Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn sử dụng văn học thơ truyện để giúp học sinh nắm vững kiến thức địa lý lớp 8 cóa hiểu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.08 KB, 19 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Mỗi một môn học trong trường phổ thông, tùy vào đặc trưng của mình mà
xác định vị trí, nhiệm vụ trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Môn Địa lí, với
những đặc trưng riêng của mình cũng có một vị trí xác định trong việc thực hiện
mục tiêu giáo dục.
Địa lí là một môn khoa học trong đó thể hiện đầy đủ các yếu tố tự nhiên, dân
cư, kinh tế, xã hội…và mối quan hệ giữa chúng, rèn luyện cho học sinh kĩ năng, kĩ
xảo cần thiết trong cuộc sống, đặc biệt là kĩ năng, mối quan hệ nhân quả luôn được
chứng minh cụ thể trong từng bài giảng Địa lí.
Địa lí giúp cho học sinh tìm hiểu tất cả các yếu tố trên và nắm được những
kiến thức cơ bản nhất trong việc học Địa lí và làm nền tảng cho mai sau.
Việc tìm hiểu địa lí ở mỗi học sinh sẽ có ảnh hưởng khác nhau ở góc độ tìm
tòi, nghiên cứu, học hỏi, Song có thể khẳng định việc dạy và học Địa lí phần lớn
phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp mà giáo viên thực hiện trong mỗi bài giảng
cụ thể. Phương pháp mà giáo viên thể hiện ở mỗi bài giảng vô cùng quan trọng
trong suốt quá trình học của học sinh nhằm giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản
nhất về Địa lí.
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trong việc dạy và học Địa lí giáo viên luôn trao dồi kiến thức, học
hỏi kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ và đổi mới phương pháp giảng dạy sao
cho phù hợp với học sinh và kiến thức từng môn học, bài học.
Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề vô cùng quan trọng đòi hỏi người
giáo viên luôn học hỏi và tìm tòi phương pháp hay nhất, cụ thể nhất nâng cao kiến
thức và thúc đẩy tính tích cực của học sinh, kích thích sự tò mò, học hỏi của học
sinh nhằm đạt được mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện về mọi mặt và có tri thức vững vàng để dễ dàng hòa nhận vào xã hội hiện
đại.
Tôi là một giáo viên đã nhiều năm liền giảng dạy môn địa lí bậc trung học cơ
sở nên tôi đã thực hiện chương trình theo phương pháp mới. Đối với mỗi bài tôi
đều tìm tòi học hỏi một phương pháp mới, một cách dạy cụ thể cho từng bài học
nhằm mục đích đạt hiệu quả cao trong việc dạy và học.


Nhưng trong suốt quá trình giảng dạy với các phương pháp đã từng thể hiện,
tôi thấy việc học và tìm hiểu kiến thức Địa lí không gây được hứng thú triệt để cho
học sinh. Học sinh có vẻ lơ đểnh và chưa có ý thức cao trong việc tìm hiểu môn
Địa lí, làm cho hoạt động dạy và học không mang lại hiệu quả cao dẫn đến việc
không phát huy được hết tính tích cực của học sinh trong quá trình giảng dạy, và
bài giảng địa lí của giáo viên chưa thể hiện được hết nội dung bài học hoặc hứng
thú giảng dạy về Địa lí không được thể hiện trong bài học vì học sinh không tập
trung và xem nhẹ vấn đề. Trong nhiều năm liền giảng dạy Địa lí 8. Tôi nhận thấy
một tiết dạy địa lí thường khô khan, tẻ nhạt, học sinh thụ động, không tham gia tích
cự vào bài học của mình, làm cho tiết học nhàm chán và học sinh không khắc sâu
được kiến thức và làm nổi bật được tổng thể của vấn đề cần khai thác cũng như vai
trò của môn học.
Nắm được những điểm yếu của học sinh, cũng như những tồn tại và hạn chế
trong phương pháp giảng dạy môn địa trong giai đoạn hiện nay: Giai đoạn đổi mới
phương pháp giảng dạy, cùng ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, tôi đã
lồng ghép văn học, thơ, chuyện và câu đố vào công tác giảng dạy môn địa lí 8 sao
cho có hiệu quả. Để tiết học đạt hiệu quả cao, học sinh tích cực tham gia vào bài
học địa lí, tôi đã chọn một vài phương pháp có hiệu quả nhất bằng một số tiết dạy
có ứng dụng công nghệ thông tin cũng như tiết dạy truyền thống đều thực hiện
được, nhằm cung cấp cho các em kiến thức tương đối vững chắc về địa lí trong
mục tiêu giáo dục hiện nay, tôi đã mạnh dạn đưa câu đố, chuyện, thơ, văn học vào
bài dạy địa lí, và cụ thể là địa lí lớp 8 đồng thời tôi cũng đang áp dụng phương
pháp liên môn trong dạy học.
Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài: “Sử dụng câu đố, văn học, thơ, chuyện
để giúp học sinh nắm vững kiến thức địa lí 8 có hiệu quả”
2. Mục đích của đề tài
- Giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả, tăng được sự hứng thú
trong học tập của học sinh trong các tiết học, nhằm khuyến khích tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và phát triển tư duy của học sinh một cách mạch lạc, sâu sắc.
- Tránh học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng

