Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Cơ sở lý luận về tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.11 KB, 30 trang )

Cơ sở lý luận về tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp
1.
Những vấn đề chung về quản lý doanh nghiệp.
1.1.
Quản lý và quản lý doanh nghiệp.
* Khái niệm:
Hiện nay có nhiều cách giải thích thuật ngữ quản lý. Có quan niệm cho rằng
quản lý là hành chính, là cai trị. Có quan niệm khác lại cho rằng quản lý là điều
hành, điều khiển, chỉ huy. Các cách nói này không có gì khác nhau về nội dung
mà chỉ khác nhau ở chỗ dùng thuật ngữ.
Quản lý đợc hiểu theo hai góc độ: Một là góc độ tổng hợp mang tính chính
trị xã hội; hai là góc độ mang tính thiết thực. Cả hai góc độ này đều có cơ sở
khoa học và thực tế.
Quản lý theo góc độ chính trị, xã hội là sự kết hợp giữa tri thức và lao động.
Lịch sử xã hội loài ngời từ thời kỳ mông muội đến thời đại văn minh hiện đại
ngày nay cho ta thấy rõ trong sự phát triển đó có 3 yếu tố đợc nổi lên rõ nét là tri
thức, lao động và quản lý. Trong ba yếu tố này, quản lý là sự kết hợp giữa tri thức
và lao động. Nếu kết hợp tốt thì xã hội phát triển tốt đẹp. Nếu sự kết hợp không
tốt thì sự phát triển sẽ chậm lại hoặc rối ren. Sự kết hợp đó đợc biểu hiện trớc hết
ở cơ chế quản lý, ở chế độ, chính sách, biện pháp quản lý và ở nhiều khía cạnh
tâm lý xã hội, nhng tựu trung lại là quản lý phải biết tác động bằng cách nào đó để
ngời bị quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn khởi, đem hết năng lực và trí tuệ của mình
để sáng tạo ra lợi ích cho mình, cho Nhà nớc và cho xã hội.
Theo góc độ hành động, góc độ quy trình công nghệ của tác động thì quản lý
là điều khiển. Theo khái niệm này quản lý có ba loại hình. Các loại hình này đều
có xuất phát điểm giống nhau là do con ngời điều khiển nhng khác nhau về đối t-
ợng.
- Loại hình thứ nhất là việc con ngời điều khiển các vật hữu sinh không phải
con ngời để bắt chunsg phải thực hiện theo ý chí của ngời điều khiển. Loại hình
này đợc gọi là quản lý sinh học, thiên nhiên, môi trờng, Ví dụ nh các nhà khoa
học làm công tác lai tạo giống vật nuôi, cây trồng; các nhà sản xuất nông sản thực


phẩm,
-
Loại hình thứ hai là việc con ngời điều khiển vật vô tri, vô giác để bắt chúng phát
triển và thực hiện theo ý chí của ngời điều khiển. Loại hình này đợc gọi là quản lý
kỹ thuật. Ví dụ việc điều khiển máy tính, vận hành các loại máy móc thiết bị,
-
Loại hình thứ ba là việc con ngời điều khiển con ngời (quản lý nhà nớc, Đảng,
đoàn thể, tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá, ). Đó là quản lý xã hội. Quản lý xã
hội đợc Các Mác coi là chức năng đặc biệt đợc sinh ra từ tính chất xã hội hoá của
lao động.
Từ những vấn đề trên, ta có thể hiểu: Quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều
khiển của chủ thể quản lý lên đối tợng và khách thể quản lý nhằm đạt đợc mục
tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trờng.
Với định nghĩa này, quản lý phải bao gồm các yếu tố sau:
- Phải có một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và phải có một
đối tợng quản lý tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý tạo ra. Tác động có
thể chỉ là một lần mà cũng có thể là nhiều lần liên tục.
- Phải có mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả đối tợng và chủ thể. Mục
tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.
- Chủ thể phải thực hành việc tác động lên đối tợng quản lý và khách thể
quản lý. Chủ thể có thể là một ngời hay nhiều ngời, còn đối tợng quản lý có thể là
ngời (một hay nhiều ngời) hoặc giới vô sinh (máy móc, thiết bị, đất đai, thông tin,
) hoặc giới sinh vật (vật nuôi, cây trồng, ).
Khi nói đến quản lý là nói đến sự tác động hớng đích. Tác động này nhằm
vào một đối tợng nhất định để đạt đợc mục tiêu đề ra. Hoạt động quản lý là một
hoạt động chủ quan có ý thức, có tính năng động sáng tạo, linh hoạt của một con
ngời, một tập thể ngời quản lý.
Từ định nghĩa về quản lý, có thể dễ dàng suy ra đợc khái niệm về quản lý
doanh nghiệp: Quản lý doanh nghiệp là quá trình tác động một cách có hệ
thống, có tổ chức, có hớng đích của ngời đại diện doanh nghiệp lên tập thể

