Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.48 KB, 82 trang )

MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm qua, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( SME ) đã đóng một
vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng GDP ở Việt
Nam.
Trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong
khu vực và trên thế gới ngày càng phát triển với tốc độ hết sức nhanh chóng và sâu
sắc, làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở thành một chỉnh thể thống nhất, các
quan hệ kinh tế được phát triển đa phương, đa dạng hóa dưới nhiều hình thức.
Trong bối cảnh đó, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã tạo ra
những cơ hội cho các doanh nghiệp nói chung và những SME nói riêng như là mở
rộng thị trường xuất khẩu, tiếp nhận vốn và công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp,
nhờ đó mà tạo ra công ăn việc làm và đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập được
công nghệ quản lý mới, nhưng mặt khác lại đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào
tình thế phải cạnh tranh khốc liệt hơn. Thêm vào đó, các doanh nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu ở Việt Nam, đặc biệt là các SME ngoài quốc doanh đang gặp nhiều
khó khăn trong sản xuất cũng như tiêu thụ trên thị trường quốc tế. Việc khuyến
khích, hỗ trợ các SME nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu là một trong những nội dung quan trọng nhằm thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế.
II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu của SME cũng đã được các nhà nghiên cứu
phân tích và đánh giá và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Nổi bật là dự án
US/VIE/95/004: Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và đổi
mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ Việt Nam của nhóm tác giả Lê Đăng Doanh, J.Bentley, Nguyễn Đình Cung,
Trần Kim Hòa, Trần Đình Thái, Lê Viết Thái, Hoàng Văn Thành, Phan Nguyên
Toàn.
1
Đề án: đánh giá vai trò của các hình thức huy động vốn phi chính thức trong
các doanh nghiêp vừa và nhỏ ở Việt Nam của các tác giả Trần Kim Hào. Đề án này


nhằm trong chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan.
Ngoài ra các tác giả Nguyễn Cúc đã nghiên cứu về cơ chế và chính sách hỗ
trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thông qua các cuốn sách:
Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam đến năm 2005.
Về khóa luận tốt nghiệp có đề tài: Chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong hoạt động xuất khẩu của sinh viên Tạ Thị Diệu Mỹ - Lớp A8K37E-
Đại học Ngoại Thương và đề tài: Hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam: Hiện trạng và giải pháp của sinh viên Nguyễn Thúy Hà - lớp
A4CN8 - Đại học Ngoại Thương.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài: Các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu ở Việt Nam với mục đích:
1 .Khái quát khái niệm của SME và vai trò của SME trong nền kinh tế.
2. Đánh giá thực trạng xuất khẩu của SME.
3. Đề xuất một số biện pháp hỗ trợ SME nhằm đẩy mạnh xuất khẩu.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đẩy mạnh xuất khẩu.
2. Phạm vi nghiên cứu: các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
V. NỘI DUNG
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I. Khái quát khái niệm SME và vai trò của SME trong nền kinh
tế.
Chương II. Đánh giá thực trạng hoạt động của SME.
2
Chương III. Một số giải pháp hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Trong suốt quá trình thực hiện, đề tài này có thể chưa đầy đủ và còn nhiều
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự thông cảm, góp ý của thầy cô và các bạn sinh

viên để đề tài này thành công hơn.
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Bùi Xuân Lan đã tận tình giúp đỡ, hướng
dẫn em nghiên cứu khóa luận này.
Nguyễn Thị Mai
Lớp: A2-CN10


3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT KHÁI NIỆM VỀ SME VÀ VAI TRÒ CỦA SME
TRONG NỀN KINH TẾ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SME
Hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại SME. Tuy nhiên, không
có tiêu thức để phân loại SME cho tất cả các nước và ngay trong một số nước việc
phân loại cũng có sự khác nhau tùy theo tưng thời kỳ, từng ngành nghề, địa bàn…
Có 2 nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại, đó là: tiêu chí định tính và
tiêu chí định lượng.
Tiêu thức định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ bản của SME như không
có vị thế độc quyền trên thị trường, chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít…
các tiêu thưc này cố ưu thế là phản ánh đúng của vấn đề nhưng thường khó xác
định trên thực tế. Do đó, nó chỉ được làm cơ sở để tham khảo mà ít được sử dụng
trên thưc tế để phân loại.
Tiêu thức định lượng: Thường sử dụng các tiêu thức như là số lao động
thường xuyên và không thường xuyên trong doanh nghiệp, giá trị tài sản hay vốn,
doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
- Số lao động có thể là số lao động trung bình trong danh sách, lao động
thương xuyên, lao động thực tế…
- Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản ( hay vốn ), tài sản hay vốn
cố định, giá trị tai sản còn lại…
- Doanh thu có thể là tổng doanh thu trong năm, tổng giá trị gia tăng trong
một năm (hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ tiêu này)

1.1.1. Tiêu thức xác định SME ở một số nước trên thế giói
Ở các nước, tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiêp rất đa
dạng. Dưới đây là một số tiêu chí phân loại SME qua điều tra ở 12 nước trong khu
vực APEC. Trong các nước này, tiêu chí số lao động được sư dụng phổ biến nhất
(12/12 nước sử dụng). Còn một số chỉ tiêu khác còn tuỳ thuộc vào điều kiện của
4
tưng nước: vốn đầu tư (3/12), tổng giá trị tài sản (4/12), doanh thu (4/12) và tỷ lệ
góp vốn (1/12). Sối lượng tiêu chí chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba chỉ tiêu.
Điều này được thể hiện một cách cụ thể dưới bảng như sau:
Bảng 1 :Tiêu chí phân loại SME ở các nước APEC.
Nước Tiêu chí phân loại
Australia Số lao động
Canada Số lao động: Doanh thu
Hongkong Số lao động
Indonesia Số lao động:Tổng giá trị tài sản:Doanh thu
Japan Số lao động:Vốn đầu tư
Malaysia Số lao đông:Tỷ lệ góp vốn
Mexico Số lao động
Philippin Số lao động:Tộng giá trị tài sản:Doanh thu
Singapore Số lao động:Tộng giá trị tài sản
Taiwan Vốn đầu tư:Tổng giá trị tài sản:Doanh thu
Thailand Số lao động:Vốn đầu tư
US Số lao động
Ở Inđonesia: Tổng cục thống kê nước này phân loại vào số lao động: Doanh
nghiệp có dưới 19 lao động được coi là nhỏ, doanh nghiệp có trên 20 lao động thì
được coi là vừa và lớn. Bộ công nghiệp xác định SME dựa trên vốn đầu tư vào máy
móc: dưới 70 triệu rupi và tính bình quân trên một lao động có dưới 625 nghìn rupi
là doanh nghiệp nhỏ. Còn ngân hàng Indonesia coi doanh nghiệp có tài sản dưới
100 triêu rupi la SME . Ở Hàn Quốc: tiêu thức phân loại doanh nghiệp chủ yếu dựa
vào số lao động và phân biệt theo hai lĩnh vực sản xuất và dịch vụ: trong lĩnh vực

