Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.54 KB, 7 trang )

TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN Số 8 - Tháng 2/2012

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC HỆ
VỪA LÀM VỪA HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN
HUỲNH THỊ KIM TRANG
(*)

TĨM TẮT
Khoa giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sài Gòn, ngồi việc đào tạo chính quy lực
lượng giáo viên tiểu học còn có nhiệm vụ đào tạo liên thơng cho đội ngũ giáo viên ở các
quận huyện thuộc Thành phố Hồ Chí Minh từ trình độ cao đẳng lên trình độ đại học.
Trong những năm qua, Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sài Gòn đã đạt được
những thành quả bước đầu trong việc góp phần bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ
giáo viên tiểu học của thành phố, đáp ứng được phần nào nhu cầu phát triển của một đất
nước đang trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên với quy mơ đào tạo ngày càng lớn, đòi hỏi phải có những thay đổi trong
cơng tác tổ chức quản lí cũng như cần xem xét lại chương trình đào tạo để chất lượng đào
tạo ngày một hiệu quả hơn và phù hợp với nhu cầu thực tế.
ABSTRACT
Department of Primary Education - Saigon University does its regular duty as training
primary teachers. Besides it also has a continuous training for teacher staff in districts
which belong to Ho Chi Minh City from college level to uinversity level.
In recent years, Department of Primary Education - Saigon University has achived
initial success to contribute in improvement and development qualifications for primary
teachers in Ho Chi Minh City, to meet partly development needs of a country in the
process of international intergration.
However, with growing training scale, change in management and organization is
required. It is also necessary to consider the training programme again so that training
quality is getting more effective and suitable to practical needs.


1. ĐẶT VẤN ĐỀ
(*)

Một đất nước muốn có những bước
phát triển nhảy vọt thì đầu tư phát triển con
người cần được xem là loại đầu tư có giá
trị hàng đầu, trong đó đầu tư cho giáo dục
là loại đầu tư có tầm chiến lược quan trọng
nhất. Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp


(*)
ThS, Sở Giáo dục và Đào tạoTp. Hồ Chí Minh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, là điều kiện
phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững”.
Việt Nam đang hướng đến nền kinh tế
tri thức. Điều này đòi hỏi mọi người phải
có cơ hội và được hỗ trợ để học tập nâng
cao kĩ năng một cách thường xun. Vì
vậy, học tập suốt đời có vai trò quan trọng
trong q trình phát triển kinh tế xã hội
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC

toàn diện của đất nước, như trong văn kiện
Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã
nêu: “Tạo điều kiện cho mọi người ở mọi

lứa tuổi được học tập thường xuyên, suốt
đời”. Do đó, vấn đề mở các hệ đào tạo liên
thông cũng là một yêu cầu, một cơ hội học
tập hết sức cần thiết của mọi người.
Hình thành hệ thống đào tạo liên tục là
quan điểm chung của hầu hết các nước
phát triển và đang phát triển. Hệ thống đào
tạo này góp phần chuyển từ công thức “đào
tạo một lần cho cuộc đời” bằng công thức
“đào tạo liên tục cho cả cuộc đời”, vì thế
hệ thống đào tạo liên tục phải đảm bảo tính
mềm dẻo.
Việc chăm lo đội ngũ giáo viên – lực
lượng tri thức, những người vun đắp cho
thế hệ tương lai của đất nước - đóng vai trò
máy cái trong công nghệ sản xuất sức lao
động, kĩ thuật, tái sản xuất chất xám, nguồn
tài nguyên quý giá nhất của dân tộc. Trong
điều kiện khoa học, kĩ thuật phát triển
nhanh chóng, muốn hiện đại hoá giáo dục
và đào tạo, trước hết phải hiện đại hoá thầy
giáo, đặc biệt là đội ngũ thầy giáo các
trường tiểu học, là bậc học đầu tiên của
giáo dục phổ thông.
Như vậy, việc mở các lớp đào tạo
thuộc mọi hình thức như chính quy, không
chính quy trong đó có cả hình thức vừa làm
vừa học cho các đối tượng từ mọi lứa tuổi
là một nhu cầu hết sức cần thiết và càng
quan trọng hơn khi đối tượng học là các

