Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận môn tổ chức bộ máy (Chính quyền địa phương)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.41 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay chúng ta đang nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương nhằm bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính
quyền địa phương, tổ chức hợp lý các cấp chính quyền địa phương, tăng cường
hiệu lực quản lý nhà nước ở địa phương trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Thuật ngữ “Chính quyền địa phương” thường được hiểu là những đơn vị
của chính quyền trực tiếp cung cấp dịch vụ cho công dân tại cấp trung gian thấp
và thấp nhất. Tại một số nước trên thế giới, các đơn vị chính quyền địa phương
đã có quyền tự trị từ rất lâu trước khi các quốc gia đó được thành lập với cơ cấu
tổ chức chính quyền như hiện nay và do đó, không cần sự phân cấp thấm quyền
từ cấp chính quyền cao hơn cho các đơn vị này. Tại một số nước có cơ cấu nhà
nước đơn nhất, chính quyền địa phương thi hành quyền lực của mình theo
nguyên tắc quyền lực của chính quyền cấp dưới do chính quyền Trung ương trực
tiếp ủy nhiệm, và cấp trung ương có thế bãi bỏ việc ủy nhiệm đó. Tại một số
nước thuộc hệ thống đơn nhất khác, chính quyền địa phương hoạt động theo
nguyên tắc thẩm quyền chung, và trên nguyên tắc được phép thực thi những
thẩm quyền không thuộc chính quyền Trung ương.
Khác với chế độ tự quản địa phương của một số nước, chính quyền địa
phương của Việt Nam là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước
thống nhất, bao gồm các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân
địa phương trực tiếp bầu ra và các cơ quan, tổ chức khác được thành lập trên cơ
sở các cơ quan quyền lực nhà nước này theo quy định của pháp luật nhằm quản
lý các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương, trên cơ sở nguyên tắc tập
trung dân chủ và kết hợp hài hoà giữa lợi ích nhân dân địa phương với lợi ích
chung của cả nước.
Với nội dung tiểu luận, tôi mong muốn góp phần làm rõ hơn về cơ cấu
chính quyền địa phương tại Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động của chính quyền địa phương Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
theo xu hướng chung và phù hợp với Hiến pháp 2013.
2


I. KHÁI NIỆM CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM
1. Khái niệm chung
Khái niệm chính quyền địa phương là khái niệm phái sinh từ khái niệm hệ
thống các cơ quan nhà nước ở địa phương. Khái niệm này được sử dụng khá phố
biến trong nhiều văn bản pháp luật của nhà nước. Là một khái niệm được sử
dụng nhiều trong tổ chức và hoạt động của nhà nước vào đời sống thực tế xã
hội, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào định nghĩa khái
niệm chính quyền địa phương bao gồm những thiết chế nào, mối quan hệ và cơ
chế hoạt động cụ thể của các bộ phận cấu thành. Xuất phát từ góc độ nghiên cứu
lý luận, tò góc độ thực tiễn hay cách thức tiếp cận vấn đề nghiên cứu của các
nhà khoa học, các nhà thực tiễn và quản lý tập trung vào 3 quan niệm như sau:
a) Chính quyền địa phương là khái niệm dùng chung để chỉ tất cả các cơ
quan nhà nước (mang quyền lực nhà nước) đóng trên địa bàn địa phương
b) Chính quyền địa phương gồm hai phân hệ cơ quan - cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương (Uỷ ban nhân dân)
c) Chính quyền địa phương bao gồm 4 phân hệ cơ quan tương ứng với 4
phân hệ cơ quan nhà nước tối cao ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Toà án
Nhân dân tối cao, Viện Kiếm sát nhân dân tối cao) là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân các cấp), cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương (Uỷ ban nhân dân các cấp), cơ quan tư pháp (Toà án nhân dân các
cấp) và cơ quan kiểm sát (Viện kiếm sát nhân dân các cấp).
2. Khái niệm chính quyền địa phưong trong các văn kiện, văn bản
pháp luật:
Trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam, khái niệm chính
quyền địa phương được sử dụng để chỉ tổ chức và hoạt động của hai cơ quan là
3
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Nghị quyết lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VIII) ngày 18 tháng 6 năm 1997 tại phần III, mục 4 về
tiếp tục cải cách hành chính nhà nước đối với chính quyền địa phương chỉ đề