sản xuất dưới 1000 lao động trong lĩnh vực dịch vụ dưới 20 lao động là các
DNV&N.Ở Đài Loan doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người và vốn đầu tư
dưới 1,5 triệu USD SME.Ở Malayxia: doanh nghiệp cố cổ đong dưới 500 nghìn
USD hay tài sản ròng dưới 200 nghìn USD, số lao động dưới 20 nghìn, doanh
nghiệp có vốn cổ đông hay tài sản ròng từ 0,5 -2,5 triệu USD, lao động dưới 100
5
người là SME.Ở Thái Lan: doanh nghiệp có số lao động tối đa là 250 người và vốn
đầu tư không quá 99.500 USD là SME.
Theo các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) trì các
SME là những công ty hạch toán độ là công ty con của của các công ty lớn: tuyển
dụng ít hơn một số lao động đã được quy định. Số lượng này này khác nhau ở các
hệ thống thống kê quốc hạn trần phổ biến nhất là 250 lao động tại các nước thuộc
liên minh Châu Âu (EU). Tuy nhiên, một số nước đặt ra giới hạn ở mức 200 lao
động khi Mỹ coi SME bao gồm các công ty có ít hơn 500 lao động. Tài sản tính
bằng tiền cung đươc sử dụng để xác định SME. Tại EU SME phải có doanh thu
hàng năm bằng hoặc ít hơn 40 triệu EURO hoăc giá trị bảng cân đối tài sản không
vượt quá 27 triệu EURO.
1.1.2. Tiêu thức xác định SME ở Việt Nam
a. Định nghĩa SME ở Việt Nam
Trong luật doanh nghiệp và luật công ty có quy định rõ về doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, các loại công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, hợp tác xã…nhưng lại chưa có một định nghĩa chính xác hay hệ thống như
những chỉ tiêu để phân loại thế nào là SME. SME tồn tại cả trong khu vưc kinh tế
quốc doanh và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khu vực kinh tế ngoai
quốc doanh vẫn chiếm đa số.
Trong một số nghiên cứu gần đây của các tổ chức kinh tế thế giới về SME ở
Việt Nam, người ta thuờng dựa trên các phân tích do phòng thương mại và Công
nghiệp Việt Nam và kế hoạch và đầu tư cùng tiến hành đưa ra trên cơ sở định nghĩa
về các SME đang sử dụng trước khi thông qua một định nghĩa chính thức. Người ta
sử dụng 2 tiêu thức về số lao động thường xuyên và vốn sản xuất để phân loại

doanh nghiệp. Đây là hai tiêu thức được sử dụng rộng rãi và có thể xác định hai
tiêu thức này ở mọi cấp. Từ cách hiểu này có thể đưa ra được định nghĩa về SME
như sau: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là nhưng cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách
6
pháp nhân với mục đích chính là kiếm lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp ( tính
theo các tiêu thức khác nhau ) trong giới hạn nhất định đối với từng thời kỳ cụ thể.
b.Tiêu thức xác định SME ở Việt Nam.
Để xác định tiêu chí SME ở Việt Nam một cách phù hợp, cần căn cứ vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam (là một nước có trình độ phát triển còn thấp, năng
lực quản lý hạn chế, thị trường còn thiếu, chưa có thước đo quy mô doanh nghiệp
một cách đích thực) và tính đến các yếu tố tác động đến viêc phân loại nêu trên như
mục đích phân loại, tính chất ngành nghề, địa bàn.
Việc phân loại SME chủ yếu dựa vào hai tiêu thưc là: lao động thường xuyên
và vốn sản xuất, vì lý do sau: tất cả doanh nghiệp đều có số liệu về hai tiêu thức
này (tính phổ dụng) có thể xác định 2 tiêu thức này ở mọi cấp độ, toàn bộ nền kinh
tế, doanh nghiệp, (tính khả thi). Trong điều kiện của Việt Nam đây là 2 tiêu thức có
thế xác định được chính xác trị số của chúng ( tính chuẩn xác).
Tuy vậy, hai tiêu thức này chỉ thể hiện được quy mô đầu vào mà chưa phản
ánh được kết quả tổng hợp thông qua kết quả kinh doanh.
Các tiêu thức khác như doanh thu, vốn pháp định, vốn cố định, vốn lưu động,
lợi nhuận…đều có hạn chế là rất khó xác định hoặc không có nhiều ý nghĩa. Tiêu
thức doanh thu (hoăc giá trị gia tăng) có nhiều ý nghĩa vì nó phản ánh quy mô
doanh nghiệp qua kết quả hoạt động của nó (gắn với hiệu quả). Tuy nhiên trong
điều kiện của Việt Nam, tiêu thức này rất khó xác định và không có số liệu chính
xác (chẳng hạn do việc dấu doanh thu để trốn thuế).
Các tiêu thức khác như vốn pháp định, vốn cố định hay số dư lưu động
không phản ánh đầy đủ và thực chất quy mô của doanh nghiệp trong các ngành
khác nhau. Vốn pháp định thường khác xa vốn thực tế và chỉ mang tính hình thức.
Vốn cố định có sự khác biệt lớn giữa các ngành sản xuất và thương mại, vốn lưu
động cũng khác biệt rất lớn giũa các lĩnh vực, ngành nghề.