không nắm được “sự kiện địa lí”
- Biết liên tưởng, liên kết các kiến thức và các môn học có liên quan với
nhau, đồng thời biết vận dụng kiến thức Địa lí vào thực tiễn cuộc sống ở địa
phương.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Là giáo viên giảng dạy môn địa lí bậc trung học cơ sở, bản thân tôi tự nhận
thấy việc tìm hiểu chương trình, nội dung kiến thức môn địa của cấp học là rất cần
thiết đế thấy được những kiến thức liên quan giữa các khối với nhau. Ngoài nội
dung liên quan của bộ môn ra, thì tôi thấy cũng cần phải tìm hiểu các môn học khác
như môn văn, sử có liên quan đến nội dung bài học, sẽ làm cho giờ học thêm
sinh động và học sinh sẽ nhớ các “ sự kiện Địa lí”
Tránh được sự nhàm chán trong việc học địa lí, cũng như cách học thuộc
lòng, học vẹt mà không nắm được “ sự kiện Địa lí”
Học sinh sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong giờ học và
làm tăng khả năng sưu tầm tài liệu có liên quan đến môn học, bài học và “sự kiện
Địa lí”.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp sưu tầm tài liệu, thông qua phương pháp này học sinh có thể
nắm được một số kiến thức có liên quan đến các “sự kiện Địa lí”
5. Phạm vi nghiên cứu
Một số bài trong chương trình địa lí 8
6. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng thực hiện nghiên cứu là học sinh khối 8 (từ 8A1 đến 8A6) năm
học 2012 – 2013
7. Điểm mới của đề tài trong điều kiện thực tế của ngành và địa phương
Để nâng cao chất lượng dạy và học trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới chương trình cũng như cả về phương pháp dạy
học. Phương pháp vận dụng văn học, thơ, chuyện, câu đố vào giảng dạy Địa lí 8
nhằm mục đích làm cho tiết học có hiệu quả.

PHẦN II: NỘI DUNG
A. CƠ SỞ KHOA HỌC
Địa lí là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần thiết về
Trái Đất và những hoạt động của con người trên đó, làm cơ sở cho việc hình thành
thế giới quan khoa học; giáo dục tư tưởng tình cảm đúng đắn; đồng thời rèn luyện
cho học sinh các kĩ năng hành động, ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, xã
hội, phù hợp với yêu cầu của đất nước và xu thế thời đại. cùng với các môn học
khác, môn địa lí góp phần bồi dưỡng cho học sinh ý thức trách nhiệm, sự hiểu biết
khoa học, tình yêu thiên nhiên, con người và đất nước. Theo đó, mục tiêu của môn
địa lí chú trọng đến việc hình thành và rèn luyện cho học sinh các năng lực cần
thiết của người lao động mới. Để đạt được mục tiêu này, cần thiết phải đổi mới
sách giáo khoa và phương pháp dạy học một cách phù hợp và đồng bộ.
Địa lí trung học cơ sở nói chung, phần Địa lí Việt Nam nói riêng (đặc điểm
tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư, kinh tế và những vấn đề đặt ra đối với tự
nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của đất nước, của các vùng và địa phương nơi học
sinh đang sinh sống) nói riêng. Tất cả những kiến thức này đều có mối quan hệ qua
lại và tác động lẫn nhau, đòi hỏi người học không chỉ có khả năng tiếp nhận thông
tin đơn thuần mà cần biết cách phân tích, so sánh, liên kết các vấn đề để tìm ra kiến
thức phù hợp với chương trình mới, sách giáo khoa được biên soạn theo hướng tạo
điều kiện để giáo viên tổ chức cho học sinh học tập một cách tự giác và tích cực.
Nếu như sách giáo khoa cũ được trình bày theo lối thông báo – giải thích – minh
họa thì với cách trình bày trong sách giáo khoa mới đòi hỏi giáo viên phải tổ chức
các hoạt động nhận thức cho học sinh, phải khai thác kênh chữ, kênh hình để có
thêm kiến thức.
Khi chương trình và sách giáo khoa đã đổi mới, tất yếu phương pháp dạy học
bộ môn cũng phải đổi mới theo. Do đó, phương pháp dạy học địa lí theo định
hướng mới, sách giáo khoa mới không chỉ buộc học sinh phải “mới” trong cách học
mà còn buộc giáo viên phải “mới” trong cách dạy. Theo đó, giáo viên cần đầu tư
nhiều hơn về thời gian và trí tuệ trong mỗi bài dạy, vừa để làm rõ những nội dung
kiến thức ẩn chứa ở kênh hình, kênh chữ cũng như tìm ra cách thức và phương

