Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Công tác Kế hoach trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.69 KB, 37 trang )

CÔNG TÁC KẾ HOẠCH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG: YÊU CẦU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI
PGS. TS. Ngô Thắng Lợi

“Thất bại trong việc lập kế hoạch là lập kế hoạch cho sự thất bại”
Mở đầu
Kế hoạch (KH) là một trong những công cụ quản lý quan trọng của các
cấp chính quyền, từ trung ương đến địa phương. KH tốt là điều kiện tiền đề để
tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vai trò
của công tác KH đã và đang tiếp tục được khẳng định. Tuy nhiên, khi nền kinh
tế chuyển từ KH hoá tập trung sang cơ chế thị trường thì bản chất và phương
pháp lập KH cũng cần thay đổi. Vậy sự thay đổi đó là gì? Nó có thể góp phần
ra sao vào quá trình phát triển của quốc gia hoặc địa phương và trong điều kiện
thể chế hiện nay, chúng ta có thể làm gì để từng bước hoàn thiện công tác KH
của mình theo hướng đổi mới? Đó là những câu hỏi sẽ được làm rõ trong tài
liệu này.
Nội dung chính của tài liệu này là: lý giải vì sao công cụ KH vẫn rất
cần thiết trong nền kinh tế thị trường; sau đó so sánh với KH kiểu cũ để thấy rõ
yêu cầu cần đổi mới; những tiếp cận mới cần được áp dụng trong đổi mới
KHH; những bất cập trong công tác KH hiện nay dưới con mắt đổi mới; những
yêu cầu và nội dung cần đổi mới trong lập KH
Kết cấu của tài liệu gồm 4 phần:
- Sự cần thiết của KH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) trong
nền kinh tế thị trường
- Sự khác biệt giữa KH trong nền kinh tế thị trường với KH trong cơ chế
tập trung mệnh lệnh
1
- Những tiếp cận mới trong công tác KH
- Những bất cập trong lập KH hiện nay và những vấn đề tiếp tục đổi mới
I. Sự cần thiết của KH đối với sự phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị
trường


1. KH là công cụ của nhà nước (các cấp) để can thiệp vào nền kinh tế thị
trường
1.1. Vai trò của nhà nước (các cấp) trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường có nhiều ưu thế, nhưng nó cũng không phải là lý
tưởng như nhiều người mong muốn, rất nhiều hạn chế từ cơ chế điều tiết của thị
trường gây ra và những hạn chế đó đã đem đến hậu quả không nhỏ đối với nền
kinh tế. Đó là những cơ sở rất quan trọng để nghiên cứu một vấn đề không
kém phần quan trọng trong lý luận và thực tiễn ở phần lớn các quốc gia trên thế
giới hiện nay: vấn đề vai trò và nội dung can thiệp của chính phủ trong nền
kinh tế thị trường. Nhà nước là một tổ chức được thiết lập để thực thi những
quyền lực nhất định, điều tiết hành vi của các cá nhân sống trong xã hội nhằm
phục vụ cho lợi ích chung của xã hội đó và tài trợ cho việc cung cấp những
hàng hóa, dịch vụ thiết yếu mà xã hội đó có nhu cầu. Vấn đề là ở chỗ cần biết
rõ Chính phủ làm những gì và chức năng quyền hạn của Chính phủ đến đâu?
Câu trả lời đúng được dựa trên nhiều yếu tố, nhưng điều quan trọng là từ việc
xác định những lý do của sự cần thiết phải có sự can thiệp của Chính phủ vào
nền kinh tế thị trường. Tổng hợp từ lý luận kinh tế học cũng như thực tiễn thực
hiện sự can thiệp vào nền kinh tế của chính phủ nhiều nước, trong đó có ở Việt
Nam, cho thấy có ít nhất ba lý do chính lập luận cho sự can thiệp của Chính
phủ:
1.1.1. Nhà nước can thiệp nhằm khắc phục các khuyết tật thị trường, hướng
hoạt động của thị trường vào hiệu quả xã hội
2
Bản thân thị trường có thể đem đến những kết cục phi hiệu quả. Chính
phủ can thiệp sẽ hy vọng hướng thị trường hoạt động theo hướng có hiệu quả
hơn. Trong trường hợp thị trường độc quyền, Chính phủ can thiệp nhằm kiểm
soát chặt chẽ thị trường, để đảm bảo rằng các rào cản đối với sự gia nhập thị
trường không trở thành những phương tiện khuyến khích quyền lực độc quyền.
Đối với các ngoại ứng
1