Trên cơ sở những luận giải đó, có thể đi đến ước lượng tiêu thức để phân loại
SMR ở bảng 1 dưới đây:
7
Bảng 2 :Tiêu thức phân loại SME ở Viêt Nam
Lĩnh vực Công nghiệp Thương mại,dịch vụ
Tiêu thức SME Doanh nghiệp nhỏ SME Doanh nghiệp
nhỏ
Vốn sản xuất <5 tỷ <1 tỷ <2 tỷ <1 tỷ
Loa động thường
xuyên (người)
<300 <50 <200 <30
(Nguồn: Học viện chính trị quốc gia và Viện Friedrich Ebert –Đức)
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA SME Ở VIỆT NAM
1.2.1 .Qúa trình hình thành và phát triển SME ở Việt Nam
Sự hình thành và phát triển SME ở Viêt Nam theo nhiều xuât sứ khác nhau:
Các SME được hình thành từ HTX tiểu thủ công nghiệp nông nghiệp có từ
lâu đời, tồn tại và phát triển qua cả thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, từ các
doanh nghiệp của Nhà nước thành lập theo cơ chế cũ (các doanh nghiệp Trung
ương và địa phương).
Hiện nay có thêm một số lượng lớn các SME mới được thành lập trong thời
kỳ đổi mới kinh tế, do sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh, thành lập theo các
văn bản quy phạm pháp luật ban hành từ năm 1990 đến nay.
a.Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1995
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quy định chế độ, chính sách
đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã (HTX), doanh
nghiệp nhà nước (DNNN). Đáng chú ý Nghị quyết 16 của Bộ chính trị Đảng Cộng
sản Việt Nam (1998), Nghị định 27, 28 ,29 của Hội đồng Bộ trưởng (1998) về kinh
tế cá thể, kinh tế hợp tác xã và hộ gia đình… và một loạt các luật như Luật Công ty,
Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Hợp tác xã, Luật DNNN…đã tạo điều kiên và
môi trường thuận lợi cho các SME phát triẻn.

Nhiều cơ quan quản lý, cơ quan khoa học và nhiêù địa phương nghiên cứu về
SME như: Bộ Khoa học và Đầu tư, Viện nghiên cưu quản ly tung ương, Phòng
8
thưong mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội đồng Liên minh các hợp tác xã Việt
Nam…đã có nhiều cuộc hội thảo trong nước quốc tế bàn về chính sách hỗ trợ các
SME. Nhiều tổ chức quốc tế hỗ trợ về tài chính, khoa học cho các SME, trong đó
có Viện Fredrich Ebert (FES) của Đức.
Trước những kết quả to lớn cũng như những khó khăn, vướng mắc của các
SME, nhằm đáp ứng yêu cầu của sư phát triển kinh tế đất nước, Chính phủ đã có
Công văn số 681/CP-KTN ngày 20-06-1998 định hướng chiến lược và chính sách
phat triển SME.
b.Giai đoạn trong thời kỳ đổi mới
Số lượng SME của các thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi
số lựong các DNNN giảm liên tục. Riêng trong nghành công nghiệp từ 3.141 đơn
vị (năm 1986) xuống còn 2.002 đơn vị (1995) số lựong hợp tác xã trong công
nghiệp giảm mạnh từ 37.649 cơ sở (năm 1986) xuống còn 1.199 (năm 1995). Khu
vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp ( doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, từ
567 doanh nghiệp ( năm 1986) lên 959 doanh nghiệp ( năm 1991) và 6311 doanh
nghiệp (năm 1995).
Theo tính toán của nhám nghiên cưú của học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh thì nếu xét cả tiêu chí lao động thì ở Việt Nam hiện nay có 98,9% số doanh
nghiệp là thuộc SME, trong đó 84,8% DNNN và 99.1% doanh nghiệp ngoài quốc
doanh là thuộc SME. Trong 2000 có 14000 SME được thành lập, năm 2001 là
21000 và ước tính trong năm 2002 là 23000 SME. Như vậy sau 3 năm thực hiện
Luật Doanh nghiệp đã có thêm 58000 SME, đưa tổng số SME của cả nước lên tới
gần 80000 doanh nghiệp. Con số này là rất đáng khuyến khích nhưng chưa phải là
nhiều như một số ý kiến nhất định mà đang còn quá ít so với cơ cấu chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống nhân dân. Ở các nước phát
triển như Pháp, Đức…hàng năm có tới 100.000 đến 200.000 doanh nghiệp mới
thành lập mà chính phủ các nước này vẫn thúc đẩy thành lập thêm với các chương