pháp nhằm hướng dẫn cho học sinh cách tự khai thác và lĩnh hội kiến thức. Bên
cạnh việc chú ý phát triển cho học sinh các kĩ năng bộ môn (kĩ năng làm việc với
các thiết bị dạy học, các nguồn tư liệu địa lí…). Việc rèn luyện kĩ năng làm việc
độc lập, làm việc nhóm, kĩ năng trình bày, giải quyết vấn đề… cũng hết sức quan
trọng và đặc biệt là phát triển kĩ năng tư duy.
Việc phát triển kĩ năng tư duy cho học sinh luôn là một trong những ưu tiên
hàng đầu của mục tiêu giáo dục, để hướng học sinh học tập tích cực và tự chủ,
chúng ta không phải chỉ giúp các em khám phá những kiến thức mới mà còn phải
giúp các em nắm kĩ và hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một
“hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng
quan tâm về các mặt: Ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tưởng và khả
năng sáng tạo… một trong những công cụ hữu hiệu nhất để tạo nên các hình ảnh
liên kết là sử dụng câu đố, chuyện, thơ và văn học vào trong việc dạy và học Địa lí
Vận dụng thành thạo và linh hoạt các câu đố, chuyện, thơ và văn học trong
dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ. Học sinh sẽ phát huy tính
chủ động, sáng tạo và phát triển được tư duy. Với học sinh việc tự sưu tầm các câu
đố, mẫu chuyện, bài thơ có liên quan đến nội dung bài học thì sẽ phát huy được
tính sáng tạo, lôi cuốn học sinh tham gia vào các hoạt động của bài giảng, tạo điều
kiện phát triển kĩ năng tích cực, chủ động và phát huy được sở thích của bản thân
học sinh… qua đó, các em tự chiếm lĩnh kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, tự
nhiên với hứng thú học tập hơn.
Với giáo viên sử dụng câu đố, chuyện, thơ và văn học vào bài giảng một
cách khoa học và lôgic, thì nội dung bài học và một số sự kiện địa lí sẽ không bị bỏ
sót và giúp các em nhanh chóng lĩnh hội được nội dung bài học và sự kiện địa lí
một cách thoái mải không bị gò bó. Không những thế, sử dụng câu đố, thơ, văn học
còn giúp giáo viên tạo ra các hình thức học tập khác nhau, liên kết được giữa các
môn học với nhau, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, phối hợp sử dụng
các thiết bị dạy học với nhau (bản đồ, UDCNTT…) góp phần thiết thực vào việc
đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
B. THỰC TRẠNG

* Có một thực tế trong trường THCS, THPT hiện nay là phần lớn học sinh
ngán và ngại học những môn lịch sử, địa lí, bởi suy nghĩ phổ biến của học sinh và
phụ huynh coi đây chỉ là những môn học phụ, chủ yếu là học thuộc, ít phải động
não, giáo viên lên lớp chỉ giảng suông dễ gây nhàm chán… nhiều giải pháp được
đưa ra để các môn học này trở nên hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, bắt đầu từ đâu và làm
như thế nào vẫn là những câu hỏi làm cho tôi băn khoăn, lo lắng; chính vì vậy đổi
mới kiểm tra đánh giá và đổi mới phương pháp dạy học đồng bộ để tạo ra chuyển
biến mới trong dạy học các môn lịch sử, địa lí là yêu cầu bức thiết để góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh bậc trung học cơ sở
*Trong suốt quá trình giảng dạy địa lí nói chung và địa lí lớp 8 nói riêng.
Tôi nhận thấy việc giảng dạy địa lí là vô cùng lý thú nếu như chúng ta biết sử dụng
phương pháp giảng dạy phù hợp và đúng cách, đúng đối tượng và có đầy đủ
phương tiện dạy học; Nếu đạt được những yêu cầu trên thì việc dạy và học địa lí sẽ
đem lại hiệu quả rất cao.
* Tuy nhiên, thực trạng hiện nay đối với môn học địa lí nói chung và địa lí
lớp 8 nói riêng còn gặp rất nhiều khó khăn, cụ thể như:
- Về mảng địa lí kinh tế - xã hội của châu Á và khu vực đòi hỏi người giáo
viên luôn tìm tòi, học hỏi và nắm bắt kịp thời những thông tin mới nhất, những số
liệu cụ thể, chính xác qua từng thời kì lịch sử và các nước có nền kinh tế đang trên
đà phát triển theo từng ngày trong khi đó tài liệu địa lí thì không cập nhật kịp thời.
ngoài ra phần địa lí kinh tế - xã hội thường khô khan, nhiều số liệu khó nhớ, học
sinh ít nắm được vấn đề hoặc rất ngán khi phải học phần này, mà không khắc sâu
được kiến thức, học sinh nhằm chán, giáo viên truyền thụ kiến thức suông, học sinh
ghi chép, tiết học trở nên nhàm chán không phát huy được tính tích cực của học
sinh.
- Về mảng địa lí tự nhiên (chủ yếu là địa lí tự nhiên Việt Nam), mặc dù là
những vấn đề tự nhiên đã diễn ra hoặc đang diễn ra ngay trên đất nước của các em,
nhưng những tính chất, đặc điểm của các yếu tố tự nhiên các em vẫn bị nhầm lẫn
giữa yếu tố này với yếu tố khác, chính vì không nắm được đặc tính của tự nhiên
nên học sinh cũng không vận dụng được các yếu tố tự nhiên đó vào thực tế ở địa