những ngời lao động trong doanh nghiệp, nhằm sử dụng mọi tiềm năng và cơ
hội để thực hiện một cách tốt nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, nhằm đạt đợc mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thông lê xã
hội .
* Phân biệt quản lý và lãnh đạo:
Đây là hai thuật ngữ sử dụng cho các hệ thống có con ngời ở trong, chúng
không đồng nhất và đợc giải thích tuỳ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu: cả hai thuật
ngữ đều hàm ý tác động và điều khiển, nhng khác nhau về mức độ và phơng pháp
tiến hành.
Lãnh đạo (hớng dẫn) là quá trình định hớng dài hạn cho chuỗi các tác động
của chủ thể quản lý.
Quản lý là quá trình chủ thể tổ chức liên kết và tác động lên đối tợng bị quản
lý để thực hiện các định hớng tác động dài hạn.
Lãnh đạo là quản lý những mục tiêu rộng hơn, xa hơn, khái quát hơn; còn
quản lý là lãnh đạo trong trờng hợp mục tiêu cụ thể hơn và chuẩn xác hơn. Ngời
lãnh đạo là ngời tạo ra một viễn cảnh để có thể tập hợp đợc mọi ngời; còn ngời
quản lý là ngời tập hợp đợc nhân tài vật lực để biến viễn cảnh thành hiện thực.
Cũng có lúc ngời quản lý cần phải làm ngời lãnh đạo và ngựơc lại.
Việc lãnh đạo và quản lý do chủ thể quản lý tiến hành. Chủ thể có thể là duy
nhất (một phân hệ, một lực lợng, một ngời, v.v) mà cũng có thể là không duy
nhất (gồm từ hai phân hệ trở lên, v.v), nhng để bảo đảm cho quá trình quản lý có
hiệu quả cao, việc lãnh đạo và quản lý phải thống nhất hữu cơ với nhau, hoà nhập
vào nhau. Điều này trong thực tế không phải lúc nào cũng đợc thực hiện một cách
trót lọt và trọn vẹn.
1.2.
Sự cần thiết phải có hoạt động quản lý doanh nghiệp.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động thực tiễn của con ngời đợc
biểu hiện thành hai mặt tự nhiên và xã hội. Trong quá trình tác động vào tự nhiên,
từng hành động đơn lẻ của con ngời thờng chỉ mang lại những kết quả hạn chế.
Để cải tạo và chinh phục tự nhiên, tất yếu đòi hỏi con ngời phải liên kết lại với

