ lưu các cống trong quá trình thi
công có thể xảy ra, nhất là khi ngăn dòng
gây co hẹp dòng chảy. Khi nạo vét để thi
công công trình sẽ lấy đi một lượng lớn
bùn đáy và tăng độ sâu của kênh rạch, kết
hợp với các dao động của nước trong quá
trình nạo vét, giao thông thuỷ sẽ gây ra
hiện tượng xói mòn và sạt lở bờ. Trong quá
trình thi công và vận hành cần phải có giải
pháp hạn chế xói mòn cho phù hợp.
2.2.2. Hệ sinh thái
Trong quá trình nạo vét sẽ sinh ra cặn
lơ lửng, các chất hữu cơ nguy hại (PAHs),
kim loại nặng có trong bùn đồng thời nạo
vét sẽ kéo theo các sinh vật đáy sẽ tác động
149
tới chất lượng môi trường và hệ sinh thái
dưới nước. Quá trình vận chuyển bùn cũng
tác động tới môi trường do nước rỉ từ bùn.
Các tác động cụ thể như sau:
- Thay đổi cấu trúc quần xã và phân
bố động thực vật: có khả năng xảy ra hiện
tượng di cư của động vật trên cạn và dưới
nước ra khỏi khu vực bị ảnh hưởng cũng
như giảm số lượng và thay đổi cấu trúc loài
động vật tự nhiên và hoang dã khu vực thi
công dự án và khu vực lân cận.
- Chuỗi thức ăn: việc giảm số lượng
và thay đổi cấu trúc của các loài sẽ tác
động tới chuỗi thức ăn của hệ sinh thái
dưới nước.
- Hệ sinh thái trên cạn: Những tác
động có thể ảnh hưởng tới tài nguyên sinh
học như rừng, động vật, thực vật và đa
dạng sinh học gồm: phá vỡ cảnh quan thiên
nhiên, gây sạt lở, làm giảm diện tích một
số thảm thực vật cây cối lâu năm, cây ăn
trái, cây công nghiệp, cây nông nghiệp,
thảm thực vật trên đất thổ cư…
2.2.3. Chất lượng nước mặt
- Chất lượng nước mặt sẽ bị tác động
lớn nhất do nạo vét kênh rạch. Các chất
gây ảnh hưởng đến chất lượng nước mặt do
quá trình nạo vét gồm có chất lơ lửng
không tan, các kim loại, các chất hữu cơ.
- Nguồn nước có thể bị chua hoá cục
bộ hoặc lan ra các vùng lân cận do sự hiện
diện đất phèn tại một số khu vực của dự án
quy hoạch, việc nạo vét đất đổ lên bờ kênh
sẽ xảy ra quá trình oxy hoá các vật liệu
sinh phèn, khi trời mưa sẽ cuốn trôi xuống
sông, kênh rạch gây ảnh hưởng cho các loài
thuỷ sinh.
2.2.4. Chất lượng nước ngầm
- Quá trình thi công móng sâu có thể
làm tăng nguy cơ ô nhiễm nước ngầm do
thông nhiễm, khi đó chất ô nhiễm sẽ di
chuyển theo vị trí đóng cừ vào tầng nước
ngầm bên dưới. Tầng nước ngầm chịu ảnh
hưởng nhiều nhất là tầng nông (tầng
halocen và pleistocen). Các chất ô nhiễm
bên ngoài sẽ theo lỗ khoan giếng vào mạch
nước ngầm làm giảm chất lượng nước. Do
vậy, trong quá trình thi công khoan giếng,
khai thác và kết thúc sử dụng giếng phải có
biện pháp quản lí phù hợp để giảm thiểu
tác động.
- Quá trình thi công công trình cũng có
thể làm hạ thấp mực nước ngầm, gây ôxy
hoá các vật liệu sinh phèn, làm ô nhiễm
nguồn nước ngầm tầng mặt.
2.3. Trong giai đoạn vận hành dự án
2.3.1. Kênh rạch nội đồng
2.3.1.1. Chế độ thuỷ văn
- Thay đổi hướng dòng chảy: từ hai
chiều với độ lưu cữu lớn sang một chiều có
thể xóa bỏ giáp nước tại khu vực trung tâm
thành phố, góp phần quan trọng cải thiện
môi trường nước mặt trong khu vực; đem
lại hiệu quả to lớn về kinh tế, xã hội và môi
trường.