trình khởi sự doanh nghiệp. Trong năm 2001 vừa qua Chính phủ Việt Nam đã ban
9
hành Nghi định 90/2001/NĐ-CP vềhỗ trợ SME. Tuy nhiên, tính đến nay việc triển
khai Nghị định còn chậm so với tốc độ phát các SME.
c.Trong giai đoạn hiên nay
SME ở Việt Nam có mặt trong hầu hết các nghành kinh tế. Trong đó phần
lớn tập trung ở 3 lĩnh vực chính: Thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn (46,2%);
Công nghiệp và xây dựng (18%) ; Vận tải, dịch vụ kho bãi (10%). Riêng trong linh
vực Công nghiệp đã cố tới 37,3% số SME hoạt động trong ngành chế biến thưc
thẩm; 11% trong nghành dệt, may, da; 18,6% trong nghành sản xuất các sản phẩm
kim loại.
Sự phân bố SME tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ và ĐBSCL
chiếm 50% tổng số doanh nghiệp cả nước, ĐBSH là 20%, duyên hải Miền Trung
chiếm 12%.
Hiện nay SME đang từng bước xử lý, củng cố lại và tiến hành cổ phần hóa
cho thuê và bán cho các thành phần khác. Đồng thời thưc hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng (khoa VIII) theo hướng phát huy
nội lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, SMME sẽ
có xu hướng và điều kiện phát triển mạnh hơn nũa.
1.2.2. Đặc điểm chung của các SME ở Việt Nam
Với tốc độ phát triển nhanh chóng, các SME ở Việt Nam đã có những đóng
góp tích cực cho nền kinh tế quốc dân. Phần lớn các SME ở Việt Nam đều mang
những đặc điểm dưới đây:
a. Về số lượng và cơ cấu theo nghành nghề
Tính đến nay cả nước có khoảng 50% DNNN Trung ương và khoảng 70-
80% số DNNN địa phương thuộc loại doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
Nếu xét đến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì các SME chiếm hơn 90%
doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ, trừ loại hình công ty cổ
phần.
b.Về phân bổ SME theo vùng lãnh thổ

10
Đồng bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ đã chiếm gần 50% tổng số
SME của cả nước. Hai vùng tiếp theo là Đồng bằng Sông Hồng (22%), Duyên hải
Miền Trung (12%), các vùng còn lại chiếm gần 16%.
c.Về vốn
SME ở Việt Nam hiện nay đều gặp khó khăn về vốn để sản xuất kinh doanh
ở những mức độ khác nhau. Theo thống kê của nhóm nghiên cứu Học viện Chính
Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, tính đến năm 1999 vốn của doanh nghiệp quốc doanh
chỉ chiếm 11,9% tổng số vốn của doanh nghiệp nhà nước. Thời điểm năm 2000 con
số này tăng lên đến 12,8%.
Trong khu vực kinh tế nhà nước, vốn bình quân mỗi doanh nghiệp là
khoảng 8 tỷ VNĐ so với vốn bình quân mỗi doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế
tư nhân là 340 triệu VNĐ. Như vậy, quy mô của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
đã nhỏ thì quy mô vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại càng nhỏ hơn.
d. Về công nghệ, thiết bị của SME
Do hầu hết các SME có khó khăn về vốn nên công nghệ thiết bị lạc hậu từ
hai đến ba thế hệ và chậm được đổi mới: tỷ lệ đổi mới máy móc thiết bị là 5-
10%/năm tính theo vốn đầu tư.
e. Về thị trường và khả nang cạnh tranh
80% triệu dân số Việt Nam có mức yêu cầu về chất lượng hàng hóa và dịch
vụ chưa cao, nhất là ở nông thôn (80% dân số cả nước) là thị trường tiềm năng rất
lớn cho các SME. Tuy nhiên, thị trường VN bị ảnh hưởng rất lớn của hàng hóa
nhập lậu và tác động đến SME.
Khả năng cạnh tranh của SME ở Việt Nam rất yếu: do công nghệ, thiêt bị lạc
hậu, trình độ quản lý và kinh doanh trên thị trường còn hạn chế, thông tin thị
trường kém.
g. Về lao động và đội ngũ quản lý của SME
Chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn
hóa thấp.
11

6% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trinh độ đại học chủ yếu
tập trung vào các công ty TNHH và công ty cổ phần (hơn 80%) .
44% chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh là cán bộ, công nhân viên chức nhà
nước chuyển nghành.
48,4% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không cố bằng chuyên môn.
1.3. VAI TRÒ CỦA SME TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
Các SME có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế. Họ góp
phần vào sự gia tăng tổng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân
chiếm khoảng 70% GDP mỗi nước.
Ở Việt Nam hiện nay SME vừa có diện rộng, phổ cập chiểm tỷ trọng lớn
trong tổng số doanh nghiệp và cố vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển
kinh tế xã hội. Cùng với kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn, SME được xem
như là những nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, tạo
việc làm cho người lao động, khai thác tận dụng hiệu quả tiềm năng về vốn, tay
nghề và những nguồn lực tiểm ẩn trong dân cư. Nó còn góp phần phân bổ công
nghiệp trên các địa bàn khác nhau; giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn; bảo
tồn và phát triển các làng nghề truyền thống, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc.
1.3.1 Mức độ đong góp của SME Viêt Nam trong nền kinh tế
Cho đến nay, chưa có số liệu chính thức được công bố về đóng góp của khu
vực SME trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy vậy, theo ước tính, DNNN và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 43-45% GDP, sản xuất nông
nghiệp chiếm khoảng 27-30%, thì phần còn lại là sản phẩm của khu vực SME. Như
vậy, các SME không kể sản xuất nông nghiệp đã tạo ra khoảng 25-28% GDP. Theo
báo cáo gần đay của Tổng Cục Thông kê thì DNTN, công ty TNHH,công ty Cổ
phần đã tạo ra 8% GDP; Hộ kinh doanh cá thể đã tạo ra 8-9% GDP và các Hợp tác
xã đã tạo ra khoảng 9% GDP.
Do số lượng SME tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu của xã hội, tính cạnh tranh tăng lên làm cho chất lượng hàng hóa và
12
dịch vụ tăng cao, thị trường sôi động hơn. SME còn góp phần khai thác tiềm năng