nhau cùng hành động. Những tác động tơng hợp của nhiều ngời vào cùng đối tợng
tự nhiên thờng mang lại những kết quả cộng hởng và có tính tổng hợp.
Các Mác đã từng phân tích, mỗi con ngời riêng lẻ chỉ đơn độc tác động vào
tự nhiên. Không thể có huy vọng thoát khỏi sự ràng buộc và lệ thuộc vào tự nhiên.
Chỉ có thể chế ngự đợc tự nhiên khi ngời ta biết kết hợp các hành động đơn lẻ lại
với nhau để cùng hớng theo một ý đồ thống nhất.
Ngời quan hệ với tự nhiên, con ngời thờng xuyên tác động lẫn nhau, sự tác
động này diễn ra theo nhiều chiều và rất đa dạng. Quá trình tác động lẫn nhau
buộc ngời ta phải liên kết với nhau cùng hành động vì một mục tiêu chung và bảo
đảm lợi ích chung của mỗi ngời.
Sự thoả hiệp lợi ích cả theo nghĩa tích cực và nghĩa tiêu cực là động cơ gắn
kết hành động của con ngời lại với nhau.
Đây là một trong những tính quy định khi xem xét bản chất hoạt động thực
tiễn của con ngời trong xã hội. Chính vì vậy, Các Mác đã nói Xét về bản chất,
con ngời là tổng hoà các mối quan hệ. Hành động của mỗi con ngời không chỉ là
kết quả chủ quan của mỗi ngời mà nó còn là kết quả tổng hợp của các quan hệ xã
hội.
Nh vậy, xét cả về mặt tự nhiên cũng nh xã hội của hoạt động sản xuất, sự liên
kết phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau trong quá trình hoạt động của con ngời là
một đòi hỏi cần thiết để hoạt động có hiệu quả.
Quá trình liên kết hoạt động thực tiễn của con nguời làm cho hoạt động của
họ mang tính tổ chức. Có thể hiểu tổ chức là một tập hợp mà trong đó mỗi hành
động của con ngời phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định, chịu sự chi
phối ràng buộc có tính quy ớc nhất định.
Do đó sự xuất hiện của các tổ chức nh là một đòi hỏi tất yếu trong đời sống
xã hội loài ngời. Đặc biệt trong hoạt động sản xuất, do tính chất phức tạp và đa
dạng trong các quan hệ con ngời với tự nhiên, giữa ngời với ngời, tính tổ chức và
sự xuất hiện tổ chức trong hoạt động này càng đặc biệt quan trọng.
Sự ra đời của các hình thức tổ chức trong hoạt động sản xuất là một đòi hỏi
tất yếu khách quan. Song sự xuất hiện các hình thức tổ chức bao giờ cũng gắn với

một chức năng nhất định, nhằm vào một mục tiêu nhất định.
Tất nhiên, thực tế tổ chức chỉ có thể phát huy thực tế sức mạnh của nó trên cơ
sở có sự quản lý điều hành thống nhất. Vì vậy, sự hợp tác của những lao động có ý
thức tất yếu đòi hỏi phải có sự điều khiển, giống nh một giàn nhạc phải có nhạc tr-
ởng. Tính tất yếu của quản lý đ ợc bắt nguồn từ chính ý nghĩa đó.
Thực chất của quản lý doanh nghiệp là quản lý con ngời yếu tố cơ bản của
lực lợng sản xuất trong quá trình sử dụng t liệu lao động tác động lên đối tợng
lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quản lý chỉ có thể đạt hiệu quả cao
khi con ngời giỏi nghề nào đợc làm nghề đó, đợc tạo điều kiện để phát huy đầy đủ
tính chủ động sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Khi quy mô sản xuất càng mở rộng, trình độ khoa học kỹ thuật phát triển
ngày càng cao, thì công tác quản lý càng phức tạp, đòi hỏi các nhà quản lý phải
không ngừng đợc nâng cao cả về năng lực và trình độ.
2.
Nội dung tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp
Quản lý là hoạt động phức tạp nhiều mặt của con ngời. Quản lý chỉ đợc thực
hiện trong một hệ thống quản lý cụ thể. Hệ thống quản lý, đó chính là bộ máy
quản lý. Bộ máy quản lý là tổng hợp các bộ phận (đơn vị, cá nhân) khác nhau có
mối quan hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đợc chuyên môn hoá và có những
trách nhiệm quyền hạn nhất định, đợc bố trí theo những cấp, những khâu khác
nhau, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý và phục vụ mục đích chung
xác định của hệ thống. Bộ máy quản lý là hình thức phân công nhiệm vụ trong
lĩnh vực quản lý, có tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động của hệ thống. Bộ
máy quản lý, một mặt phản ánh cơ cấu trách nhiệm của mỗi bộ phận, mỗi ngời
trong hệ thống quản lý, mặt khác nó có tác động tích cực trở lại đến việc phát
triển của toàn hệ thống quản lý.
Hệ thống bị quản lý là đối tợng mà sự tác độngcủa bộ máy quản lý hớng vào
nhằm mục đích tăng thêm cho nó những hình thức cụ thể, chỉ đạo hoạt động của
nó để đạt đợc kết quả định trớc. Giữa hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý có
mối quan hệ qua lại rất chặt chẽ. Hệ thống bị quản lý không chủ chịu sự tác động