- Bồi lắng: Khi xây dựng đê bao và
các cống điều tiết nước. Nước từ các kênh
rạch sẽ không được thoát tự nhiên ra sông
mà phải chảy qua hệ thống cống. Cống lúc
này có tác dụng như là một vách ngăn, góp
phần làm giảm tốc độ dòng chảy và tăng sự
lắng đọng các chất lơ lửng.
- Tắc nghẽn dòng chảy: Cùng với sự
tích tụ bùn đáy ở khu vực gần các cống
thì sự ứ đọng rác cũng là điều rất đáng
quan tâm. Với tổng chiều dài kênh rạch
khoảng 56 km và diện tích mặt nước
khoảng 33.500 ha, chảy qua nhiều khu
dân cư nên lượng rác đổ xuống các kênh
rạch là rất lớn. Ngoài một phần được thu
150
gom trên các tuyến kênh, một phần sẽ
theo dòng chảy tự nhiên tập trung đến các
cống lớn để thoát ra sông Sài Gòn. Tuy
nhiên, do sự hình thành các cống, rác
không thoát đuợc và ứ đọng ở các khu
vực có cống. Sự ứ đọng này chắc chắn sẽ
gây ra những ảnh hưởng đến môi trường
do đặc tính ô nhiễm của rác.
2.3.1.2. Chất lượng nước mặt
Mùa khô
- Nếu các cống đóng mở tự do 2
chiều: chất lượng nước hầu như không thay
đổi so với trước khi có dự án. Biến động
tăng mức độ ô nhiễm nước khi vận hành hệ
thống cống theo cơ chế đóng mở hai chiều
về hai phía là không quá 3% nhưng biến
động giảm là đáng kể (lên đến 11,5%) theo
chỉ số BOD
5
[9].
- Nếu mở một chiều để lấy nước vào
để làm vệ sinh các kênh rạch trong thành
phố: Các kênh rạch trong thành phố sẽ sạch
hơn. Tuy nhiên, trong một số kênh cụt
không liên thông, ô nhiễm tăng lên, là do
lượng nước sạch pha loãng nước bẩn bị
giảm nhỏ so với trước đây (tác dụng ngăn
triều đã làm giảm khả năng pha loãng và
đẩy trôi của triều).
Mùa mưa
- Trong mùa mưa, triều cao và mưa
lớn, các cống sẽ được vận hành kiểm soát
triều, tạo ra các dung tích phòng mưa trong
mạng kênh rạch. So với mùa khô, Mưa có
tác dụng pha loãng, làm giảm nồng độ
nước thải, nồng độ chất hữu cơ trong các
kênh rạch của thành phố so với mùa khô.
2.3.1.3. Phát sinh dịch bệnh: Việc vận
hành các cống không tốt sẽ có nguy cơ ảnh
hưởng rất lớn đến môi trường do phát sinh
ô nhiễm, muỗi mòng trong khu dân cư,
nhất là tại các kênh cụt.
2.3.1.4. Môi trường đất: việc vận hành
hệ thống công trình điều tiết lũ sẽ góp phần
cải tạo vùng đất trũng mặn, phèn phía Tây
thành phố [3].
2.3.2. Sông
2.3.2.1. Chế độ thuỷ văn
- Tốc độ, lưu lượng dòng chảy: Tác
động lớn nhất là vào mùa mưa và thuỷ
triều lên, hệ thống đập và cống kiểm soát
mực nước bắt đầu có tác dụng ngăn nước
vào khu vực bên trong dự án làm cho tốc
độ dòng chảy khu vực bên trong dự án
giảm, nhưng làm cho mực nước và tốc độ
dòng chảy bên ngoài khu vực dự án tăng.
Chế độ thuỷ văn của khu vực bên ngoài dự
án sẽ bị ảnh hưởng lớn vào mùa mưa và
khoảng thời gian mực nước biển cao (từ
tháng 10, 11, 12 và tháng 1). Các yếu tố
này kết hợp với lũ ở thượng nguồn sẽ làm
cho diện tích ngập úng của các khu vực
bên ngoài dự án tăng sẽ tác động đến đời
sống của người dân. Sau khi hoàn thành
công trình chống ngập thì mực nước ở các
khu vực lân cận nằm ngoài vùng dự án như
quận 2, quận 9, Thủ Đức, Nhơn Trạch,
Biên Hòa, Long Thành, sẽ tăng lên 12 –
22cm, phổ biến từ 9cm – 15cm và khi có
bão cấp 11 thì mực nước dâng lên cao hơn
20 – 25cm khi chưa có công trình [1]. Do
đó, thiệt hại của các vùng này sẽ tăng lên
so với khi chưa có công trình.