cập tới việc kiện toàn củng cố Hội đồng nhân dân và Ưỷ ban nhân dân các cấp
và hướng cải cách tố chức và hoạt động của hai cơ quan này mà không đề cập
tới các cơ quan nhà nước khác trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa
phương. Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp 2013 thì chính quyền địa
phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn
vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định và căn cứ Luật Tố chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 chính quyền địa phương được tổ chức ở
ba cấp tương ứng đối với các đơn vị hành chính sau đây:
- Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh);
- Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện);
- Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật
định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng
cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và
4
pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và
thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Ngoài ra, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo
tình hình của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền
và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và các đoàn thể nhân dân động viên Nhân dân cùng Nhà nước thực hiện
các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.
II. CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM
1. Cấp xã:
Đây là chính quyền của các đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn, phường.
Ủy ban nhân dân cấp xã là cấp chính quyền địa phương cấp cơ sở, gần dân nhất
ở Việt Nam. Ủy ban nhân dân cấp xã có từ 04 đến 05 thành viên, gồm Chủ tịch,
02 Phó Chủ tịch, 01 Ủy viên quân sự và 01 Ủy viên công an. Người đứng đầu
Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Ủy ban nhân dân do do Hội đồng nhân dân
của xã, thị trấn hay phường đó bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín. Thông
thường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn hay phường sẽ đồng thời là một
Phó Bí thư Đảng ủy của xã, thị trấn hay phường đó.
Bộ máy giúp việc của Ủy ban nhân dân cấp xã có các công chức: Tư pháp
- Hộ tịch, Địa chính - Xây dựng, Tài chính – Kế toán, Văn phòng - Thống kê,
Văn hóa - Xã hội, Chỉ huy Trưởng quân sự, Trưởng công an.
2. Cấp huyện:
Đây là chính quyền của các địa phương cấp huyện, quận, thành phố trực
thuộc tỉnh, thị xã. Ủy ban nhân dân cấp huyện có từ 09 đến 13 thành viên, gồm
Chủ tịch, 02-03 Phó Chủ tịch và các ủy viên. Thường trực Ủy ban nhân dân cấp
huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký. Người đứng đầu Ủy
5
ban nhân dân cấp huyện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân, trên danh nghĩa là do Hội
đồng nhân dân huyện bầu ra. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện sẽ
đồng thời là một Phó Bí thư Huyện ủy.
Các cơ quan giúp việc của chính quyền địa phương cấp huyện thông
thường gồm các phòng, ban trực thuộc: Văn phòng UBND, Phòng Tài chính –
Kế hoạch, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Tài nguyên - Môi
trường, Phòng Kinh tế và Hạ tầng, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Phòng Tư pháp, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Văn hóa - Thông tin, Phòng
Y tế, Thanh tra huyện, Phòng Nội vụ, Phòng Văn hóa - thông tin,… Một số cơ