có hớng đích của hệ thống quản lý mà nó còn phát triển theo quy luật vốn có của
nó. Do đó hệ thống quản lý phải đợc tổ chức cho phù hợp với đối tợng quản lý mà
nó phụ trách, điều hành.
Tổ chức bộ máy quản lý là quá trình xác định các chức năng, các bộ phận tạo
thành một bộ máy quản lý nhằm thực hiện đợc các chức năng quản lý.
2.1.
Các chức năng và lĩnh vực trong quản lý doanh nghiệp.
Quản lý doanh nghiệp bao gồm nhiều nội dung và nhiều cách tiếp cận khác
nhau, do vậy phải phân chia, quy nạp vấn đề quản lý thành những khái niệm nhất
định để có đợc tiếng nói chung. Căn cứ vào quá trình quản lý, ngời ta phân chia
vấn đề quản lý doanh nghiệp thành các chức năng quản lý. Căn cứ vào các nội
dung quản lý, ngời ta phân chia vấn đề quản lý doanh nghiệp thành các lĩnh vực
quản lý.
Chức năng quản lý (phân loại chức năng quản lý theo quá trình quản lý):
Chức năng quản lý là những hoạt động riêng biệt của quản trị, thể hiện những ph-
ơng hớng tác động của quản trị gia đến các lĩnh vực quản trị doanh nghiệp.
Lĩnh vực quản lý (phân loại chức năng quản lý theo nội dung quản lý): Lĩnh
vực quản lý đợc hiểu nh các hoạt động quản trị khi nó đợc thiết lập và sắp xếp theo
nội dung quản lý gắn liền với các bộ phận của doanh nghiệp, có ngời chỉ huy và đ-
ợc phân cấp phân quyền trong việc ra các quyết định quản lý.
Nếu các chức năng quản lý là các hoạt động trong một quá trình quản lý thì
các lĩnh vực quản lý là các tổ chức để thực hiện các hoạt động kinh doanh cụ thể
gắn với quá trình kinh doanh của từng doanh nghiệp.
2.1.1.
Các chức năng quản lý.
Khái niệm chức năng quản lý gắn liền với sự xuất hiện và tiến bộ của phân
công hợp tác lao động trong một quá trình sản xuất của một tập thể ngời lao
động.
Hoạt động quản trị đã ra đời từ khi nền sản xuất là thủ công cá thể. Nhng
ngay cả đến khi con ngời đã tổ chức các nhà máy khổng lồ, đạt đợc các tiến bộ to