của đất nước để phát triển kinh tế như tài nguyên, lao động, vốn thị trường, đặc biệt
là tay nghề tinh xảo và truyền thông dân tộc.
1.3.2. SME giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm
SME giữ vai trò quan trọng trong việc làm, giải quyết có hiệu quả những
vaans đề xã hội .Chỉ tính riêng kinh tế cá thể trong công nghiệp và thương mại,
năm 1995, đã thu hút 3,5 triệu lao động. Chí phí trung bình để tạo ra một chỗ làm
việc trong các SME chỉ bằng 10% so với doanh nghiệp lớn.
1.3.3. SME làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả
Một vai trò nữa rất quan trọng của SME là làm cho nền kinh tế năng động và
có hiệu quả cao. Do số lượng doanh nghiệp tăng lên rất lớn nên động lực cạnh tranh
làm cho nên kinh tế thêm năng động và hiệu quả. Hơn nữa, các doanh nghiệp này
có khả năng thay đổi mặt hàng,công nghệ và hướng kinh doanh một cách nhanh
chóng. Ngoài ra đã có nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một số mặt hàng nên sẽ
giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế: khi một doanh nghiệp đổ vỡ thì các
doanh nghiệp khác thay thế.
Phát triển SME, làm cho số luợng doanh nghiệp tăng lên rất lớn, tăng tính
cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro, đồng thời tăng số lượng chủng loại hàng hóa,
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Đảng ta chủ tương thực hiện công nghiệp
hóa, coi trọng công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. SME với mạng lưới rộng
khắp đã có truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn sẽ là
động lực thúc đẩy sản xuât nông nghiệp, nông thôn phát triển. Sẽ hình thành những
tụ điểm, cụm công-nông nghiệp để tác động chuyển hóa sản xuất nông nghiệp theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.3.4. SME góp phần tích cục trong việc lư thông hàng hóa và XK
Trong nhưng năm 1950 các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ lấy mục tiêu
phục vụ thị trường trong nước là chính, đáp ứng nhu cầu trong nước và sử dụng có
hiệu quả nguồn nhân lực. Khi nền kinh tế phát triển, sức mua tăng lên, nhu cầu lớn
13
hơn, các SME nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu. Điều này rất
khó thực hiện tại các doanh nghiệp lớn khi muốn đa dạng hóa các mặt hàng sản

xuất. Trong khi các SME số lượng đông đảo và hoạt động cố hiệu quả, họ có tể tự
sản xuất thay thế nhập khẩu.
Đầu thập kỷ 60, Chính phủ nhiều nước đã quyết định phát riển SME theo
định hướng xuất khẩu. Bên cạnh việc góp phần lưu thông hàng hóa trong nước, các
doanh nghiệp đều lấy thị trường quốc tế làm thị trường chính.
Trước đây vịêc tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài phải do trung gian làm môi
giới, nhưng trong nhưng năm gần đây SME đã có khả năng tụ thúc đảy tiêu thụ
hàng hóa trên thế giới. Đây cũng là sự tương đồng ở Việt Nam, các doanh nghiệp
có quy mô nhỏ, khả năng lưu thông trong nước lẫn ngoài nước đều hết sức khó
khăn, đặc biệt là lưu thông do bị ép giá. Nhưng với các cơ sơ doanh nghiệp tổ chức
xuất khẩu,giá thu mua dù sao cũng tốt hơn so với thị trường trong nước đã buộc các
SME phải tính các hoạt động xuất khẩu.
1.3.5. Các SME dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh
Sự tự do cạnh tranh là con đường đúng nhất để phát huy tiềm lực vốn có của
doanh nghiệp. Một quốc gia nào muốn tạo nên các SME đều phải có chế độ tư hữu
và tự do cạnh tranh. Các doanh nghiệp lớn thường cần những thị trường lớn, đòi
hòi phải có sự bảo trợ của Chính phủ và phải có sự độc quyền.
Còn ở SME thì tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tụ
do cạh tranh. So với các donh nghiệp lớn, SME có tính tự chủ cao, họ không ỷ lại
sự giúp đỡ của nhà nước. Vì mưu lợi họ sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển
mà không ngại rủi ro.Ở các nước trong khu vực mỗi năm bình quân có khoảng
203% số SME bị phá sản và cũng có khoảng 3% loại doanh nghiệp này mới được
hình thành.
1.3.6. Các SME có khả năng ứng biến nhanh nhạy
Những biến động kinh tế xã hội trên thị trường quốc tế và trong nước đã
nhiều lần gây cú sôc lớn cho nền kinh tế nhiều nước, như hai cuộc khủng hoảng
14
kinh tế thế giới thập niên 80, 90, nạn lạm phát, ô nhiễm…Nhưng các SME đã thích
nghi nhanh chóng, thay đổi hoàn toàn, tự điều chỉnh sản xuất. Với tư thế nhỏ gọn,
năng động, dễ quản lý, không cần thiết quá nhiều vốn, các SME rất linh hoạt trong

việc đòi hỏi, phát triển và tránh các thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác
động. Trong nhưng năm gần đây, các SME của các nước phải ứng phó với sự gía
của đồng tiền trong nước, sự thiếu lao động tạm thời và vấn đề ô nhiễm môi trường.
Do dễ dàng quản lý, các SME rất linh hoạt trong việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất,
chuyển kênh tiêu thụ ở nước ngoài để tránh sự mất mát ngoại hối do đồng tiền
trong nước tăng giá. Khả năng ứng biến của SME đối với sự đột biến của hoàn
cảnh không thể không kể đến vai trò trợ giúp tích cực của chính phủ.
Các SME dễ dàng tạo nên sự phát triển cân đối giữa các vùng và góp phần
giảm bớt nạn thất nghiệp. Vấn đề phát triển cân đối giữa các vùng không thể thành
công nếu nước đó chỉ chú trọng đến việc phát triển cân đối giữa các doanh nghiệp
đại quy mô. Ở nhiều nước, tính phổ biến của các SME rất lợi thế trong việc tuyển
dụng nhân công tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sẵn có của địa
phương. Lợi nhuận của các SME góp phân tái sản xaất, đầu tư cho địa phương, do
đó hiệu quả của kinh tế của các SME cũng là hiệu quả về ổn định và phát triển kinh
tế ở địa phương. Các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ là khu vực thu hút nhiều lao
động, có thể tạo ra nhiều công ăn viẹc làm, góp phần giảm bớt nạn thất nghiệp của
mỗi địa phương nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Theo tư liệu mỗi năm gần
đây, các SME trong ngành thương nghiệp là các doanh nghiệp taọ việc làm nhiều
nhất cho công nhân. Bởi vì số lượng các doanh nghiệp loại này rât lớn, phân bố
rộng rãi khắp các vùng nên có vai trò rất lớn trong việc phát triển công bằng giữa
các thành thị và nông thôn.
1.3.7. Các SME là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp
Thông qua các hoat động sản xuất kinh doanh trong các SME nhiều nhà quản
lý cấp thấp khi thấy mình đã có đầy đủ kinh nghiệm liền tự mình tạo lập nên một
cơ nghiệp khác, bỏ doanh nghiệp mình đã từng làm việc. Nguồn gốc của sự thành
15
công là ở chỗ: họ sẵn sàng học hỏi, chịu gian khổ trong thời gian còn là công nhân
làm thuê để tích lũy thành quả cho riêng mình. Chính phủ nhiều nước đã khuyến
khích quá trình tự lập của mỗi cá nhân. Khác với doanh nghiệp lớn, các nhà doanh
nghiệp thuaòang là những người có học vị cao, đào tao chính quy để trở thành các