quan nhà nước ở cấp huyện như Chi cục Thuế, Chi cục Thống kê, Huyện đội,
Công an huyện, v.v không phải là cơ quan của chính quyền địa phương cấp
huyện mà là cơ quan của chính quyền Trung ương đặt tại huyện (đóng trên địa
bàn huyện).
3. Cấp tỉnh
Đây là chính quyền của các địa phương cấp tỉnh và thành phố trực thuộc
Trung ương, Ủy ban nhân dân có từ 11 đến 17 thành viên, gồm Chủ tịch, các
Phó Chủ tịch, 1 ủy viên thư ký và các ủy viên khác. Thường trực ủy ban Nhân
dân cấp tỉnh gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký. Người đứng
đầu chính quyền địa phương cấp tỉnh là Chủ tịch úy ban Nhân dân. Trên danh
nghĩa, vị trí này do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định bằng bầu cử theo hình
thức bỏ phiếu. Giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là các Sở, ngành tỉnh.
III. VAI TRÒ VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYÈN ĐỊA
PHƯƠNG VIỆT NAM
1. Vai trò
Chính quyền địa phương ở Việt Nam có vai trò hai mặt. Một mặt, với tư
cách là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước thống nhất, chính quyền địa
phương thay mặt nhà nước tổ chức quyền lực, thực thi nhiệm vụ quản lý trên
6
lãnh thố địa phương trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất trên lãnh thổ
Việt Nam. Mặt khác, chính quyền địa phương lại là cơ quan do nhân dân địa
phương lập ra (trực tiếp và gián tiếp) để thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương
nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân địa phương trên cơ sở các quy định của
Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Vai trò như vậy
của chính quyền địa phương được thể hiện tập trung về nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, của bộ máy nhà nước
nói chung. Trong đó, tập trung thống nhất là yếu tố có tính chủ đạo. Tư tưởng cơ
bản trong tố chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc đó là vừa bảo đảm sự
tập trung thống nhất, vừa phát huy vai trò chủ động tích cực của địa phương.
2. Mô hình:

Mô hình tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam thể hiện trên hai điểm
cơ bản sau:
a) Mỗi đơn vị hành chính thành lập hai loại cơ quan là Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân.
b) Giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương và giữa các
cấp chính quyền địa phương không có tính độc lập cao, tuy rằng trong quá trình
cải cách bộ máy nhà nước đã đẩy mạnh việc phân cấp quản lý cho các cấp chính
quyền địa phương. Nguyên tắc cơ bản và hàng đầu trong tố chức và hoạt động
của bộ máy chính quyền địa phương là tập trung dân chủ. Đây là điểm rất đáng
chú ý trong tổ chức chính quyền địa phương nước ta. Nó chứng tỏ rằng, chính
quyền địa phương Việt Nam không có “chủ quyền” trong việc thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Quy định ở Điều 7 của Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân thể hiện rõ hơn này khi ghi nhận trong hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước từ Chính phủ đến Uỷ ban nhân dân cấp xã có sự
chỉ đạo trong quản lý nhà nước từ trên xuống dưới. Đây chính là điểm khác về
bản chất so với chính quyền địa phương tự quản.
7
Do đó, có thế gọi là mô hình chính quyền địa phương nước ta là mô hình
chính quyền địa phương tập trung dân chủ.
IV. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
1. Một số ưu điểm:
- Từng bước sắp xếp, kiện toàn hợp lý hơn tổ chức, bộ máy theo hướng
tinh, gọn. số lượng đầu mối các bộ, ban, ngành giảm.
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, lề lối làm việc được quy
định cụ thể hơn, đã có sự điều chỉnh, bổ sung hợp lý, phân định rõ ràng hơn.
Chức năng, nhiệm vụ các bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục được hoàn thiện, khắc
phục cơ bản sự trùng lắp, dẫm đạp; các bộ được tồ chức theo mô hình quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực đã hoạt động ồn định, cơ chế phối hợp tốt hơn, hiệu lực, hiệu
quả được nâng lên, phân biệt rõ hơn chức năng quản lý nhà nứơc và quản lý sản