, Chính phủ can thiệp để buộc các bên tham gia giao
dịch thị trường phải tính đến tác động của mình gây ra cho đối tượng thứ ba,
nhờ đó có thể điều chỉnh các hoạt động của thị trường đạt tới mức tối ưu xã
hội. Chẳng hạn, đối với ngoại ứng tích cực, chính phủ có thể khuyến khích việc
gia tăng sản xuất bằng cách trợ cấp cho người tạo ra ngoại ứng tích cực (trợ giá
cho việc tiêm chủng là một thí dụ). Ngược lại, với ngoại ứng tiêu cực, chính
phủ có thể đánh thuế để “phạt” những người gây thiệt hại cho xã hội. Chính
phủ cần đứng ra để thực hiện việc cung cấp hàng hóa công cộng (chẳng hạn
như đường sá, cầu cống và hệ thống kết cấu hạ tầng KTXH) vì những loại hàng
hoá này rất cần cho sự vận hành của nền kinh tế nhưng khu vực tư nhân lại từ
chối cung cấp. Sự can thiệp của Chính phủ trong các thị trường sẽ bổ sung
thông tin cho thị trường, hoặc kiểm soát hành vi của những bên có lợi thế về
thông tin để đảm bảo thị trường hoạt động có hiệu quả hơn. Vai trò này ngày
càng được nhận thức là vô cùng quan trọng, nhất là trong thời đại công nghệ
thông tin. Việc chính phủ ra các qui định nghiêm ngặt về thông tin hướng dẫn
sử dụng thực phẩm dược phẩm là một thí dụ rõ ràng cho sự điều tiết của chính
phủ trong trường hợp này. Cuối cùng, khuyết tật về sự bất ổn định do nền kinh
tế do thị trường gây ra (giá cả bất ổn định, lạm phát, thất nghiệp...) có khả năng
được khắc phục khi Chính phủ can thiệp bằng việc chủ động đưa ra và thực
hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển
kinh tế khác nhau để đưa nền kinh tế trở về trạng thái ổn định lâu dài.
1
Ngoại ứng là một thuật ngữ kinh tế để chỉ những trường hợp hoạt động của những đối tượng trên thị trường
gây ảnh hưởng đến một đối tượng khác mà những ảnh hưởng đó không được phản ánh trong giá cả hàng hoá,
dịch vụ. Ví dụ điển hình nhất của ngoại ứng (tiêu cực) là ô nhiễm môi trường, trong đó các doanh nghiệp sản
xuất và làm tổn hại đến môi trường, nhưng họ không quan tâm đến điều đó một khi họ không phải đền bù cho
những thiệt hại môi trường mà họ gây ra.
3
1.1.2. Nhà nước can thiệp nhằm thực hiện những hoạt động mà thị trường
không điều tiết