nhà doanh nghiệp. Các SME là một nơi sàng lọc đào tạo các nhà doanh nghiệp
thông qua kinh nghiệm.
Với vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế như vậy, trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế để góp phần cải thiện cán cân thương mại Việt Nam trong thời
gian qua, các SME đã không ngừng tham gia xuất khẩu nhằm duy trì tốc độ tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực này nói riêng và cả nước nói chung. Để
đạt được những kết quả đó là sự nỗ lực của mỗi bản thân doanh nghiệp .

16
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
2.1. Khái quát hoạt động xuất khẩu của SME ở Việt Nam hiện nay
Như chúng ta đã biết, sự tồn tại và phát triển của khu vực tư nhân mới được
chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi luật doanh nghiệp và luật công ty được
thông qua. Từ đó đến nay, loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam cũng trở nên phong
phú hơn, với những loại hình như cá nhân và nhóm kinh, doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Hy vọng rằng sau khi Nhà nước
xem xét và sửa đổi lại Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật công ty, Luật Doanh
nghiệp tư nhân thì các hình thức SME ngoài quốc doanh ngày càng phát triển hơn.
2.1.1. Về số lượng SME
Theo số liệu điều tra về khu vực SME tiến hành trong hai năm 1995-1996,
thì đến ngày 31/12/1996, có 1 439 638 đơn vị kinh doanh tư nhân, trong đó gồm 1
412 166 cá nhân và nhóm kinh doanh; 17 535 doanh nghiệp tư nhân, 6 883 công ty
TNHH, 153 công ty cổ phần và 2946 HTX. Điều này phần nào nói lên sự phong
phú của các DNV%N ngoài quốc doanh trong thời gian qua. Như vậy, xét về lượng
đơn vị kinh doanh thì hình thức cá nhân và nhóm kinh doanh và tiếp đến là doanh.
Số lượng đơn vị kinh doanh chủ yếu tập trung ở ba vùng: (1) vùng đồng
bằng sông Cửu Long 24%, (2) vùng Đồng bằng Sông Hồng 21%, (3) vùng miền
Đông Nam Bộ 19%. Tiếp đó là 13% ở vùng Khu bốn cũ, 10% vùng Duyên hải
Miền trung, 9% ở Miền núi và Trung du, và 4% ở vùng Tây Nguyên. Như vậy, 3

vùng [(1) - (3)] đã chiếm hơn 60% tổng số đơn vị kinh doanh tư nhân trên địa bàn
cả nước. Sự phân bố đó được thể hiện ở bảng 3 dưới đây:

17
Bảng 3: Phân bố SME theo vùng lãnh thổ
Đơn vị :%
Theo bảng 3, sự phân bố SME tập trung chủ yuế ở vùng Đông Nam Bộ và
Đồng bằng Sông Cửu Long (42,35%), Đồng Bằng Sông Hồng (21,11%), Khu bốn
cũ (13,07%), Duyên hải Miền Trung (10,25%).
2.1.2. Xét về ngành nghề kinh doanh
Các đơn vị kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu hoạt động
trong ba ngành: (1) dịch vụ thương nghiệp, sửa chữa xe động cơ, mô tô xe máy
46%; (2) trong công nghiệp chế biến (22%) và (3) khách sạn nhà hàng (13%). Điều
đảng lưư ý là có 21% daonh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thủy sản và
26% công ty cổ phần hoạt động ngoài quốc doanh trong lĩnh vực tài chính tín dụng,
riêng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến có tới 37,3% số SME hoạt động trong
ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, 11% trong ngành dệt, may, da và 18,6%
Phân theo vùng lãnh
thổ
Loại hình doanh nghiệp
DNTN Công ty Công ty Hợp Kinh tế
TNHH cổ phần tác xã cá thể
1.Vùng núi và trung
du
3,91 3,79 1,69 12,49 9,62 9,53
2. Đồng bằng sông
hồng
5,32 32,7 22,88 48,07 21,19 21.11
3. Khu bốn cũ 2,74 2,44 1,31 8,72 13,26 13,7
4. Duyên hải miền

trunng
20,64 4,71 7,19 11,2 10,25 10,25
5. Tây nguyên 2,46 1,09 1,31 2,14 3,72 3,68
6. Đông nam bộ 24,8 51,27 53,59 12,8 18,43 18,66
7. Đồng bằng sông
cửu long
40,14 4,00 11,76 4,58 23,63 23,69
Phần trăm tổng số 1,22 0,48 0,01 0,20 98,09 100
Tổng số 100 100 100 100 100 100
18
trong ngành sản xuất các sản phẩm kim loại. Sơ đồ 1 sẽ chứng minh về cơ cấu
ngành nghề kinh doanh của SME.
Sơ đồ 1; Cơ cấu ngành nghề kinh doanh của SME
1
2
3
4
1
2
3
4
Nguồn:CIME
Chú thích:
1: khách sạn ,nhà hàng (13%)
2: Các ngành khác (19%)
3: Công nghiệp chế biến (22%)
4: Dịch vụ thưông nghiệp (46%)
2.1.3. Xét về doanh thu của các SME
Trong khu vực kinh tế tư nhân, thì cá nhân và nhóm kinh doanh chỉ chiếm
40% tổng doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, về khía cạnh này, các