- Theo một ý kiến khác [5], mực
nước Hmax sẽ cao hơn so với hiện trạng
50-65cm trong trường hợp toàn vùng hạ
lưu sẽ bao đê dọc sông, tương đương với
mực nước dâng trong trường hợp biến đổi
khí hậu (BĐKH) vào năm 2070. Chúng sẽ
tác động không những trên địa bàn
TP.HCM, mà cả trên các địa bàn lân cận
thuộc Bình Dương và Long An.
151
- Xói mòn: như đã đánh giá ở trên
tốc độ và lưu lượng dòng chảy bên ngoài
khu vực dự án tăng vào mùa mưa và thuỷ
triều, dẫn đến tăng khả năng gây xói mòn
bờ sông và kênh rạch ngoài vùng dự án
nhất là khi có tàu thuyền hoạt động.
- Việc chúng ta xây dựng hàng loạt
các đê sông, đê biển, san lấp hàng ngàn ha
đất vùng trũng, lấy đất xây dựng sẽ làm
mất đi các ô điều tiết nước ven sông, làm
cho các dòng chảy tập trung hơn (nhất là
dòng triều) dẫn tới việc làm dâng cao mức
nước đỉnh triều, hạ thấp chân triều, biên độ
triều gia tăng. Điều đó, đồng nghĩa với việc
gia tăng năng lượng dòng triều, sóng triều.
Ngập lụt, xói lở do đó tăng theo.
- Rủi ro, sự cố: Các rủi ro có thể xảy
ra là tai nạn trong quá trình giao thông
(thuỷ và bộ), vỡ đê, hệ thống cống kiểm
soát hoạt động không hiệu quả do hư
hỏng khi hệ thống công trình đi vào hoạt
động thì các công trình bên trong vùng dự
án phát triển, đồng thời tâm lí chủ quan
hơn do đó khi có sự cố liên quan đến hệ
thống này nếu không được xử lí kịp thời sẽ
gây tác hại kinh tế lớn, vì vậy cần phải có
kế hoạch ngăn ngừa và ứng phó phù hợp.
2.3.2.2. Chất lượng nước ngầm:
- Nước ngầm sẽ bị tác động do bị ảnh
hưởng bởi chất lượng nước mặt. Hạ tầng
khu vực dự án phát triển sẽ tăng tỉ lệ bê
tông hoá do đó mực nước ngầm bị ảnh
hưởng. Đồng thời hệ thống cừ, cột của hệ
thống sẽ làm tăng nguy cơ thông nhiễm do
đó ảnh hưởng đến chất lượng nước ngầm
nhất là đối với các tầng nước ngầm nông.
2.3.2.3. Chất lượng nước mặt
Mùa khô
- Ô nhiễm giảm hẳn do nước bẩn bị
ngăn lại, không lan truyền trực tiếp ra sông
- Phụ thuộc vào chế độ vận hành, có
thể giảm ô nhiễm trên sông Vàm Cỏ
Đông, nhưng tăng ô nhiễm tại hạ lưu cống
do nước thải đã được tiêu thoát theo
đường Thủ Bộ và các cửa sông khác đổ ra
Đồng Nai và Sài Gòn. Tất nhiên, khi các
dự án vệ sinh môi trường (hiện đang được
thực hiện) hoàn thành thì ô nhiễm sẽ được
giảm hẳn.
Mùa mưa
- Chất lượng nước mặt: hệ thống đi
vào hoạt động sẽ kiểm soát mực nước bên
trong vùng dự án sẽ thúc đẩy phát triển hạ
tầng và kinh tế xã hội. Vì thế tải lượng các
chất ô nhiễm được thải ra cũng lớn hơn do
kinh tế phát triển.
- Vào mùa mưa hệ thống cống hoạt
động bơm nước bên trong dự án ra ngoài
khu vực dự án đồng thời cũng mang chất ô
nhiễm từ hệ thống kênh rạch nội thành ra
ngoài dẫn đến tác động tới môi trường
nước khu vực ngoài dự án.
- Sự chua hoá của nguồn nước mặt
và phân tán các độ tố (nhôm, sắt…) sẽ
làm thay đổi về độ chua và sẽ có thể làm
mất đi vĩnh viễn một số loài vi sinh vật
trong khu vực dự án quy hoạch do thay
đổi môi trường sống và làm thay đổi hệ
sinh thái.
2.3.2.4. Xâm nhập mặn
Mùa khô
Nếu vận hành như trên (mở một chiều)
trong thời gian dài (cả tháng hoặc hơn) thì
mặn trên sông Sài Gòn tăng lên, đe dọa nhà
máy nước Bến Than.