Những thất bại thị trường đặt vấn đề cần phải có sự can thiệp của Chính
phủ nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy vậy, ngay
cả khi nền kinh tế vận hành có hiệu quả, thì vẫn còn hai lý do nữa để Chính phủ
cần phải can thiệp, đó là phân phối lại thu nhập nhằm thực hiện công bằng xã
hội và hàng hóa khuyến dụng.
(1) Vấn đề phân phối lại thu nhập và tạo cơ hội kinh tế cho mọi người:
Sự không hoàn hảo của thị trường thường dẫn đến kết cục là sự thiếu
công bằng. Chính phủ phải có trách nhiệm thực hiện việc phân phối lại thu
nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ giúp cho các đối tượng dễ tổn
thương như người già, người nghèo, trẻ em, người tàn tật. Thông thường, Chính
phủ có thể tiến hành các chương trình trợ cấp trực tiếp cho từng cá nhân để giúp
họ thoát khỏi cảnh nghèo đói. Nhiều khi các chương trình phân phối lại còn
được thực hiện dưới dạng cung cấp các phương tiện, dịch vụ cho cả cộng đồng
như chương trình 135 (xây dựng điện, đường, trường, trạm ở nông thôn);
chương trình nước sạch nông thôn; chương trình xóa đói giảm nghèo v.v...
Mặt khác, việc sử dụng quyền lực của Chính phủ để tạo ra sự bình đẳng
về cơ hội cho mọi công dân, không phân biệt tình trạng cá nhân, có thể làm lợi
cho xã hội nói chung vì nó sẽ giúp các cá nhân có nhiều cơ hội hơn để đặt năng
lực của mình vào công việc phù hợp nhất, có năng suất cao nhất.
(2) Vấn đề hàng hóa khuyến dụng
Những hàng hóa hay dịch vụ mà việc tiêu dùng chúng có lợi cho cá nhân
và xã hội, nhưng cá nhân không tự nguyện tiêu dùng, khiến chính phủ phải bắt
buộc họ sử dụng gọi là hàng hóa khuyến dụng.
Nhiều nhà kinh tế học cho rằng, cá nhân nói chung nhiều khi không nhận
thức hết được lợi ích hoặc tác hại của việc tiêu dùng một loại hàng hóa hay dịch
vụ nào đó, ngay cả khi họ có đầy đủ thông tin. Chẳng hạn, ai cũng biết hút
thuốc là có hại cho sức khỏe, nhưng rất nhiều người vẫn tiếp tục hút. Nhiều gia
4
đình tham gia tiêm chủng sẽ giúp trẻ em phòng chống nhiều căn bệnh nguy
hiểm nhưng họ vẫn không hướng dẫn con em mình thực hiện công việc này, bất

kể việc tiêm chủng là miễn phí hay phải trả tiền.
Như vậy, sự can thiệp của Chính phủ trong trường hợp hàng hóa khuyến
dụng bắt nguồn từ một chức năng gọi là chức năng "phụ quyền" của Chính phủ.
Vai trò của Chính phủ ở đây giống như vai trò của người cha trong gia đình.
Khi người cha thấy con cái mình chỉ hành động vì lợi ích trước mắt, mà không
nghĩ đến tương lai lâu dài, thì người cha phải can thiệp để điều chỉnh hành vi
của con cái. Sự can thiệp này có thể chỉ ở mức độ giáo dục, giải thích thuyết
phục, nhưng nếu cần thì có thể biến thành mệnh lệnh bắt buộc.
1.1.3. Nhà nước can thiệp nhằm hướng hoạt động KTXH của đất nước theo
những mục tiêu mà Chính phủ cần đạt tới
Nếu hai lý do trên liên quan đến những khuyết tật của thị trường trong
vấn đề phân bổ nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu ngay trước mắt thì lý do
thứ ba này lại đề cập đến một hạn chế khác của thị trường, đó là sự thiển cận
không có tầm nhìn xa chiến lược cho các vấn đề dài hạn. Nguyên nhân của nó
là vì thị trường tự do được hình thành từ sự tương tác giữa vô số người mua và
người bán trên thị trường. Những người này đều chỉ có động cơ tối đa hoá lợi
ích ngắn hạn của mình, còn họ không có động lực và phương tiện để chăm lo
cho những lợi ích dài hạn của cả cộng đồng. Do đó, Chính phủ, với tư cách là
người đại diện cho quyền lợi của cả cộng đồng dân cư, phải hướng nền kinh tế
phát triển theo định hướng chiến lược dài hạn mà Chính phủ cho rằng có lợi
cho cả xã hội nói chung.
Với tư cách là một tổ chức ra đời nhằm thực thi những quyền hành nhất
định đối với xã hội, chính phủ thường đặt ra những mục tiêu mà xã hội cần đạt
tới trong một thời gian nhất định hay một số lĩnh vực cụ thể, ví dụ như: Chính
phủ muốn hướng trình độ dân trí của đất nước sẽ đạt được ở một mức độ nào
đó trong một khoảng thời gian nhất định, muốn thể lực tầm vóc của người dân
phải tăng lên một mức độ tương xứng so với thế giới, hay muốn kìm hãm tốc
độ tăng trưởng dân số tự nhiên ở một tỉ lệ thấp v.v... Để đạt được những ý
5
muốn của mình, Chính phủ phải can thiệp trực tiếp vào các lĩnh vực đó bằng