phương, mà thựcc chất các em không nắm vững vì theo xu thế hiện nay học sinh
thường thiên về các môn tự nhiên, rất sợ học lịch sử, địa lí, chẳng hạn như nói về
thời tiết vào mùa đông của miền bắc Việt Nam thì học sinh lại nhầm lẫn với đặc
tính thời tiết vào mùa khô của miền Nam Việt Nam, hoặc học qua loa theo kiểu đối
phó, máy móc từ đó chất lượng bộ môn thường không cao, học sinh không có kĩ
năng phân tích vấn đề.
* Từ thực trạng trên học sinh trở nên chán nản lười tìm tòi học hỏi, phần lớn
thời gian trên lớp dành cho giáo viên giảng, học sinh chỉ lắng nghe, ghi chép mà
không phát huy được tính tích cực, về nhà học sinh chỉ học thuộc qua loa những gì
đã ghi được mà không nhớ được sự kiện địa lí đã học để vận dụng vào thực tế nơi
mình đang sống.
Để tiết học đạt hiệu quả cao, học sinh tích cực tham gia vào bài học địa lí.
Tôi đã chọn một vài phương pháp có hiệu quả nhất bằng một số tiết dạy có ứng
dụng công nghệ thông tin cũng như tiết dạy truyền thống đều thực hiện được, nhằm
cung cấp cho các em kiến thức tương đối vững chắc về địa lí trong mục tiêu giáo
dục hiện nay, tôi đã mạnh dạn đưa câu đố, chuyện, thơ, văn học vào bài dạy địa lí,
và cụ thể là địa lí lớp 8 đồng thời tôi cũng đang áp dụng phương pháp liên môn
trong dạy học.
C. NỘI DUNG
* Phương pháp thể hiện
1. Sử dụng câu đố trong việc kiểm tra bài cũ về sông ngòi Việt Nam
Vì thời gian kiểm tra bài cũ lúc đầu giờ không nhiều chỉ khoảng 5 – 7 phút
nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích,
so sánh…để học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại
một phần nội dung bài học hoặc những sự kiện địa lí cơ bản bằng cách gọi học sinh
lên bảng trả lời câu hỏi, giáo viên sẽ chấm điểm tùy thuộc vào mức độ thuộc bài
của học sinh. Cách làm này để nhiều học sinh rơi vào tình trạng học vẹt, đọc thuộc
mà không hiểu, không nắm được sự kiện địa lí. Do đó, cần phải có sự thay đổi
trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ kiểm
tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”; cách làm này vừa tránh được

học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời kích thích những học sinh yếu
– kém có thể tham gia trả lời câu hỏi.
Ví dụ 1: Trước khi vào bài mới, giáo viên yêu cầu 1 học sinh lên bảng trả bài
cũ (bài 3, phần 1: Đặc điểm sông ngòi.) giáo viên đưa ra câu đố, yêu cầu học sinh
trả lời những kiến thức có liên quan đến câu đố, việc trả lời được câu đố thì các em
đã nắm được những kiến thức rất cơ bản của bài học hôm trước:
Sông gì phát tự Trung Hoa?
Vượt qua Miến, Lào, Thái, Miên, Việt chảy ra Thái Bình.
Hai dòng Tiền - Hậu mênh mông
Xòe tay chín cửa, đậm tình phù sa.
Để tìm ra đáp án cho câu đồ này, học sinh phải phân tích từng ý một của câu
đố là sông được bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua 6 quốc gia: Trung Quốc,
Mianma, Lào, Thái Lan, Cam-pu-chia và Việt Nam. Khi sang đến Việt Nam thì
chia thành hai nhánh là sông Tiền và sông Hậu, đổ ra Thái Bình Dương bằng chín
cửa. Từ những phân tích trên, học sinh sẽ tìm ra câu trả lời đó là sông Mê Công.
Ví dụ 2: Hoặc kiểm tra bài cũ kiến thức của bài 34: “Các hệ thống sông lớn ở
nước ta”. Giáo viên gọi 2 học sinh lên bảng cho học sinh lựa chon nhiệm vụ: 1 học
sinh ra câu đố và một học sinh giải đáp câu đố tìm ra các hệ thống sông lớn ở Bắc
Bộ như sau:
- Các hệ thống sông lớn ở Bắc Bộ thì học sinh có thể đưa ra các câu đố sau:
Sông gì dòng nước đỏ ngầu?
Học sinh sẽ tìm ra được câu trả lời đó là Sông Hồng
Hoặc Sông chi mong ước trong lòng
Lửa chinh chiến tắt, người không giết người? (sông Thái Bình)
Sông gì chảy đến tận nơi? (sông Kì cùng)
- Chỉ cần trong thời gian ngắn học sinh cũng đã nêu đầy đủ được tên các hệ
thống sông lớn ở Bắc Bộ, với hình thức kiểm tra bài cũ như vậy sẽ làm cho học
sinh không còn thấy nặng nề khi phải lên trả bài, đồng thời sẽ làm cho không khí
lớp học sẽ trở nên sôi động hơn, thoải mái hơn và học sinh bước vào bài mới một
cách nhẹ nhàng, sẽ kích thích được tính tích cực, chủ động của học sinh trong khi