Mùa mưa
Mặn không xâm nhập sâu như trong
mùa khô, không lên tới Bến Than.
2.3.2.5. Hệ sinh thái
- Thay đổi cấu trúc quần xã và phân
152
bố động thực vật: như mục tiêu ban đầu
của dự án là tiêu thoát nước tốt hơn và
chống ngập sẽ làm cho điều kiện tự nhiên
của khu vực bên trong dự án thay đổi sẽ
làm thay đổi hệ sinh thái bên trong khu vực
dự án, chuyển sang sinh thái nhà vườn. Hệ
thống kênh rạch sau khi nạo vét sẽ làm
thay đổi lớp trầm tích, khi dự án đi vào
hoạt động sẽ tạo ra lớp trầm tích mới tạo
điều kiện cho động vật thuỷ sinh đáy phát
triển. Môi trường nước được cải tạo nên
các loài sinh vật nước sẽ phát triển và đa
dạng hơn.
- Một số vùng ven sông Sài Gòn, nếu
vận hành theo phương án ngăn ngừa ô
nhiễm đổ ra sông Sài Gòn thì chất lượng
nước sẽ tốt hơn, do đó các loài thuỷ sinh
phát triển mạnh hơn, nhất là các loài nước
ngọt, nước lợ.
- Ngược lại, một số vùng gần các
cống, hạ lưu phần Long An, một phần Cần
Giờ, chất lượng nước thay đổi có phần xấu
hơn do ô nhiễm hữu cơ và chất bẩn tăng
lên. Nếu vẫn xét với tải lượng ô nhiễm như
hiện nay thì ô nhiễm hữu cơ và tỉ lệ nước
bẩn sẽ tăng lên so với hiện trạng đến vài
lần, do đó sẽ hạn chế đến phát triển của
thuỷ sinh. Một số vùng ven sông sẽ khó
khăn hơn trong việc phát triển thuỷ sản,
nhất là các loại thuỷ sản nhạy cảm với môi
trường như tôm. Tuy nhiên, sau khi các dự
án vệ sinh môi trường được hoàn thành thì
ảnh hưởng này không đáng kể vì các nguồn
nước xả thải đã được thu gom và xử lí.
- Chuỗi thức ăn: khi hệ thống đi vào
vận hành sẽ làm thay đổi hệ sinh thái và sự
phân bố, phát triển của động thực vật sẽ
làm thay đổi chuỗi thức ăn. Hệ sinh thái
vườn sẽ hình thành nên chuỗi thức ăn đặc
trưng của mình, trong khi đó hệ sinh thái
dưới nước cũng đa dạng hơn do xuất hiện
nhiều loài mà trước đây không có do kênh
rạch bị ô nhiễm.
- Sự di cư của động vật: đối với môi
trường nước bên trong dự án, khi dự án đi
vào hoạt động sẽ có sự di cư của động vật
vào khu vực dự án do môi trường sống bên
trong khu vực dự án được cải thiện. Đối
với dự án đê bao cũng thế, do hình thành
nên hệ sinh thái nhà vườn nên có sự di cư
của các loài động vật đặc trưng của hệ sinh
thái này. Tuy nhiên, hệ thống đê bao với sự
hoạt động của các phương tiện giao thông
cũng góp phần cản trở sự di chuyển của
một số loài động vật giữa khu vực bên
ngoài dự án và khu vực dự án nhất là các
loài bò sát.
- Sản lượng thuỷ sản, chăn nuôi: khi
quy hoạch được thực hiện hoàn chỉnh thì
thuỷ lợi sẽ tốt hơn, chất lượng nước cũng
được cải thiện, số lượng loài và chuỗi thức
ăn cũng phong phú và đa dạng hơn. Ngoài
ra, tổn thất thuỷ sản do ngập úng cũng sẽ
giảm đáng kể. Khi quy hoạch hoàn chỉnh
thì sản lượng thuỷ sản được ổn định và
phát triển hơn. Tuy nhiên, ngoài vùng dự
án diện tích ngập rộng hơn và sâu hơn do
đó tăng sự tổn thất thuỷ sản của các hộ
nuôi trồng ở các vùng chịu ảnh hưởng
(Long An, Cần Giờ, ).
- Số lượng động vật hoang dã: hệ
sinh thái sẽ chuyển thành sinh thái nhà
vườn nên sẽ thay đổi về số lượng và thành
phần loài động vật hoang dã. Sinh thái nhà
vườn sẽ thúc đẩy du lịch và sẽ tác động lớn
đến các loài hoang dã. Đồng thời, sự thay
đổi cơ cấu sử dụng đất sẽ có tác dụng thu
hẹp môi trường sống của các loài động vật.