giáo viên đang trực tiếp giảng dạy tại các
trường từ mầm non cho đến đại học, những
người đang góp phần tạo ra những sản
phẩm cho xã hội sử dụng sau này.
Trường Đại học Sài Gòn bên cạnh sứ
mệnh đào tạo cho thành phố lưc lượng giáo
viên trẻ để đáp ứng nhu cầu hằng năm của
ngành giáo dục, trường còn phải đảm nhận
việc đào tạo bồi dưỡng, nâng chuẩn để góp
phần nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo
viên hiện đang công tác tại các trường từ
mầm non, tiểu học đến trung học cơ sở…
thông qua hai phương thức đào tạo: chính
quy và không chính quy (vừa làm vừa học,
tại chức, chuyên tu, liên thông). Đó cũng
chính là một trong những mục tiêu, nhiệm
vụ đào tạo của Khoa Giáo dục Tiểu học
thuộc Trường Đại học Sài Gòn từ năm
2002 đến nay.
2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO GIÁO
VIÊN TIỂU HỌC TRÌNH ĐỘ ĐẠI
HỌC HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC TẠI
TRƯỜNG
Xuất phát từ nhu cầu mở rộng quy mô
đào tạo và góp phần vào việc thực hiện
nhiệm vụ bồi dưỡng và nâng chuẩn giáo
viên tiểu học hiện đang công tác tại Thành
phồ Hồ Chí Minh. Trường Đại học Sài
Gòn (trước đây là Trường Cao đẳng Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh) đã liên kết

đào tạo với Trường Đại học Sư phạm Huế
để mở 6 khoá (từ khoá thứ 10 đến khoá thứ
15) đào tạo giáo viên tiểu học từ trình độ
cao đẳng lên trình độ đại học cho khoa
Giáo dục Tiểu học từ năm 2002 đến năm
2007. Việc liên kết đào tạo này đã được
Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Thành
phố Hồ Chí Minh cấp quyết định số
175/THCN-ĐH giao cho hai trường tổ
chức các lớp đào tạo đại học chuyên tu
(VLVH) cho đội ngũ giáo viên thành phố
trong đó có các lớp dành cho các giáo viên
tiểu học với kết quả:

HUỲNH THỊ KIM TRANG


KHOÁ – NĂM ĐÀO TẠO
SỐ LƯỢNG
TUYỂN VÀO
SỐ LƯỢNG TỐT NGHIỆP
(tính cả số SV năm trước & năm hiện tại)
K.10 – 2002 - 2004
142
110
K.11 – 2003 - 2005
253
204
K.12 – 2004 - 2006
169

178
K.13 – 2005 -2007
202
215
K.14 – 2006 - 2008
202
210
K.15 – 2007 - 2009
234
219
KẾT QUẢ
6 NĂM ĐÀOTẠO
1202
1136 – 94,5%

Kể từ năm 2008,với sự phát triển và
lớn mạnh của Trường Đại học Sài Gòn, khi
đã đi vào ổn định, Trường Đại học Sài Gòn
đã chủ động mở được 02 lớp đào tạo bậc
đại học cho các hệ VLVH (tính đến thời
điểm tháng 8/2010), với kết quả:

KHOÁ – NĂM ĐÀO TẠO
SỐ LƯỢNG
TUYỂN VÀO
SỐ LƯỢNG TỐT
NGHIỆP
KẾT QUẢ
ĐÀO TẠO
K.08 – 2008 - 2010

197
177
89,8%
K.09 – 2009 - 2011
144
128
88,9%

Những học viên tham gia học tập là
những giáo viên đang trực tiếp giảng dạy
tại các trường tiểu học trong Thành phố Hồ
Chí Minh và họ đã trở lại học để nâng cao
trình độ sau thời gian từ 2 đến 10 năm. Bên
cạnh đó, còn có một vài học viên tham gia
làm công tác khác như Tổng phụ trách Đội
hay nhân viên văn phòng tại các trường tiểu
học. Nhiều học viên đã lớn tuổi, có kinh
nghiệm giảng dạy lâu năm và có người là
giáo viên dạy giỏi cấp thành phố…
Trước sự đa dạng của người học như
đã nêu, đòi hỏi phải có những thay đổi
trong công tác quản lí dạy và học để có thể
cải tiến chất lượng đào tạo giáo viên tiểu
học các hệ ngoài chính quy ngày một có
hiệu quả cao hơn.
Để tìm hiểu thực trạng về việc đào tạo
giáo viên tiểu học từ trình độ cao đẳng lên
trình độ đại học hệ VLVH, chúng tôi đã
dùng phương pháp điều tra, phân tích.
Thông qua bộ phiếu điều tra với năm lĩnh

vực và mẫu đại diện chọn theo phương
pháp ngẫu nhiên gồm 62 học viên đã tốt
nghiệp ngành Giáo dục Tiểu học hệ không
chính quy VLVH trong đó có chuyên viên
của một số Phòng Giáo dục& đào tạo; Ban
giám hiệu trường tiểu học; Giáo viên đang
trực tiếp giảng dạy. Số liệu được xử lí theo
phương pháp toán học và kết quả thu được
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC

như sau:
 Lĩnh vực 1: Mục tiêu và chương trình
đào tạo
Có 47/62 phiếu = 75,8% đồng ý
Có 15/62 phiếu = 24,2 % không đồng ý
 Lĩnh vực 2: Đội ngũ giảng viên của
khoa
Có 53/62 phiếu = 85,5% đồng ý
Có 9/62 phiếu = 14,5 % không đồng
 Lĩnh vực 3: Sự đáp ứng của khoa học
Có 53/62 phiếu = 85,5 % đồng ý
Có 9/62 phiếu = 14,5% không đồng ý
 Lĩnh vực 4: Quản lí và phục vụ đào tạo
Có 45/62 phiếu = 72,6% đồng ý
Có 17/62 phiếu = 27,4 % không đồng ý
 Lĩnh vực 5: Các chế độ chính sách
Có 40/62 = 64,5 % đồng ý
Có 22/62 = 35,5% không đồng ý.
Đối với cả 5 lĩnh vực trên hơn 65% các
học viên đều đồng ý với các tiêu chí đã đưa

ra. Tuy nhiên ở cả năm lĩnh vực, cũng còn
có lĩnh vực 35,5% số người được hỏi chưa
tán thành.
Bên cạnh việc tìm hiểu ý kiến của
người học xung quanh 5 lĩnh vực trên,
chúng tôi còn tìm hiểu một số ý kiến khác
có liên quan đến chương trình đào tạo.
Trong đó có những ý kiến cho rằng không
cần thiết phải đưa vào chương trình để học
các môn cơ bản như hình học sơ cấp vì đối
tượng học là những người lớn tuổi không
còn nhớ những kiến thức toán học cao cấp,
đồng thời những kiến thức của môn hình
học sơ cấp đó không liên quan đến việc
giảng dạy ở tiểu học, hoặc các học phần âm
nhạc, mĩ thuật thì đã có giáo viên chuyên
trách. Phần lớn chỉ chú trọng vào các môn
cơ sở như phương pháp giảng dạy Toán,
phương pháp giảng dạy Tiếng Việt… vì
theo họ đó là những học phần sẽ phục vụ
trực tiếp cho việc giảng dạy.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng cần
bổ sung vào chương trình đào tạo học phần
Tiếng Anh vì đó là một học phần rất cần
thiết trong giai đoạn ngày nay, giai đoạn
mà công nghệ thông tin đang phát triển,
Internet đang trở nên phổ biến, rõ ràng tài
liệu thì không thiếu mà hầu hết tài liệu trên
mạng không được viết bằng tiếng Việt, vấn
đề là học viên chưa biết tận dụng hết

những tài nguyên này. Chương trình chủ
yếu là cung cấp kiến thức cho người học
mà ít chú trọng đến việc dạy người học
cách tiếp cận, cách đánh giá vấn đề.
Qua trao đổi với một số giáo viên tiểu
học trong Thành phố Hồ Chí Minh, hiện
nay vẫn còn một số ít trường hợp người
học đã tốt nghiệp hệ Cao đẳng Sư phạm
nhưng thuộc các chuyên ngành khác, chẳng
hạn chuyên ngành Hoá học, nhưng sau khi
ra trường do tình hình thực tế lúc đó thừa
giáo viên cấp trung học cơ sở (THCS) mà
lại thiếu giáo viên tiểu học (GVTH). Do
đó, họ chuyển sang giảng dạy Tiểu học
suốt 10 – 15 năm nay. Mặc dù họ rất muốn
học để được nâng cao trình độ lên đại học
với hình thức VLVH như các giáo viên tiểu
học khác nhưng không được do chuyên
ngành đào tạo của họ trước đây không phù
hợp với tiểu học. Phải chăng đây là vấn đề
cần được các nhà quản lí chúng ta quan
tâm, nhằm tạo cho người học vượt qua
được rào cản này, góp phần: “Tạo điều
kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được
học tập thường xuyên, suốt đời”.
3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
TIỂU HỌC TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC Ở
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Qua thực tế cho thấy, nhu cầu học tập

và tham gia các lớp chuẩn hoá hệ đại học
(VLVH) của đội ngũ giáo viên tiểu học
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ngày
càng tăng. Đây chính là nhu cầu của ngành
HUỲNH THỊ KIM TRANG

Giáo dục và Đào tạo, đồng thời cũng chính
là nhu cầu của những người trực tiếp đang
làm công tác giáo dục tại các trường tiểu
học. Với quy mô đào tạo ngày càng lớn,
đòi hỏi phải cải tổ công tác tổ chức dạy và
học, tăng cường công tác quản lí đào tạo để
làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn
hoá cho đội ngũ giáo viên tiểu học thành
phố hiện nay, trong đó có cả việc bồi
dưỡng kiến thức nâng cao trình độ cho
những giáo viên lớn tuổi.
Qua khảo sát thực tế ở lớp Đại học
Chuyên tu VLVH khoá 15 (khoá liên kết
với ĐHSP Huế) vừa dự lễ tốt nghiệp ngày
29/8/2010 tại Trường Đại học Sài Gòn,
chúng tôi xin được đề xuất một số ý kiến để
khắc phục các hạn chế ở thực trạng nhằm
thực hiện có chất lượng mục tiêu đặt ra.
3.1. Nơi đào tạo
- Bổ sung thêm vào chương trình đào
tạo học phần Tiếng Anh để giúp học viên
có cơ hội tiếp cận với ngôn ngữ phổ biến
hiện nay trên thế giới một cách liên tục từ
trình độ cao đẳng lên đại học cũng như tạo