xuất kinh doanh, tách dần hoạt động hành chính với hoạt động các đơn vị kinh
tế, sự nghiệp và dịch vụ công.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhìn chung được nâng lên một
bước về trình độ lý luận chính trị, học vấn ,chuyên môn nghiệp vụ. Đa số cán bộ
công chức giữ gìn phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống, thích ứng dần với cơ
chế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Những tiến bộ đó đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của dân, do dân và
vì dân.
2. Một số tồn tại trong tổ chức, hoạt động của chính quyền địa
phưoug Việt Nam
Mô hình tổ chức bộ máy, hệ thống luật pháp chưa phân định thật rõ chính
quyền đô thị và chính quyền nông thôn, chưa phản ánh hết đặc điểm của chính
8
quyền đô thị, nhất là các đô thị lớn, kinh tế - văn hoá – xã hội phát triển nhanh.
Việc xác định chức năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và chức năng quản lý nhà nước, quản lý của chủ sở hữu của
các bộ, các địa phương còn nhận thức khác nhau, có nhiều sơ hở, hiệu quả thấp.
Mục tiêu tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu, biên chế một số bộ máy vẫn
có xu hướng tăng lên nhưng chất lượng cán bộ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Việc đào tạo theo chức danh cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế; cơ cấu và
chất lượng cán bộ, công chức còn bất cập. Một bộ phận cán bộ, công chức yếu
kém về tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân.
Thực hiện chủ trương phát huy dân chủ, đẩy mạnh phân cấp cho các cấp
chính quyền địa phương, các văn bản pháp luật liên quan đến chính quyền địa
phương được ban hành những năm vừa qua đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan chính quyền địa phương ở mỗi cấp.
Những giải pháp cụ thể của Luật như tăng cường cơ cấu tổ chức của
HĐND hay giảm số thành viên của UBND cấp xã, tăng cường chức năng giám
sát của HĐND hay tăng cường nguyên tắc tập thể trong hoạt động của UBND

“không đủ tầm để đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương”.
Vì thực tế, HĐND hoặc không sử dụng hết quyền năng của mình, các kỳ họp
chính thức, hiệu quả giám sát, thảo luận không cao hoặc có xu hướng “vượt rào”
muốn giao nhiều thẩm quyền hơn song lại không thực sự kiểm soát được UBND
một cách chặt chẽ.
Nhìn tổng thể, cho đến nay, Việt Nam vẫn đang áp dụng mô hình chính
quyền địa phương là “cánh tay nối dài” của nhà nước trung ương. Mô hình này
bảo đảm được tính thống nhất cao độ nhưng không thực sự phát huy được tính
sáng tạo, chủ động của địa phương.
9
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả, đổi mói phưong thức hoạt động
- Mô hình tổ chức chính quyền địa phương của nước ta hiện nay được tổ
chức theo nguyên tắc nào trong các mối quan hệ: giữa chính quyền trung ương
với chính quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau, giữa
Ủy ban nhân dân với Hội đồng nhân dân cùng cấp và với cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên (đối với cấp tỉnh là với Chính phủ) vẫn chưa được giải quyết về lý
luận và thực tiễn. Theo Điều 8 Hiến pháp năm 2013 xác định thì Nhà nước được
tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp
và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp
luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhưng các quy định của Hiến pháp
và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân lại thể hiện rõ tính tập
trung về trung ương, về cấp trên. Thực tế là trung ương và cấp trên không thể
nắm, không thể quản được địa phương. Còn địa phương và cấp dưới cũng không
có được quyền chủ động, phát huy sự sáng tạo, năng động trong việc giải quyết
kịp thời những vấn đề bức xúc của mình nên phải “xé rào” như một số địa
phương đã làm trong thời gian vừa qua. Cần nghiên cứu để giải quyết triệt để vấn
đề này. Do đó, cần thực hiện phân cấp cho chính quyền địa phương cần đồng bộ,
thẩm quyền đi đôi với trách nhiệm, phân cấp nhưng vẫn phải đảm bảo sự quản
lý tập trung, thống nhất của chính quyền Trung ương, phân cấp đi đôi với việc