lớn về kỹ thuật nh chế tạo đầu máy xe lửa, sử dụng điện năng thì khoa học quản
lý vẫn cha đợc quan tâm. Phải đến đầu thế kỷ 20, những nghiên cứu về khoa học
quản lý mới đa ra đợc một cách có hệ thống cách phân loại các chức năng quản
trị. Bản thân các cách phân loại của các nhà khoa học hàng đầu theo thời gian
cũng khác nhau và họ đa ra nhiều đề xuất về nội dung và phân loại các chức năng
quản lý. Ngời đầu tiên cũng nh thành công nhất trong lĩnh vực này là Henry
Fayol. Trong cuốn sách quản trị công nghiệp và tổng quát viết năm 1916, Fayol
chia quá trình quản trị của doanh nghiệp thành 5 chức năng và đợc mệnh danh là
những yếu tố Fayol. Đó là:
Chức năng dự kiến (hoạch định): Thờng đợc coi là chức năng đầu tiên trong
tiến trình quản trị. Đó là việc dự đoán trớc có cơ sở khoa học, sự phát triển có thể
xảy ra của các quá trình, các hiện tợng, xây dựng thành chơng trình hành động
(một kế hoạch nhất định) nhằm xác định rõ: sản xuất cái gì? sản xuất bằng cách
nào? bán cho ai? với nguồn tài chính nào? Nh vậy hoạch định là việc xác định các
mục tiêu và mục đích mà tổ chức phải hoàn thành trong tơng lai và quyết định
cách thức để đạt đợc mục tiêu đó.
Chức năng tổ chức: Tổ chức là quá trình tạo ra một cơ cấu các mối quan hệ
giữa các thành viên, thông qua đó cho phép họ thực hiện các kế hoạch và hoàn
thành các mục tiêu của tổ chức. Chức năng này bao gồm việc thiết lập một cấu
trúc của tổ chức, trang bị tất cả những gì cần cho hoạt động của doanh nghiệp nh
vốn, máy móc, thiết bị, lao động, nguyên vật liệu, kết hợp, liên kết các yếu tố
sản xuất, các bộ phận riêng rẽ trong doanh nghiệp với nhau thành một hệ thống.
Bằng cách thiết lập một tổ chức hoạt động hữu hiệu, các nhà quản trị có thể phối
hợp tốt hơn các nguồn lực.
Chức năng phối hợp: Chức năng này giúp cho tất cả các hoạt động của
doanh nghiệp đợc nhịp nhàng, ăn khớp, đồng điệu với nhau nhằm tạo ra sự thuận
tiện và hiệu quả.
Chức năng chỉ huy: Sau khi đã hoạch định, tạo ra một tổ chức và phối hợp
các hoạt động, các nhà quản trị phải chỉ huy lãnh đạo tổ chức. Đó là việc đa ra và
truyền đạt các chỉ thị, truyền đạt thông tin đến cho mọi ngời để họ hoàn thành