SME đăng kí chính thức, gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, chiếm phần quan trọng hơn (khoảng 57%). Điều này có thể
do cá nhân và nhóm kinh doanh không khai báo đúng mức doanh thu của họ, mà
khai báo thấp hơn thực tế là điều có thể xảy ra. Tuy vậy, nó phản ánh một thực tế là
các SME có đăng ký chính thức có quy mô lớn hơn. Và nếu muốn kinh doanh quy
19
mô lớn thì chắc chắn phải chuyển sang hình thức doanh nghiệp đăng ký chính thức,
hoạt động theo nguyên tắc cơ chế thị trường.
Doanh thu của khu vực SME ngoài quốc doanh được thể hiện chi tiết dưới
bảng sau:
Bảng 4: Doanh thu các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh theo vùng lãnh
thổ
Đơn vị tính %
Phân loại vùng lãnh
thổ
Loại hình doanh nghiệp
DNTN Công
ty
TNHH
Cônng
ty cổ
phần
Hợp
tác xã
Kinh tế
cá thể
1.Vùng núi và trung
du
2,90 1,34 0,26 4,68 4,97 3,12
2. Đồng bằng sông

hồng
2,97 15,89 7,48 12,90 12,07 11,73
3. Khu bốn cu 1,40 0,62 0,12 25,39 4,48 3,05
4. Duyên hải miền
trung
6,19 4,37 1,34 9,03 7,91 6,12
5. Tây nguyên 1,98 1,85 0,05 4,53 3,22 2,43
6. Đông nam bộ 41,44 68,05 86,01 31,98 38,96 51,46
7. Đồng bằng sông
cửu long
40,14 7,87 4,73 11,49 28,02 22,08
Phần trăm tổng số 17,18 36,04 3,75 2,43 40,60 100
Tổng số 100 100 100 100 100 100
Nguồn: CIEM
Theo bảng 4, điều đáng chú ý là doanh thu của khu vực miền Đông Nam Bộ,
gồm cả Thành phố Hồ Chí Minh, chiếm 51,46% tổng doanh thu của khu vực SME
ngoài quốc doanh trên cả nước. Tiếp đến là Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
chiếm 22,08%, và Vùng Đồng Bằng sông hồng chiếm 11,7%. Như vậy, xét theo
20
doanh thu, thì hoạt động của SME ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở Miền Nam Việt
Nam.
Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam được thực hiện dưới hình thức doanh
nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng đáng kể. Tổng số
vốn đăng ký của hai loại hình doanh nghiệp chiếm khoảng 60% tổng số vốn đăng
ký của kinh tế tư nhân. Cá nhân và nhóm kinh doanh chiếm khoảng 30%. Điều
đáng chú ý là gần 50% vốn đăng ký của khu vực đăng ký tư nhân ở Đồng bằng
Sông Hồng được thực hiện dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, trong khi
đó khoảng 60% vốn đăng ký ở Đồng Bằng Sông Cửu Long được thực hiện dưới
hình thức doanh nghiệp tư nhân.
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA SME Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY
Trong hệ thống thống kê của Việt Nam hiện nay chưa có thống kê chi tiết
các hoạt động của các SME trong nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như trong
hoạt động ngoại thương nói riêng. Mặc dù thống kê chưa cho phép tách biệt hoạt
động thương mại giữa hai khu vực quốc doanh, chủ yếu là soanh nghiệp SME,
nhưng thực tế cho thấy các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hiện vẫn chiếm ưu thế
trong hoạt động xuất. Bởi chế độ độc quyền ngọai thương trước đây đã tồn tại trong
một thời gian dài trong nền kinh tế đã phần nào cản trở các SME tham gia vào hoạt
động xuất khẩu, xuất phát từ những ưu thế về vốn, kỹ thuật, lao động và kinh
nghiệm maketing.
Ngày 31/7/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành chi tiết Luật Thương mại. Theo Nghị định này, kể từ 1/9/1998 các doanh
nghiệp Việt Nam được kinh doanh xuất khẩu theo nội dung Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh mà không bị yêu cầu phải có giấy phép xuất khẩu. Tuy vậy, vẫn có
nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh (SME) phải tiến hành các hoạt động xuất
khẩu thông qua các DNNN.
2.2.1. Những đóng góp của SME vào kim ngạch xuất khẩu ở Việt Nam.
21
Tuy gặp phải những cản trở không nhỏ trong việc thực hiện mở rộng hoat
động kinh doanh xuất khẩu, nhưng các SME cũng đóng góp một phần tích cực vào
sự nghiệp phát triển ngoại thương Việt Nam. Từ năm 1997-1999, xuất khẩu của
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng rất nhanh và nhanh hơn rất nhiều so với
các DNNN, trong hai năm 1998-1999, xuất khẩu không phải dầu thô của các
DNNN tăng là 4,6%, thì các SME là 72.5%. Do đó, mặc dù quy mô nhỏ, nhưng
khu vực SME trong nước đã chiếm tỷ lệ 39,1% tăng trưởng xuất khẩu không phải
dầu thô của giai đoạn này. Cụ thể các đóng góp của SME vào kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam được thể hiện dưới đây:
Bảng 5: Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu không kể dầu thô
giai đọan 1997 - 1999.
C

ác loại hình
doanh nghiệp
1997
Tr USD
1999
Tr USD
Tăng xuất khẩu
của 2 năm (%)
Tỷ lệ đóng góp
vào tăng
trưởng xuất
khẩu
DNNN
DN FDI
Khu chế xuất
SM E
Tổng số
5 207
1790
292
915
7 732
5260
2590
581
1578
9428
4,6
44,7
98,8