học bài mới.
2. Sử dụng văn học trong dạy học địa lí kinh tế châu Á
Sử dụng văn học trong dạy học địa lí 8 là một cách để tôi giúp cho học sinh
nắm và nhớ được các sự kiện và hiện tượng địa lí đang và đã xảy ra trong cuộc
sống hàng ngày của các em. Đại lí vừa là một môn học về tự nhiên và vừa là một
môn học về xã hội nên đòi hỏi học sinh phải bao quát được các kiến thức cả về tự
nhiên và xã hội. Vậy làm sao để cho học sinh có thể nắm vững và nhớ được các sự
kiện và hiện tượng địa lí một cách chắc chắn mà các em còn có thể vận dụng nó
vào thực tế ở địa phương. Để đạt điều đó tôi đã lồng ghép những đoạn văn để khai
thác kiến thức mới cho học sinh, đồng thời làm cho tiết học không bị nhàm chán, tẻ
nhạt,học sinh học tập một cách tích cực hơn.
Ví dụ 1: Địa lí 8, Bài 7, phần 2: “Đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của các
nước và lãnh thổ châu Á hiện nay”. Về tình hình kinh tế của các nước và vùng lãnh
thổ châu Á vào giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ 2 và sự phát triển kinh tế của
các nước và vùng lãnh thổ châu Á hiện nay. Giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ
2, về tình hình kinh tế - xã hội của các nước châu Á là nền kinh tế đều bị kiệt quệ,
đời sống nhân dân khổ cực. Để cho học sinh khắc sâu được sự kiện địa lí này thì tôi
sẽ liên hệ thực tế vào Việt Nam là nạn đói năm 1945 đã làm cho gần 2 triệu người
chết đói, nhưng nếu chỉ liên hệ đơn thuần như vậy thì học sinh cũng sẽ nhanh quên
sự kiện địa lí nên tôi đã trích một đoạn trong tác phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim
Lân để minh chứng cho điều đó.
“ Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng từ
nam Định, thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như
bong ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ, không sáng
nào người trong làng đi chơ, đi làm đồng không gặp ba, bốn cái thây nằm còng
queo bên đường. Không khí vẫn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người…”. Trích “Vợ Nhặt” – Kim Lân
- Để minh chứng rõ hơn cho sự kiện này, tôi cho học sinh quan sát và
khai thác một số hình ảnh sau:
Con đã chết còn mẹ đang ngồi chờ chết

Đói quá ăn cả thịt chuột
Những xác người chết chưa được thu gom
Đang thu gom xác chết
- Qua sự kiện này tôi sẽ giáo dục được học sinh là phải biết quý trọng những
nguồn lương thực, thực phẩm mà do chính con người làm ra, các em cần phải sử
dụng một cách hợp lí, tiết kiệm.
Ví dụ 2: Với đoạn trích trên tôi có thể sử dụng cho phần liên hệ thực tế ở bài
bài 15, phần 2: Đặc điểm xã hội: bằng kiến thức lịch sử, tôi đã cho các em biết
được trong chiến tranh thế giới thứ 2, hầu hết các nước Đông Nam Á đều bị phát
xít Nhật chiếm đóng. Đây không chỉ là những sự kiện địa lí mà nó còn là các sự
kiện lịch sử lớn trên thế giới. Để khắc sâu các sự kiện địa lí và lịch sử này vào tâm
thức của học sinh nên tôi đã đưa đoạn trích trên vào bài học để gây sự tò mò, tính
ham tìm hiểu của học sinh không chỉ ở môn địa lí mà còn làm cho học sinh có ý
thức tìm hiểu kiến thức ở môn lịch sử để phục vụ cho môn địa lí, với việc làm đó
học sinh đã biết cách liên kết kiến thức của môn học này với môn học khác trong
nhà trường.
3. Sử dụng thơ trong việc dạy các mùa khí hậu và thời tiết ở nước ta
Sử dụng thơ trong dạy học địa lí cũng đem lại hiệu quả đáng khích lệ. Trong
phần địa lí tự nhiên Việt Nam, các đặc điểm và tính chất của các yếu tố tự nhiên
học sinh còn chưa phân biệt được rõ ràng giữa các khu vực và các vùng, các miền
với nhau. Với các học suông trên lớp là giáo viên giảng học sinh nghe và ghi chép
nếu về nhà học sinh không cố gắng ôn bài thì các em sẽ không nắm được kiến thức.
Để cho học sinh có thể dễ nhớ, dễ phân biệt được đặc điểm và các tính chất tự
nhiên giữa các vùng và các miền của nước ta nên tôi đã chọn lồng ghép bài thơ vào
bài học, vừa có tác dụng khắc sâu được kiến vừa làm cho học sinh thấy nhẹ nhàng
hơn trong giờ học.
Ví dụ: Ở địa lí 8, bài 32: “Các mùa khí hậu và thời tiết ở nước ta” phần 1:
Mùa gió đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 4 (mùa đông). Loại gió mùa đông Bắc
này thì chỉ có miền bắc nước ta là chịu ảnh hưởng trực tiếp nên có thời tiết khô,
lạnh và ít mưa. Khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ không chịu ảnh hưởng của loại