những nhiệm vụ cần thiết, biến khả năng thành hiện thực.
Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là một chức năng có liên quan đến mọi cấp
quản lý để đánh giá đúng kết quả hoạt động của hệ thống, đo lờng các sai lệch
nảy sinh trong quá trình hoạt động so với các mục tiêu và kế hoạch đã định.
Hoạch định hớng dẫn việc sử dụng các nguồn lực để hoàn thành các mục
tiêu, còn kiểm tra xác định xem chúng hoạt động có phù hợp với mục tiêu và kế
hoạch hay không.
Mục đích của kiểm tra nhằm bảo dảm các kế hoạch thành công, phát hiện kịp
thời những sai sót, tìm ra những nguyên nhân và biện pháp sửa chữa kịp thời
những sai sót đó, bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ta nhịp nhàng,
liên tục và hiệu quả.
Kiểm tra là tai mắt của quản lý. Vì vậy cần tiến hành thờng xuyên và kết hợp
linh hoạt nhiều hình thức kiểm tra.
Ngoài Henry Fayol còn có các chuyên gia khác nhau đa ra những hệ thống
các chức năng khác nhau. Theo các tác giả tại trờng Đảng cao cấp Liên Xô (cũ)
thì có 6 chức năng: soạn thảo mục tiêu, kế hoạch hoá, tổ chức, phối hợp, động
viên, kiểm tra. Theo tài liệu huấn luyện cán bộ quản lý của UNESCO ngời ta nêu
lên 8 chức năng: xác định nhu cầu, thẩm định và phân tích dữ liệu, xác định mục
tiêu, kế hoạch hoá , triển khai công việc, điều chỉnh, đánh giá, sử dụng liên hệ ng-
ợc và tái xác định các vấn đề cho quá trình quản lý tiếp theo.
ở nớc ta, trong các quá trình quản lý, ngời ta đã sử dụng các hệ thống phân
loại các chức năng quản lý nêu trên. Có thể khái quát lại thành một số chức năng
cơ bản sau: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá.
Tất cả các chức năng quản lý trên tác động qua lại với nhau và quy định lẫn
nhau. Sự phân loại một cách khoa học các chức năng quản lý cho phép thực hiện
đợc ở phạm vi rộng, sự phân công lao động một cách hợp lý dựa vào việc chia nhỏ
quá trình quản lý thành những hành động, thao tác quản lý. Sự phân loại nh thế
còn giúp cho việc tiêu chuẩn hoá và thống nhất hoá các quá trình quản lý, tạo điều
kiện áp dụng những kinh nghiệm tiên tiến trong lao động quản lý, tạo điều kiện để
đa các phơng tiện kỹ thuật hiện đại vào thực tiễn quản lý.

2.1.2.
Lĩnh vực quản lý.
Đây là sự phân loại chức năng quản lý theo nội dung quản lý. Lĩnh vực quản
lý trong doanh nghiệp đợc hiểu nh các hoạt động quản lý khi đợc sắp xếp trong
một bộ phận nào đó. ở các bộ phận này có ngời chỉ huy và liên quan đến việc ra
các quyết định quản trị.
Lĩnh vực quản lý đợc phân định phụ thuộc vào nhiều yếu tố: truyền thống
quản trị, các yếu tố xã hội và cơ chế kinh tế, quy mô cũng nh đặc điểm kinh tế
kỹ thuật của doanh nghiệp. Nó gắn liền với mỗi quốc gia, mỗi vùng cụ thể và sự
tiến bộ về nhận thức khoa học quản lý.
C thể nói lĩnh vực quản lý chính là sự phân chia chức năng quản lý theo nội
dung tác động.
Về cơ bản, các lĩnh vực quản lý trong doanh nghiệp gồm:
* Lĩnh vực vật t: Nhiệm vụ của cung ứng vật t là bảo đảm cung cấp đầy đủ và
đồng bộ về số lợng, chủng loại, đúng chất lợng, đúng kỳ hạn, đúng địa điểm với
chi phí ít nhất. Nội dung công việc cung ứng vật t bao gồm: Phát hiện nhu cầu vật
t, tổ chức mua sắm vật t, tổ chức cung cấp vật t, tổ chức dự trữ và bảo quan vật t.
..
Ngời ta thờng sử dụng phơng pháp quy hoạch tuyến tính, phơng pháp dựa trên
lý thuyết về dự trữ, phơng pháp PERT, hay kiểu cung ứng đúng kỳ hạn của Nhật
để điều khiển côngviệc cung ứng vật t.
* Lĩnh vực sản xuất: Sản xuất là việc sử dụng con ngời lao động để tác động
lên yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất (vật chất, tài chính, thông tin) để làm ra
các sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với nhu cầu của thị trờng. Bao gồm toàn bộ các
hoạt động có tính chất công nghiệp trên cơ sở phối hợp các yếu tố lao động, t liệu
lao động và đối tợng lao động đã có để chế biến các sản phẩm hàng hoá và thực
hiện các dịch vụ. Cụ thể nh: Nghiên cứu thiết kế loại sản phẩm định sản xuất (căn
cứ vào nhu cầu của thị trờng) về các mặt nguyên lý cấu tạo, giải pháp cấu tạo, tính
năng kỹ thuật, chất lợng sử dụng. Để nghiên cứu ở bớc này, cần nắm vững khái
niệm chu kỳ sống (vòng đời) của sản phẩm; Lựa chọn công nghệ sáng tạo sản