việc hoạch định những mục tiêu cụ thể thông qua các chiến lựơc, KH, chương
trình phát triển như: chương trình cải cách giáo dục, chiến lược phát triển giáo
dục, chương trình chăm sóc sức khỏe, chương trình kế hoạch hóa gia đình v.v...
Cùng với việc đưa ra các chương trình, Chính phủ sử dụng nguồn lực, khả năng
tài chính của mình để tổ chức thực hiện mục tiêu.
Một khía cạnh khác liên quan đến vấn đề sứ mệnh và an ninh quốc gia.
Chính phủ không cho phép thị trường trực tiếp can thiệp vào một số lĩnh vực
như: an ninh quốc phòng, bí mật quốc gia hay quan hệ quốc tế. Để thực hiện
mục tiêu về các vấn đề này, chính phủ tổ chức lực lượng an ninh nhân dân,
quân đội nhân dân, những doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp quốc phòng
và một lượng tài chính nhà nước đủ lớn để thực hiện việc cung ứng hàng hóa và
dịch vụ đáp ứng nhu cầu cho các lĩnh vực đó.
Như vậy, việc tăng cường sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế
không chỉ xuất phát từ những khuyết tật vốn có của thị trường mà nó còn mang
một ý nghĩa cao hơn nhằm hướng xã hội tới một đời sống tốt đẹp hơn mà thị
trường dù có hoạt động tốt cũng không làm được.
1.2. Những công cụ thực hiện sự can thiệp
Để thực hiện được các chức năng nói trên, Chính phủ thường sử dụng
nhiều công cụ khác nhau:
1.2.1. Hệ thống pháp luật và những quy định dưới luật
Chính phủ xây dựng và thực hiện đúng đắn, đồng bộ hệ thống pháp luật
và những văn bản dưới luật để tiến tới quản lý bằng pháp luật. Việc sử dụng
công cụ pháp luật, giúp Chính phủ quản lý, điều tiết hành vi kinh doanh của các
doanh nhân, điều tiết được hoạt động kinh tế thị trường. Việc thiếu luật hoặc
luật thiếu đồng bộ, không phù hợp sẽ làm tổn thương đến nền kinh tế và xã hội
trở nên rối rắm hơn. Vì vậy, phải xây dựng và thực hiện đúng đắn, đồng bộ hệ
thống pháp luật và các quy định dưới luật như Pháp lệnh, Nghị định. Theo đó,
6
mọi công dân có quyền tự do, chủ động sáng tạo trong giới hạn cho phép của
pháp luật.

1.2.2. Hoạch định phát triển
Các công cụ hoạch định phát triển bao gồm: Chiến lược, quy hoạch, KH,
chương trình phát triển KTXH trực tiếp giúp Chính phủ thực hiện chức năng ổn
định vĩ mô và định hướng tương lai trong điều kiện kinh tế thị trường. Chính
phủ, thông qua công cụ hoạch định, sẽ đánh giá được tình hình kinh tế hiện tại
và mức độ, khả năng giải quyết các vấn đề KTXH tại một thời điểm nhất định;
xây dựng các mục tiêu chiến lược định hướng sự phát triển KTXH của các
nước, từng vùng, từng ngành trong tương lai; liên kết mục tiêu đặt ra với với cơ
cấu nguồn lực, thực hiện các ưu tiên đầu tư cần thiết để thực hiện có hiệu quả
các mục tiêu; liên kết các ngành, vùng kinh tế thành một tổng thể thống nhất
theo các chương trình phát triển KTXH của quốc gia và các cấp khác; gắn các
chính sách vào cơ chế giải quyết các nhiệm vụ chiến lược đặt ra; cung cấp các
thông tin và tình hình thị trường trong và ngoài nước cho các nhà kinh doanh.
1.2.3. Các chính sách kinh tế vĩ mô
Để thực hiện được các chức năng của mình, chính phủ thường sử dụng
một hệ thống chính sách, bao gồm hai loại:
- Chính sách định hướng phát triển. Các chính sách này có chức năng định
hướng, hướng dẫn các hoạt động KTXH, chỉ ra cách thức vận động của
nền kinh tế để hướng tới các mục tiêu phát triển đặt ra. Hệ thống chính
sách định hướng phát triển bao gồm: chính sách phát triển các ngành
kinh tế: nông nghiệp, công nghiêp, dịch vụ; chính sách phát triển các
vùng kinh tế; chính sách phát triển các lĩnh vực KTXH như: dân số - lao
động và giải quyết việc làm, khoa học công nghệ, đất đai, chính sách đầu
tư, chính sácch mở cửa, hội nhập v.v...
- Chính sách điều tiết vĩ mô, bao gồm chính sách tài khoá, tiền tệ. Chính
phủ thông qua các công cụ chủ yếu của chính sách tài khoá như: thuế, chi
tiêu và công cụ của chính sách tiền tệ như: lãi suất, tỷ giá, quy định tỷ tệ
7
dự trữ bắt buộc trong các ngân hàng, lãi suất chiết khấu v.v... nhằm điều
tiết nền kinh tế theo hướng thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô,