gió này nên vào thời gian này ở khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ có thời tiết khô,
nóng và ít mưa. Nhưng học sinh lại thường xuyên nhầm lẫn tính chất của gió mùa
đông Bắc là khô và nóng. Để học sinh phân biệt được tính chất của loại gió mùa
đông Bắc và khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của loại gió này nên tôi lông ghép
bài thơ về “mùa đông” của Trần Quốc Toản vào bài giảng của mình như sau:
Mùa đông
Trời nặng màu chì
Ù ì gió bấc
Vật vờ bờ tre
Gió như ai quất…
Rét luồn khe liếp
Mùa đông vào nhà
Bà trải ổ rơm
Thơm mùi cơm nếp…
Như vậy, qua bài thơ này học sinh có thể dễ hình dung được tiết trời vào mùa
đông ở miền bắc như thế nào, thời tiết ra sao? Thì học sinh sẽ trả lời được vào mùa
đông ở miền bắc; còn đối với khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên vì học sinh đang
sống tại khu vực nam bộ nên học sinh dễ dàng phân biệt. Đưa bài thơ vào nội dung
bài học là hợp lí vì yêu cầu phù hợp với mọi đối tượng học sinh, thông tin đầy đủ
về mùa đông, không mất nhiều thời gian và nội dung được thể hiện rõ ràng.

Sáng mùa đông ở miền bắc
4. Sử dụng câu đố trong dạy các hệ thống sông lớn ở nước ta
Như tôi đã trình bày ở phần sử dụng câu đố trong kiểm tra bài cũ địa lí, trong
quá trình giảng dạy nếu giáo viên chỉ giảng, chỉ bản đồ học sinh chép bài vào thì
giờ học nó trở nên tẻ nhạt, không lôi cuốn được học sinh tham gia vào các hoạt
động học tập, để cho giờ học sôi động, kích thích tính tích cực của học sinh không
chỉ với học sinh khá giỏi tham gia mà còn kích thích những học sinh yếu – kém có
thể tham gia giải đáp các câu đố có liên quan đến nội dung bài học.
Ví dụ: Ở địa lí 8, bài 34: “Các hệ thống sông lớn ở nước ta”.

Để học sinh nhớ được 9 hệ thống sông lớn của nước ta ở ba miền Bắc, Trung
và Nam. Học sinh sẽ khó nhớ và hay bị nhầm lẫn với các sông khác nên không
khắc sâu được kiến thức cũng như không phát huy được hết sự tìm tòi suy nghĩ của
mình. Việc đưa câu đố vào bài học này, giúp học sinh có thể phân biệt giữa các hệ
thống sông lớn với các phụ lưu và chi lưu của các hệ thống sông lớn, từ đó học sinh
khắc sâu được kiến thức nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc.
Ở phần 2: Sông ngòi Trung Bộ. để học sinh nhớ tên các hệ thống sông lớn
của vùng tôi sử dụng một số câu đố sau:
Sông gì chảy đến tận nơi? ( Sông Kì Cùng)
Sông gì như ngựa bên đồi phi mau? (Sông Mã)
Sông gì anh lớn nhất nhà? (Sông Cả)…
Ví dụ: Ở địa lí 8, bài 27: Thực hành đọc bản đồ Việt Nam (phần hành chính và
khoáng sản). Về phần đọc bản đồ hành chính Việt Nam, giáo viên yêu cầu học sinh
xác định vị trí địa lí của tỉnh, (thành phố) mà em đang sống là tỉnh Bình Dương.
Sau khi học sinh xác định xong vị trí địa lí của tỉnh (thành phố) Bình Dương. Tôi
đưa ra một trò chơi dưới hình thức là câu đố như sau:
Địa lí em thuộc làu làu
Em tìm những tỉnh có Bình kể ra.
Cách tiến hành, giáo viên chia lớp ra làm hai nhóm
Nhóm 1: Tìm những tỉnh có Bình đứng trước
Nhóm 2: Tìm những tỉnh có Bình đứng sau
Thời gian thực hiện là 4 phút.
Học sinh nhóm 1 có thể kể ra tên các tỉnh có chữ Bình đứng trước như sau:
Bình Định, Bình Thuận, Bình Dương, Bình Phước.
Học sinh nhóm 2 có thể kể ra tên các tỉnh có chữ Bình đứng sau như : Hòa
Bình, Thái Bình, Ninh Bình, Quảng Bình.
Đối với hệ thống các câu đố trong địa lí, giáo viên còn có thể dùng để củng
cố bài học một cách nhanh chóng, không mất thời gian mà cũng bao hàm được các
kiến thức cơ bản của nội dung bài học.
5. Sử dụng chuyện trong việc đặc điểm đất Việt Nam