phẩm; Lựa chọn loại hình sản xuất bao gồm các loại sau: sản xuất đơn chiếc (theo
đơn đặt hàng), sản xuất hàng loạt, sản xuất theo dây chuyền liên tục; Tổ chức lao
động và bộ máy quản lý: Tổ chức kiểm tra sản xuất và kiểm tra chất lợng, tổ chức
cung ứng và dự trữ cho dây chuyền sản xuất, điều hành quá trình sản xuất theo
thiết kế và quy trình đã định.
Nhiệm vụ: hoạch định chơng trình; xây dựng kế hoạch sản xuất; điều khiển
quá trình chế biến; kiểm tra chất lợng; giữ gìn bản quyền, bí quyết, kiểu dáng
và phát huy sáng chế phát minh của mọi thành viên.
* Lĩnh vực marketing: gồm các nhiệm vụ nh : Thu thập các thông tin về thị
trờng, hoạch định chính sách sản phẩm, hoạch định chính sách giá cả, hoạch định
chính sách phân phối, hoạch định chính sách hỗ trợ tiêu thụ.
* Lĩnh vực nhân sự: bao gồm các nhiệm vụ sau: Lập kế hoạch nhân sự, tuyển
dụng nhân sự, bố trí nhân sự, đánh giá nhân sự, phát triển nhân viên (đào tạo, bồi
dỡng, đề bạt), thù lao, quản lý nhân sự thông qua hồ sơ dữ liệu nhân sự, qua thống
kê hoạt động của nhân viên, và hỗ trợ đời sống.
* Lĩnh vực kỹ thuật: bao gồm tất cả những công việc liên quan đến chuẩn bị
kỹ thuật cho sản xuất, chuyển giao công nghệ, quản lý quy phạm, quy trình kỹ
thuật, tham gia và trực tiếp xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật, quản lý máy móc, thiết
bị, nghiên cứu phát triển kỹ thuật, ứng dụng phơng pháp công nghệ mới, thiết kế
sản phẩm mới, đề ra chiến lợc công nghệ, xây dựng các định mức tiêu hao thiết bị,
năng lợng, vật t, ..
* Lĩnh vực tài chính kế toán:
Lĩnh vực tài chính gồm các nội dung sau: tạo vốn, sử dụng vốn, quản lý vốn
(chủ yếu là quản lý sự lu thông, thanh toán và các quan hệ tín dụng).
Lính vực kế toán gồm các nội dung: kế toán sổ sách, tính toán chi phí kết
quả, xây dựng các bảng cân đối, tính toán lỗ lãi, thẩm định kế hoạch, thống kê,
kiểm tra việc tính toán, bảo hiểm, thuế.
* Lĩnh vực nghiên cứu và phát triển:
Lĩnh vực nghiên cứu và phát triển gồm các nhiệm vụ sau: thực hiện các
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, đa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào

ứng dụng và thẩm định hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật đợc áp dụng.
* Lĩnh vực tổ chức và thông tin:
Gồm các nhiệm vụ sau:
- Lĩnh vực tổ chức: Tổ chức các sdự án, phát triển và cải tiến bộ máy tổ chức
cho doanh nghiệp, tổ chức tiến trình hoạt động toàn bộ doanh nghiệp.
- Lĩnh vực thông tin: Xây dựng kế hoạch về các thông tin liên quan cho
doanh nghệp, chọn lọc và xử lý các thông tin, kiểm tra thông tin và giám sát thông
tin.
* Lĩnh vực hành chính pháp chế và các dịch vụ chung:
Bao gồm: thực hiện các mối quan hệ pháp lý trong và ngoài doanh nghiệp, tổ
chức các hoạt động quần chúng trong doanh nghiệp, các hoạt động hành chính và
phúc lợi doanh nghiệp.
Sự phân chia trên đây chỉ mang tính khái quát, trên thực tế quản trị, các lĩnh
vực đợc tiếp tục chia nhỏ nữa cho đến các công việc, nhiệm vụ quản trị cụ thể;
mặt khác có bao nhiêu lĩnh vực quản trị còn phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ
thuật của từng doanh nghiệp.
2.1.3.
Mối quan hệ giữa phân loại theo chức năng và theo các lĩnh vực quản trị.
-
Mục đích của sự phân loại theo chức năng là bảo đảm quán triệt các yêu cầu của
khoa học quản trị, nó đảm bảo cho bất kỳ một hoạt động quản trị nào cũngđều đ-
ợc tiến hành theo một trình tự chặt chẽ. Đó là cơ sở để phân tích, đánh giá tình
hình quản trị tại một doanh nghiệp để từ đó tìm cách tháo gỡ. Thực chất của việc
phân loại theo chức năng là sự quán triệt những nguyên lý của khoa học quản lý
vào quản lý doanh nghiệp.
-
Mục đích của sự phân loại theo lĩnh vực quản lý là: Trớc hết nó chỉ ra tất cả các
lĩnh vực cần phải đợc tổ chức thực hiện quản trị trong một doanh nghiệp, đây là
một căn cứ quan trọng để thiết lập bộ máy quản lý doanh nghiệp. Phân loại các
lĩnh vực quản lý phù hợp với tình hình kinh doanh còn là căn cứ quan trọng để

tuyển dụng, bố trí và sử dụng các quản trị viên. Phân loại theo lĩnh vực quản lý
còn là cơ sở để đánh giá, phân tích hoạt động trong toàn bộ bộ máy quản lý, thực
hiện chế độ cá nhân, đồng thời là cơ sở để điều hành hoạt động quản trị trên phạm
vi toàn doanh nghiệp.
Nếu các chức năng quản lý là các hoạt động trong một quá trình quản trị, thì
các lĩnh vực quản lý là các tổ chức để thực hiện các hoạt động kinh doanh cụ thể
gắn với quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Mặt khác, các chức năng quản lý đợc xác định có tính chất nguyên lý. Trong
khi các lĩnh vực quản lý thì gắn chặt với các điều kiện hoạt động kinh doanh cụ
thể của từng doanh nghiệp.
Có thể nói phân loại theo chức năng là sự quán triệt các nguyên lý của khoa
học quản trị; phân loại theo lĩnh vực là sự tiếp cận đúng đắn vào hoàn cảnh kinh
doanh thực tiễn của một doanh nghiệp.. Hai cách phân loại này không gạt bỏ nhau
mà ngợc lại, có mối quan hệ trực tiếp, hữu cơ với nhau.
Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa 2 cách phân loại này theo ma trận quản trị
A
(ij)
sau:
Chức
năng
Lĩnh vực
Dự kiến
(DK)
Tổ chức
(TC)
Phối hợp
(PH)
Chỉ huy
(CH)
Kiểm tra

(KT)
Vật t
Sản xuất
Marketing
-
-
-
-
-
H.chíhh, p. chế
DK vật t
DK sản
xuất
DK .
TC vật t
TC sản
xuất
TC .
PH vật t

PH
.CH vật t

CH
KT vật t

KT
Các doanh nghiệp càng lớn, kinh doanh càng đa dạng thì càng có nhiều lĩnh
vực quản lý, và do vậy càng có nhiều A
(ij)

. Phải nghiên cứu kỹ mối quan hệ này
để:
-
Tổ chức bộ máy quản lý sao cho bao quát hết các công tác (phủ hết các A
ij
)

×