và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các chính sách điều tiết còn
nhằm tập trung vào thực hiện tốt quá trình phân phối và phân phối lại thu
nhập giữa các đơn vị kinh tế và các thành viên trong xã hội, cũng như
bảo đảm phúc lợi xã hội cho con người.
1.2.4. Lực lượng kinh tế nhà nước
Hiểu theo nghĩa chung nhất, kinh tế nhà nước bao gồm tổng thể các
nguồn lực do Nhà nước sở hữu đã, đang và chưa huy động vào sử dụng. Hệ
thống kinh tế Nhà nước được chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất là các doanh
nghiệp nhà nước bao gồm doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực sản xuất như
công nghiệp, nông nghiệp; các ngân hàng thương mại nhà nước; công ty bảo
hiểm nhà nước. Nhóm thứ hai là hệ thống phi doanh nghiệp nhà nước, bao gồm
NSNN; Ngân hàng nhà nước; Kho Bạc nhà nước, các Quỹ dự trữ quốc gia; hệ
thống tài nguyên, khoáng sản và đất đai; các dịch vụ công cộng do nhà nước
đảm nhận.
Việc can thiệp của nhà nước vào quá trình kinh tế đưa kinh tế nhà nước
trở thành khu vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, trở thành một chủ thể
kinh tế lớn giúp Chính phủ thực hiện chức năng ổn định, công bằng và hiệu
quả. Cụ thể:
Một là, với tư cách là chủ thể kinh tế có tiềm năng mạnh, Chính phủ đã
tham gia vào vòng luân chuyển kinh tế, sử dụng lực lượng tài chính tiền tệ nhà
nước như một công cụ mạnh mẽ trong việc phân phối các nguồn lực, hướng
nền kinh tế theo các mục tiêu vĩ mô đã định.
Hai là, các lực lượng dự trữ quốc gia thể hiện cả bằng hiện vật và giá trị
là công cụ giúp Chính phủ ổn định thị trường, cân bằng cung - cầu; bảo đảm ổn
định kinh tế, công bằng xã hội, an ninh quốc gia; thực hiện các định hướng phát
triển.
8
Cuối cùng, hệ thống doanh nghiệp nhà nước thực hiện những chức năng:
cung cấp hàng hoá dịch vụ, giải quyết việc làm, thu nhập, kích thích tiêu dùng,
chống đỡ khủng hoảng kinh tế. Với tư cách là công cụ để nhà nước điều tiết các

hoạt động của nền kinh tế quốc dân, thông qua đó hướng dẫn các khu vực kinh
tế khác phát triển, các doanh nghiệp nhà nước còn có tác dụng thúc đẩy và tạo
môi trường cho kinh tế tư nhân phát triển, tham gia vào chống độc quyền tự
nhiên, tối đa hoá phúc lợi xã hội.
Ở các cấp địa phương tỉnh, huyện, chính quyền địa phương cũng áp dụng
được các công cụ trên, nhưng được cụ thể hoá theo chức năng nhiệm vụ đã
được phân cấp trên địa bàn địa phương. Ví dụ, tỉnh cũng có thể đề ra cơ chế,
chính sách trong phạm vi quyền hạn của mình như chính sách ưu đãi đầu tư, thu
hút nhân tài… Tỉnh cũng sử dụng hệ thống KHH từ KH lãnh thổ (tỉnh, huyện,
xã…) đến KH các ngành (công nghiệp, nông nghiệp, thương mại dịch vụ, giáo
dục, y tế…) để điều hành nền kinh tế trên địa bàn. Tuy nhiên, cơ chế, chính
sách của địa phương đưa ra không được vượt khung do Chính phủ trung ương
đã qui định.
Như vậy, hệ thống kế hoạch phát triển (KHPT) là một công cụ quản lý
của chính phủ để điều tiết nền kinh tế quốc dân. Do đó, bất cứ khi nào còn
chính phủ thì chính phủ còn sử dụng công cụ quản lý này. Đặc trưng của nhóm
công cụ này khác với các nhóm khác là ở chỗ đây là phương pháp quản lý nền
kinh tế của nhà nước theo mục tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định
hướng phát triển KTXH phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định
của một quốc gia, một vùng, một ngành hay một địa phương, và những giải
pháp chính sách cần thiết để đạt mục tiêu với hiệu quả và hiệu lực cao nhất. Có
thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về KHH phát triển KTXH như sau:
KHH phát triển KTXH là một hoạt động có ý thức của nhà nước trên cơ
sở đánh giá thực lực của nền kinh tế và nhận thức được sự vận động của các qui
luật khách quan để vạch ra hướng phát triển cho nền kinh tế quốc dân trong
từng giai đoạn nhất định cũng như những giải pháp lớn nhằm thực hiện được
định hướng đó một cách có hiệu quả.
9
2. KH là công cụ huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm nhằm thực
hiện các mục tiêu ưu tiên