tăng cường kiểm tra, giám sát của trung ương, với việc đề cao trách nhiệm của
người đứng đầu các cấp chính quyền địa phương.
- Cần có sự phân biệt Chính quyền địa phương giữa các vùng lãnh thổ,
nghiên cứu và giải quyết dứt điểm mô hình tổ chức chính quyền ở địa bàn nông
thôn và đô thị, chứ không thể tổ chức như nhau trong khi giữa hai địa bàn này có
nhiều khác nhau về điều kiện kinh tế, địa lý, dân cư, kết cấu hạ tầng, nhất là
thành phố trực thuộc trung ương còn có vị trí, vai trò của một trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hoá, khoa học v.v , có ảnh hưởng đối với cả một vùng, cũng như
10
đối với cả nước. Mạnh dạn phân cấp, phát huy vai trò quyết định và khả năng
chịu trách nhiệm trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nguồn lực, ngân sách, biên
chế cho chính quyền địa phương; giao đủ thẩm quyền và tạo cơ chế bảo đảm
thực quyền của HĐND các cấp nhưng đồng thời tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát;
- Việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ ở nước ta những năm vừa qua
chưa được giải quyết thoả đáng về lý luận và thực tế. Vì thế nên mới có chuyện
khi thì ồ ạt sáp nhập tỉnh (năm 1980 cả nước có 36 tỉnh, ba thành phố trực thuộc
trung ương và một đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo) để rồi sau đó lần lượt chia tách
tỉnh trả lại gần như trước khi nhập tỉnh. Việc xác định vị trí, tính chất và vai trò
của từng loại đơn vị hành chính cũng là vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa quyết
định trong việc tổ chức hợp lý các cấp chính quyền địa phương. Cuối những
năm 1970 đến giữa những năm 1980 chúng ta đã có chủ trương không đúng khi
xác định huyện là địa bàn chiến lược nên đã ban hành một loạt văn bản về xây
dựng huyện và tăng cường cấp huyện, trong khi đơn vị hành chính này một thời
gian dài chỉ là “cấp trung gian”. Do không xác định đúng các đơn vị hành chính
nên chúng ta không giải quyết được vấn đề tổ chức mấy cấp chính quyền ở tỉnh,
mấy cấp ở thành phố, cấp nào có Hội đồng nhân dân, còn cấp nào chỉ có Ủy ban
nhân dân. Đây là vấn đề được thảo luận nhiều từ khi soạn thảo Hiến pháp 1992
đến nay vẫn chưa giải quyết xong, tương tự Hiến pháp 1992 thì Hiến pháp 2013
không quy định về vấn đề rất quan trọng này mà dành cho Luật quy định.

Cần nghiên cứu, quy định thêm một cấp đơn vị hành chính có tính chất vùng
hoặc miền gồm một số tỉnh, thành phố để tổ chức bộ máy hành chính gọn nhẹ
nhưng có thẩm quyền cụ thể, đại diện cho Chính phủ để kịp thời chỉ đạo và kiểm
soát hoạt động chính quyền địa phương (như mô hình của ba Ban Chỉ đạo Tây
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ). Trên thế giới, ở các nhà nước đơn nhất cũng có
đơn vị hành chính này, như Pháp, Italia cũng có đơn vị hành chính vùng, có
chính quyền cấp vùng để đại diện cho Chính phủ.
11
- Nghiên cứu xây dựng và ban hành các văn bản mới, sửa đổi, bổ sung các
văn bản pháp luật hiện hành bảo đảm thống nhất, đồng bộ, khả thi, nhất là các
nội dung liên quan đến thẩm quyền quyết định của HĐND và UBND, tạo điều
kiện thuận lợi để HĐND, UBND thực thi đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, đạt chất
lượng cao và có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, đẩy mạnh kiện toàn cơ quan
Thường trực HĐND và các Ban của HĐND ở cả ba cấp để bảo đảm đủ về số
lượng, nâng cao chất lượng hoạt động; bố trí Trưởng ban, Phó Trưởng ban
HĐND cấp tỉnh và Trưởng ban HĐND cấp huyện hoạt động chuyên trách.
- Đối mới, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước địa phương nói riêng và
bộ máy hành chính nói chung không chỉ là vẩn đề cơ cấu tố chức bộ máy, mà
còn là cơ chế hoạt động chế độ trách nhiệm, lề lối làm việc, các mối quan hệ
trên dưới, ngang dọc, đặc biệt hiện nay là tính công khai minh bạch, đảm bảo
chính quyền trong sạch. Có lẽ không một lĩnh vực nào mà bệnh quan liêu hoá,
lạm quyền lực có nhiều nguy cơ xuất hiện và phát triển như trong lĩnh vực hành
pháp. Do vậy, luật pháp luôn phải đưa ra những biện pháp pháp lý về ngăn ngừa
các hiện tượng trên. Một trong những biện pháp quan trọng là phải đảm bảo cho
các hoạt động hành pháp thật công khai. Tính công khai trong hoạt động hành
pháp có tác dụng loại bỏ mọi “góc tối” để cho mỗi người dân dễ dàng kiểm tra,
giám sát các hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, kịp thời phát
hiện các biểu hiện quan liêu, lạm dụng quyền lực, các con bệnh tham ô, hối lộ,
ức hiếp quần chúng lao động. Công khai hoá các hoạt động của các cơ quan nhà
nước, cũng như có thái độ tích cực, trân trọng và nghiêm túc đối với các đơn từ,