Ở trên lớp những lời thầy cô giảng bài suông thì khó đi vào tâm trí của các
em, nhưng giờ học địa lí trở nên sôi động và có ý nghĩa hơn đối với học sinh luôn
là những câu chuyện có liên quan đến nội dung bài học được tôi đưa vào trong bài
giảng nhằm lôi cuốn các em vào các hoạt động của bài học, đồng thời những câu
chuyện này có có tính giáo dục rất cao.
Ví dụ: Khi dạy địa lí 8, mục 2, bài 36 “ Đặc điểm đất Việt Nam”
Trong phần này khi dạy về vấn đề sử dụng và cải tạo đất ở Việt nam, tôi có
lồng ghép vào trong bài câu chuyện “Người nông dân và những đứa con” sau:
Ngày xưa, ở một làng nọ có một ông lão cả đời gắn bó với ruộng đồng, ông
yêu quý mảnh đất của mình, trồng cây,, cày cấy bấy nhiêu lâu mãn nguyện. nhờ
mảnh đất ấy đời sống ngày một no đủ, nuôi các con trưởng thành. Tuy vậy, những
đứa con của ông được hưởng lúa gạo, hoa màu từ ruộng vườn do tay ông lao động
mà có lại không mấy mặn mà với đất đai, đôi khi chểnh mảng không thiết làm
ruộng. Một ngày kia ông bị ốm nặng, nhưng nghĩ đến rụông đất yêu quý không ai
cày xới thì thấy đau lòng. Hôm ấy bệnh tình quá nặng, biết không qua khỏi, ông
đành gọi 2 đúa con lại mà rằng: các con nhớ rằng trong đám đất nhà mình có
chôn 1 hũ vàng, sau khi cha mất, các con gia công chịu khó cuốc xới lên tìm kiếm,
chắc sẽ giàu to. Người cha mất rồi, anh em nhà họ bảo nhau ra cuốc xới hết đám
ruộng này sang đám ruộng khác. Mỗi lần cày xới chả thấy vàng đâu, họ đành phải
bảo nhau trồng cây trên mảnh đất đó. Năm qua tháng lại, cuốc xới đất tơi xốp, lại
chăm bón tưới nước đầy đủ nên lúa tốt ngời ngời…mùa thu hoạch đến, thóc chất
đầy nhà lúc ấy họ mới nghĩ ra rằng: người cha quá cố của mình nói đúng, họ đã
tìm thấy vàng trên mảnh ruộng của mình chính nhờ vào sức lao động.
Từ câu chuyện trên tôi cho học sinh rút ra nhận xét: muốn sử dụng và cải tạo
đất có hiệu quả thì chúng ta cần phải làm gì? Học sinh sẽ rút ra được nhận xét,
muốn sử dụng và cải tạo đất có hiệu quả thì chúng ta phải cày xới và chăm bón.
Đồng thời qua đây tôi cũng muốn giáo dục học sinh, dù là trong lao động hay học
tập thì mỗi chúng ta phải biết chăm chỉ, chịu khó thì mới có được kết quả tốt.
D. HIỆU QUẢ
Trong giảng dạy địa lí nói chung và giảng dạy Địa lí 8 nói riêng, việc vận

dụng và kết hợp nhiều phương pháp và phương tiện hiện đại như ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học, nhằm đưa đến cho học sinh kết quả học tập tốt nhất.
Ngoài ra, tôi còn lựa chọn phương pháp sử dụng câu đố, thơ, văn học và chuyện
vào trong giảng dạy địa lí để nhằm mục đích thầy là người đóng vai trò hướng dẫn
nhằm phát huy tính tích cực, tư duy của học sinh trong quá trình học là vô cùng
quan trọng, với đặc thù của bộ môn Địa lí 8 là tìm hiểu cả về các yếu tố tự nhiên,
dân cư, kinh tế của châu Á, khu vực và đặc biệt là yếu tố tự nhiên của Việt Nam và
tại địa phương của các em đang sinh sống nên việc lựa chọn những phương pháp
giảng dạy phù hợp, khắc sâu kiến thức cũ cập nhật những kiến thức mới và liên hệ
từ thực tế đóng vai trò cốt yếu giúp học sinh có thể dựa vào đó mà giải quyết các
vấn đề khúc mắc. Do đó, giáo viên phải biết lựa chọn những mảng kiến thức thực tế
như thế nào để đưa vào bài giảng cụ thể làm cho bài học trở nên sinh động và học
sinh có khả năng phát huy được tính tích cực trong học tập.
Với tôi thông qua việc đưa câu đố, văn học, thơ và chuyện và giảng dạy địa
lí 8 đã mang lại kết quả khả quan sau:
* Đối với lớp không tiến hành thử nghiệm:
Lớp Sĩ số
Xếp loại
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
TS % TS % TS % TS % TS %
8A3 39 12 30,7 10 25,6 8 20,6 8 20,6 1 2,5
8A5 41 7 17,1 16 39,0 10 24,4 7 17,1 1 2,4
8A6 41 7 17,1 11 26,8 13 31,7 8 19,5 2 4,9
* Đối với lớp tiến hành thử nghiệm:
Lớp

số
Xếp loại
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
TS % TS % TS % TS % TS %