Chúng ta luôn nằm trong tình trạng khan hiếm nguồn lực, nhất là: vốn,
lao dộng có tay nghề và công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Nếu cứ để thị trường điều
tiết, các nguồn lực này sẽ hướng vào việc sản xuất các hàng hoá nhiều lợi
nhuận và mang tính trước mắt, ngắn hạn, phục vụ chủ yếu cho nhu cầu của
những người giầu trong xã hội, đó là những hàng hoá xa xỉ. Các nguồn lực
không thể huy động được vào những vùng sâu, vùng xa hoặc hoạt động trong
những lĩnh vực mà xã hội cần có. Vì vậy, nếu các nguồn lực khan hiếm được
phân bổ theo KH, nó sẽ bảo đảm hướng được vào các vấn đề mang tính bức
xúc mà xã hội cần có, hướng vào người nghèo và những tầng lớp yếu thế trong
xã hội; các nguồn lực khan hiếm được phân bổ phù hợp với nhu cầu trong dài
hạn của đất nước và địa phương.
3. KH là công cụ để Chính phủ công bố các mục tiêu phát triển của mình
và huy động nguồn lực xã hội cùng hướng tới đạt mục tiêu
Sự công bố cụ thể về những mục tiêu xã hội và kinh tế quốc gia hoặc của
một địa phương dưới dạng một KHPT cụ thể có những ảnh hưởng quan trọng
về thái độ hay tâm lý đối với dân cư. Nó có thể thành công trong việc tập hợp
dân chúng đằng sau chính phủ trong một chiến lược quốc gia để xoá bỏ nghèo
đói. Bằng việc huy động sự ủng hộ của quần chúng và đi sâu vào các tầng lớp
xã hội, các đảng phái, tôn giáo để yêu cầu mọi công dân đều cùng nhau là việc
để xây dựng đất nước. Nhà nước (các cấp) khi có một KH kinh tế được coi là
được trang bị tốt nhất để đảm bảo những động lực cần thiết để vượt qua những
lực cản và thường hay chia rẽ của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa truyền thống
trong một yêu cầu chung đòi hỏi tiến bộ xã hội và cuộc sống ấm no cho mọi
người.
4. KH là một công cụ để thu hút được các nguồn tài trợ từ nước ngoài
Nếu chúng ta có những KHPT cụ thể với những mục tiêu đặt ra cụ thể và
những dự án được thiết kế cẩn thận, đó thường là một điều kiện cần thiết để
10
nhận được sự ủng hộ của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Trong một
chừng mực nhất định việc mô tả dự án tỷ mỷ và cụ thể trong khuôn khổ một