khiếu nại tố cáo và kiến nghị của công dân đối với các hoạt động của các cơ
quan, các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước là những điều kiện căn bản để
đảm bảo tính dân chủ của các hoạt động quản lý nhà nước. Từ đó có thể thấy
rằng, mặc dù trong lĩnh vực hành pháp, yếu tố tập trung luôn được quán triệt và
chi phối tất cả các hoạt động, nhưng không vì thế mà mất đi cơ sở dân chủ của
nó, một khi nó được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của chính đông đảo chúng
12
thông qua lăng kính “công khai”. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trong
điều kiện cụ thể của nước ta không còn thuần tuý là công việc lý luận mà đã và
đang trở thành các công việc thực tiễn. Mô hình nhà nước ấy đang đòi hỏi phải
cải cách một cách căn bản các thiết chế quyền lực của Nhà nước trên tất cả các
phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều căn bản là các biện pháp,
phương hướng cải cách ấy phải được tiến hành đồng bộ, đảm bảo tính hài hoà,
phù hợp với nhau giữa các loại cơ quan trong bộ máy nhà nước thống nhất, đảm
bảo xây dựng một nền hành chính phù hợp với tình hình mới của đất nước hiện
nay và cho tương lai.
13
KẾT LUẬN
Hệ thống Chính quyền địa phương có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Trong nhiều năm qua, vấn đề đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của Chính quyền địa phương đã được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm, một số chủ trương lớn đã được đặt ra và tổ chức thực
hiện như: chủ trương cải cách hành chính đối với các nội dung: thể chế; bộ máy;
thủ tục hành chính; đội ngũ cán bộ, công chức; hiện đại hóa nền hành chính, tài
chính công); phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trên một số lĩnh vực;
thí điểm không tố chức HĐND huyện, quận, phường đã đạt một số kết quả
nhất định, tuy nhiên việc tiếp tục nghiên cứu đổi mới mô hình tổ chức và
phương thức hoạt động của Chính quyền địa phương để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội
là luôn cần thiết, để tiếp tục đưa ra phương hướng, giải pháp hợp lý cho chính

quyền địa phương Việt Nam hiện nay./.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013;
2. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;
3. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương - sự phát triển qua bốn bản
hiến pháp và vấn đề đổi mới, PGS. TS. Trương Đắc Linh - Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
4. Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh,
Ngân hàng Phát triển Châu Á;
5. Tài liệu của một số anh, chị khóa Quản lý Hành chính công khóa 16.
15

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. KHÁI NIỆM CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM 3
1. Khái niệm chung 3
2. Khái niệm chính quyền địa phưong trong các văn kiện, văn bản pháp luật: 3
II. CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM 5
1. Cấp xã: 5
2. Cấp huyện: 5
3. Cấp tỉnh 6
III. VAI TRÒ VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYÈN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM 6
1. Vai trò 6
2. Mô hình: 7
IV. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG 8
1. Một số ưu điểm: 8
2. Một số tồn tại trong tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phưoug Việt Nam 8
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả, đổi mói phưong thức hoạt động 10
KẾT LUẬN 14

TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
16
MỤC LỤC 16
16

×