Nhìn chung các loài động vật hoang dã sẽ
giảm hơn về số lượng và loài.
153
3. KẾT LUẬN
Quy hoạch chống ngập cho thành phố
Hồ Chí Minh có quy mô rất lớn nên vấn
đề môi trường của dự án là một tổ hợp
của rất nhiều yếu tố có mối quan hệ phức
tạp. Việc hình thành nên bộ khung các
vấn đề môi trường của dự án sẽ là cơ sở
khoa học quan trọng để định hướng cho
những nghiên cứu sâu hơn và đề xuất các
giải pháp phát huy những mặt tích cực và
giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi
trường của dự án. Các vấn đề môi trường
chính của dự án này bao gồm: chất lượng
nước mặt nội đồng, hệ sinh thái sông Sài
Gòn, Vàm Cỏ Đông và vấn đề xâm nhập
mặn ảnh hưởng đến các nhà máy nước
Bến Than, Thủ Dầu Một.
LỜI CẢM ƠN
Bài báo này được trích dẫn từ một
phần kết quả nghiên cứu của đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Nhà nước với mã số
ĐTĐL 2009.G/50 “Nghiên cứu ảnh hưởng
của hệ thống công trình chống ngập úng
khu vực thành phố Hồ Chí Minh đến môi
trường và đề xuất các giải pháp phát huy
và giảm thiểu”. Nhóm tác giả chân thành
cám ơn Bộ Khoa học và Công nghệ đã tài
trợ kinh phí thực hiện đề tài này. Các tác
giả cũng chân thành cảm ơn PGS.TS.
Nguyễn Kỳ Phùng (Phân viện Khí tượng
Thuỷ văn và Môi trường phía Nam),
PGS.TS. Lê Thanh Hải (Viện Tài Nguyên
và Môi trường), Bà Đỗ Thị Bích Lộc (Viện
Sinh học Nhiệt đới), TS. Phan Anh Tuấn
(Trung tâm điều hành chương trình chống
ngập nước Thành phố Hồ Chí Minh), TS.
Trịnh Thị Long và ThS. Phạm Đức Nghĩa
(Viện Khoa học Thuỷ lợi Miền Nam) đã
tham gia vào nghiên cứu này. Các tác giả
cũng bày tỏ lòng biết ơn với những đóng
góp của các đồng nghiệp thuộc Phòng
Quan trắc và Phân tích Môi trường, Viện
Nhiệt đới Môi trường vào thành công của
nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Khoa học thuỷ lợi miền Nam (2008), Dự án Quy hoạch thuỷ lợi chống ngập úng
khu vực thành phố Hồ Chí Minh.
2. Trịnh Công Vấn (2007), Quy hoạch thuỷ lợi chống ngập úng khu vực thành phố Hồ
Chí Minh.
3. Ban Quản lí đầu tư và xây dựng thuỷ lợi 9 (2010), Báo cáo đánh giá môi trường chiến
lược của dự án “Quy hoạch thuỷ lợi chống ngập úng khu vực thành phố Hồ Chí
Minh”.
4. Lê Thanh Hải (2010), Chuyên đề “Đánh giá ảnh hưởng của quá trình chuẩn bị và xây
dựng hệ thống chống ngập đến môi trường”.
5. Phan Anh Tuấn (2010), Chuyên đề “Phân tích trên khía cạnh kĩ thuật liên quan đến
các yếu tố môi trường tự nhiên, môi trường nhân văn và kinh tế- xã hội khu vực triển
khai dự án”.
6. Nguyễn Phú Bảo (2010), Chuyên đề “Diễn biến điều kiện môi trường tự nhiên khu vực
liên quan đến dự án”.
154
7. Hồ Long Phi (2010), Tham luận “Chiến lược tích hợp quản lí ngập lụt để thích ứng
với biến đổi khí hậu ở TP. Hồ Chí Minh”.
8. Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam (2008), Đánh giá tác động môi trường Dự án Quy
hoạch thuỷ lợi chống ngập úng khu vực thành phố Hồ Chí Minh.
9. Pham Hong Nhat, Nguyen Phu Bao, Le Van Tam, Tran Nguyen Quynh Trang and
Tran Thi Thanh Thuy (2011). Correlation between surface water quality and the
aquatic system under the impacts of the “Flood control in the Ho Chi Minh City
region” project. Proceeding of the International Conference “The 2nd analytica
Vietnam Conference 2011”, p. 138-143, held in Ho Chi Minh City on April 7-9, 2011.