72,
21,9
13,7
47,2
17
39,1
100
Nguồn: kết quả hoạt động xuất khẩu và dự báo năm tiếp theo.
Báo cáo không chính thức của WB, phiên họp 6/2000.
2.2.2. Tình hình đầu tư của SME nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
Xuất khẩu của khu vực SME tăng mạnh mặc dù đầu tư năm 1997 giảm mạnh
(xem sơ đồ 2), theo các nhà quản lý của các SME định hướng xuất khẩu, điều này
đạt được là do đầu tư trong những năm qua 1996-1997 đã dẫn đến viêc dư thừa
công suất vào năm 1998-1999, khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra. Do đó,
22
tăng xuất khẩu trong những năm 1999 một phần lớn là do mức sử dụng công suất
hiện có cao hơn. Các công ty đã cho biết chuyển hướng khỏi việc xuất qua trung
gian sang xuất khẩu trực tiếp (FOB) với giá trị tăng cao hơn hẳn. Xuất khẩu FOB
tăng từ 30% trong tổng xuất khẩu năm 1998 lên 50% năm 1999. Hầu hết số xuất
khẩu trục tiếp này là sang các thị trường mới thường là Châu Mỹ- Lating và Đông
Âu. Gía trị gia tăng theo xuất khẩu FOB cao hơn hẳn so với các hình thức gia công,
nhưng rủi ro cũng cao hơn do các SME phải tự tìm kiếm khách hàng cho mình.
Như đã trình bày ở trên tình hình đầu tư trong những năm qua đối với khu vực
SME ngoài quốc doanh giảm rất mạnh vào năm 2007 (giảm 3,7%) và tăng dần vào
những năm tiếp theo 1998 (2,5%) năm 1999 (2,4%). Điều này được thể hiện một
cách rõ nét nhất dưới sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Tốc độ tăng vốn đầu tư trong khu vực SME năm 96 - 99.
-5.00%
-4.00%
-3.00%

-2.00%
-1.00%
0.00%
1.00%
2.00%
3.00%
4.00%
5.00%
1 2 3 4
Series1
Nguồn: Báo cáo không chính thức của WB, phiên họp 6/2000.
1. năm 1996 (3.90%) 4 .năm 1999 (2.40%)
2. năm 1997 (-3,70%)
3. năm 1998 (2,50%)
Bên cạnh đó, những cải cách nhằm mở rộng quyền thương mại và khả năng
tiếp cận với thị trường xuất khẩu cho phép các SME của Việt Nam đã có tác dụng
23
tăng xuất khẩu trong thời gian qua. Nếu tiếp tục có những cải cách nhằm hỗ trợ tự
do hóa khu vực SME và nếu khả năng tiếp cận bình thường với tất cả các thị trường
trên thế giới được mở rộng, các SME sẽ tiến hành đầu tư giúp duy trì tăng trưởng
cao cho xuất khẩu Việt Nam.
Hiện nay, các SME tuy không chiếm một tỷ lệ lớn trong giá trị xuất khẩu,
nhưng lại có một vị trí không kém phần quan trọng trong hoạt động xuất khẩu
thông qua vai trò cung cấp nguồn hàng cho các công ty kinh doan xuất khẩu, tạo ra
công ăn việc làm đáng kể trong lực lượng lao động nhàn rỗi.
2.2.3. Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu SME
Nhìn vào cơ cấu của các thành phần kinh tế trong GDP, có thể thấy các mặt
hàng xuất khẩu chính của các SME hiện nay bao gồm các mặt hàng xuất khẩu
chính của các SME hiện nay bao gồm chủ yếu các loại hàng, nhóm hàng sau:
- Hàng nông lâm, thủy hải sản chế biến và chưa chế biến

- Hàng thủ công, mỹ nghệ ( đồ gỗ trạm, khắc, hàng thêu ren, mây tre, hàng
mỹ nghệ …)
- Hàng công nghiệp nhẹ (dày dép, may mặc, thảm…)
Thật vậy, tuy chưa có sự tống kê riêng rẽ về tỷ lệ xuất khẩu các ngành hàng
xuất khẩu của khu vực SME nhưng để chứng minh cho điều đó xin được sử dụng
số liệu của các cuộc điều tra khảo sát được tiến hành giữa các Viện nghiến cứu
quản lý kinh tế Trung ương ( CIEM) và MPDF. Qua số liệu điều tra tại 457 SME
ddax chỉ ra rằng các doanh nghiệp này xuất khẩu chiếm 3/4 sản lượng của mình
(xem bảng 8). Điều này có nghĩa là các SME ngoài quốc doanh đã định hướng xuất
khẩu hơn các DNNN.
24
Bảng 6: Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của các SME
Ngành hàng xuất khẩu Tỷ trọng Xk/tổng số sản phẩm(%)
Các sản phẩm da
Hàng may mặc
Chế biến gỗ
Cao su nhựa
Các sản phẩm phi kim loại
Thực phẩm đồ uống
Các sản phẩm hóa chât
Các sản phẩm khác
85
80,5
75,1
75
73,2
63,2
20
74,4
Nguồn: CIEM

Mặc dù với số lượng 475 doanh nghiệp được chọn làm mẫu chiếm tỷ lệ
không lớn so với lương SME hiện nay, nhưng kết quả thông qua cuộc khảo sát đã
phản ánh phần nào về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của SME ở Việt Nam.
Điều đáng lưu ý trog trường hợp hải sản có thể coi là nhưng ngành hàng xuat
khẩu của các SME. Bảng 9, cho thấy rằng về hải sản khu vực quốc doanh chiếm
phàn lớn 73% xuất khẩu năm 1999 nhưng xuất khẩu của khu vực này lại tăng chậm
hơn các SME: 14% so với trên 50% của khu vực các SME. Điều đó khẳng định
rằng mặt hàng xuất khẩu của các SME ngày càng có hiệu qủa trong công tác xuất
khẩu.
Bảng 7: Xuất khẩu thủy sản của SME giai đoạn 1997-1999

25

×