điều kiện để họ có thể tiếp tục “Học nữa,
học mãi” mà không bị hạn chế bởi trình độ
ngoại ngữ.
- Mở thêm một số học phần chuyển đổi
phù hợp với chương trình đào tạo của tiểu
học để giải quyết tình trạng thực tế hiện
nay của một số giáo viên THCS đang dạy
tiểu học, từ đó giúp họ rộng đường để nâng
cao trình độ sau này.
- Đối với những học phần có giáo viên
chuyên trách như Mĩ thuật và Âm nhạc nên
xem xét lại, mặc dù giáo viên tiểu học phải
là người dạy đủ các môn học. Nhưng hiện
nay ở các trường tiểu học đã có các giáo
viên chuyên trách, vậy phải chăng việc tổ
chức cho học viên học hai học phần trên là
không cần thiết. Nên giảm bớt để tránh
hiện tượng kiến thức cái thì quá thừa, cái
lại quá thiếu.
- Do người học đa dạng về độ tuổi và
thời gian trở lại trường học nâng cao trình
độ, vì thế khi phân chia lớp nên chú ý đến
việc sắp xếp các độ tuổi tương đối phù hợp
hơn để tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả
hơn trong quá trình giảng dạy và học tập
của học viên.
3.2. Đơn vị công tác
- Thực hiện việc động viên khuyến
khích các giáo viên tại cơ sở tiếp tục học
lên trình độ đại học, sao cho mỗi cá nhân

thấy được việc học tập để nâng cao trình độ
là một nhu cầu rất cần thiết: “Học để biết;
Học để làm; Học để tự khẳng định mình;
Học để cùng chung sống”.
- Bên cạnh việc động viên khuyến
khích đó, tại cơ sở cũng cần giảm bớt một
số công tác cho những người đang đi học.
- Cần có những chế độ, chính sách
động viên hoặc giới thiệu gương điển hình
những người lớn tuổi tham gia học tập
nâng cao trình độ tại cơ sở để qua đó giúp
họ càng tự tin hơn trong học tập.
- Tránh tạo những áp lực trong công
việc để người đi học có thời gian tập trung
hơn trong việc học.
4. KẾT LUẬN
Với những thông tin đã tìm hiểu được
từ thực tế ở các lớp Đại học liên thông hệ
VLVH thuộc khoa Giáo dục Tiểu học
Trường Đại học Sài Gòn, chúng tôi tin
rằng phần nào sẽ giúp những người làm
công tác quản lí có cái nhìn đúng hơn trong
công tác tổ chức và quản lí các hệ ngoài
chính quy. Chính những ý kiến của người
học qua khảo sát, thăm dò về 5 lĩnh vực
trên sẽ là cơ sở để các nhà quản lí xem xét
và điều chỉnh các mặt còn hạn chế. Trong
đó nội dung chương trình đào tạo cũng cần
được cải tiến để chất lượng đào tạo ngày
một hiệu quả hơn và phù hợp với nhu cầu

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC

thực tế. Bên cạnh đó, người học phải được
các đơn vị cơ sở đặc biệt quan tâm, nhất là
những người lớn tuổi nhằm tạo sự chuyển
biến tốt trong nhận thức của người học.




TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Knapper CK, Cropely AJ (2000), Lifelong Learning in Higher Education (Vấn đề học
suốt đời ở bậc đại học).
2. GS. Boris Mil’ner (2007), Quản lí tri thức trong nền kinh tế hiện đại, Tạp chí Thông
tin Khoa học Xã hội số 8/2007.
3. GS.TS Chu Văn Cấp (2007), “Tìm hiểu vấn đề “Đẩy mạnh công nghịêp hoá, hiện đại
hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức” trong Văn kiện Đại hội X của Đảng, Nxb
Chính trị Quốc gia.
4. Nhà xuất bản Tri Thức (2007), Những vấn đề giáo dục hiện nay.
5. TS. Nguyễn Kim Dung (2008), Dạy và học theo quan điểm học suốt đời, Tạp chí Tia
sáng 2-5-2008.
6. TS. Tôn Thất Dụng (2009), Báo cáo tổng kết 15 năm liên kết đào tạo hệ chuyên tu
giữa Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế với Trường Cao đẳng Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh (nay là Đại học Sài Gòn).



×