8A1 37 36 97,3 1 2,7 - - - - - -
8A2 41 16 39,0 20 48,8 5 12,2 - - - -
8A4 41 13 31,7 20 48,8 7 17,1 1 2,4 - -
PHẦN III. KẾT LUẬN
Trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện và qua kết quả đạt được, tôi có
những kết luận sau:
Để dạy học địa lí đạt hiệu quả, người giáo viên phải biết vận dụng sáng tạo
có khoa học các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với từng bài, từng đối
tượng học sinh làm cho người học chủ động, sáng tạo trong việc tiếp thu kiến thức
mới.
Để giờ học địa lí có hiệu quả cao, giáo viên và học sinh cần chú ý những vấn
đề sau:
1. Đối với giáo viên:
- Trước tiên giáo viên phải tìm tòi nghiên cứu nội dung bài dạy thật kĩ, vận
dụng những phương pháp dạy học phù hợp cho từng nội dung bài học để gây hứng
thú cho học sinh. Ngoài ra, giáo viên phải thường xuyên tham khảo tài liệu để tìm
ra những sự kiện đại lí, lịch sử cũ và mới phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử.
- Giáo viên phải xác định được đơn vị kiến thức bài học, tìm ra được trọng
tâm để đào sâu, nâng cao hoặc giảm tải và liên hệ thực tế phù hợp với từng nội
dung bài học.
- Vận dụng có khoa học, đúng với từng “sự kiện Địa lí” các câu đố, bài văn,
mẫu chuyện hoặc bài thơ và khéo léo kết hợp các phương pháp và phương tiện, để
thực hiện một tiết dạy cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mà lại đạt được
hiệu quả cao.
2. Đối với học sinh
- Học sinh phải xác định động cơ học tập đúng đắn, phải có tinh thần học hỏi
cao, phát huy được tính tự lập, sáng tạo, xem trọng việc học địa lí nói chung và địa
lí lớp 8 nói riêng thông qua cách trình bày và gợi ý của giáo viên.
- Nắm chắc kiến thức cũ trước khi lên lớp, biết liên kết các kiến thức cũ với
kiến thức mới, liên kết kiến thức của môn học này với môn học khác.

- Biết liên hệ thực tế và vận dụng vào bài học thông qua cách trình bày của
giáo viên; Biết liên hệ từ bài học với thực tiễn cuộc sống ở địa phương.
- Phải phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
3. Kiến nghị, đề xuất
Đối với môn học địa lí hiện nay chúng tôi còn gặp nhiều khó khăn trong quá
trình giảng dạy nên tôi cũng có một số kiến nghị đề xuất sau:
- Tài liệu nghiên cứu địa lí còn ít, số liệu chưa được cập nhật kịp thời
- Còn thiếu nhiều bản đồ, lược đồ, tranh ảnh cần thiết cho việc giảng dạy địa
lí.
Qua đề tài này, tôi nhận thấy còn nhiều phương pháp và vấn đề cần phải đưa
vào trong giảng dạy địa lí để nâng cao hiệu quả mà bản thân tôi do năng lực có hạn
và thời gian nghiên cứu còn chưa nhiều nên sáng kiến kinh nghiệm của tôi không
thể không có sơ suất, thiếu sót; Chính vì vậy, tôi rất mong được có sự đóng góp, bổ
sung của các đồng nghiệp để SKKN của tôi được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng tôi xin trân thành cám ơn BGH, các đồng nghiệp trường THCS
Trần Hưng Đạo đã giúp đỡ tôi hoàn thành SKKN này.
Phú giáo, ngày 3 tháng 2 năm 2013
Người viết

Thiều Thị Xuân
* Tài liệu tham khảo
- Sách giáo khoa và sách giáo viên địa lí 8
- Sách văn học Tập 1, lớp 12
- Tập thơ bốn mùa quanh em của nhà xuất bản Kim Đồng
- Bộ ảnh của Võ An Ninh chụp năm 1945
- Mạng Internet.
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
MỤC LỤC

PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích của đề tài 2
3. Nhiệm vụ của đề tài 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Phạm vi nghiên cứu 3
6. Đối tượng nghiên cứu 3
7. Đểm mới của đề tài trong điều kiện thực tế của ngành và địa phương 3
PHẦN II: NỘI DUNG 3
A. CƠ SỞ KHOA HỌC 3
B. THỰC TRẠNG 4
C. NỘI DUNG 6
* Phương pháp thể hiện 6
1. Sử dụng câu đố trong việc kiểm tra bài cũ về sông ngòi Việt Nam 6
2. Sử dụng văn học trong dạy học địa lí kinh tế châu Á 7
3. Sử dụng thơ trong việc dạy các mùa khí hậu và thời tiết ở nước ta 10
4. Sử dụng câu đố trong dạy các hệ thống sông lớn ở nước ta 12
5. Sử dụng chuyện trong việc đặc điểm đất Việt Nam 13
D. HIỆU QUẢ 14
III. KẾT LUẬN 15
1.Đối với giáo viên 15
2. Đối với học sinh 15
3. Kiến nghị, đề xuất 16

×