KHPT toàn diện càng nhiều bao nhiêu thì mong muốn của các địa phương về
việc tìm kiến nguồn vốn từ bên ngoài càng nhiều bấy nhiêu. Thực tế qua Hội
nghị các nhà tài trợ vừa qua đã cho thấy, nhờ Chính phủ Việt Nam đã có một lộ
trình rõ ràng và thể hiện rõ quyết tâm trong cải cách bộ máy hành chính nên
Việt Nam đã nhận được sự cam kết tài trợ lớn nhất từ trước đến nay từ cộng
đồng các nhà tài trợ quốc tế.
II. Sự khác biệt giữa KH trong nền kinh tế thị trường với KH trong cơ
chế tập trung mệnh lệnh
Như vậy, dù trong bất kỳ cơ chế nào, nếu còn Chính phủ và Chính phủ vẫn
còn vai trò điều tiết nền kinh tế vì lợi ích chung của xã hội thì Chính phủ vẫn
phải sử dụng KH như một công cụ quản lý. Chính phủ nào biết phát huy sức
mạnh của công cụ này thì càng có khả năng tận dụng hết các nguồn lực hiện có
để phát triển KTXH trên địa bàn. Tuy nhiên, khi cơ chế kinh tế thay đổi thì bản
chất, nội dung và phương pháp KHH cũng phải có sự đổi mới tương ứng.
1. Sự khác biệt về bản chất
Xét về bản chất, KH là thể hiện sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh
tế nhằm định hướng phát triển và điều khiển sự biến đổi một số biến số KTXH
chủ yếu để đạt được mục tiêu đã định trước. Biểu hiện cụ thể của bản chất này:
trước hết là thể hiện ở một loạt các mục tiêu KTXH cần đạt được trong một
khoảng thời gian đã định sẵn; kế tiếp là cách thức tác động, hướng dẫn, điều
khiển của Chính phủ để thực hiện mục tiêu đặt ra. Bản chất của KHH là giống
nhau nhưng biểu hiện cụ thể của nó lại khác nhau trong mỗi nền kinh tế.
Trong nền kinh tế tập trung mệnh lệnh, KHH thể hiện ở sự khống chế
trực tiếp của Chính phủ đối với những hoạt động KTXH thông qua quá trình
đưa ra những quyết định pháp lệnh phát ra từ Trung ương. Các chỉ tiêu KH
được xác định bởi các nhà KH Trung ương tạo nên một KH kinh tế quốc dân
toàn diện và đầy đủ; nguồn nhân lực, vật tư chủ yếu và tài chính không phải
11
được phân phối theo giá thị trường và điều kiện cung cầu mà phân phối theo
các nhu cầu của KH tổng thể, theo những quyết định hành chính của các cấp

lãnh đạo.
Trong nền kinh tế thị trường, KHH là thể hiện sự nỗ lực có ý thức của
Chính phủ trong quá trình thực hiện sự can thiệp ở tầm vĩ mô nền kinh tế quốc
dân, trên cơ sở chủ động thiết lập mối quan hệ giữa khả năng và mục đích nhằm
đạt được mục tiêu sử dụng có hiệu quả nhất những tiềm năng hiện có. KHH
trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở các phương án lựa chọn, sắp xếp,
khai thác và huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phép để đạt được
kết quả cao nhất. Các chỉ tiêu đặt ra trong KH là những định hướng phát triển
một số lĩnh vực chủ yếu và cánh thức tác động của Chính phủ mang tính gián
tiếp thông qua các chính sách định hướng và các công cụ của chính sách điều
tiết vĩ mô. Như vậy, bản chất của KHH phát triển trong nền kinh tế thị trường là
tính thuyết phục gián tiếp.
Bảng 1: So sánh bản chất của KH trong cơ chế KHH tập trung và cơ chế
thị trường
Cơ chế KH hoá tập trung Cơ chế thị trường
 KH mang tính chủ quan
duy ý chí: xuất phát từ ý
muốn chủ quan của nhà
nước, không căn cứ vào
tiềm lực thực tế và không
gắn với nhu cầu thực sự
của nền kinh tế quốc dân
 KH gắn với thị trường: định hướng
sự phát triển dựa trên cơ sở đánh giá
đúng thực trạng (=> khả thi), nhận
thức được qui luật (=> khoa học),
nắm bắt được nhu cầu (=> thực tiễn),
vì thế => vững chắc hơn
 KH thay thế cho thị trường,
vì sự tồn tại của thị trường

sẽ phá vỡ những cân đối
cứng mà KH đã đề ra.
 KH bổ sung hỗ trợ cho thị trường: thị
trường chỉ giải quyết vấn đề ngắn
hạn, riêng lẻ, vì lợi ích cục bộ. KH
có cái nhìn dài hạn, mang tính đón
bắt, vì lợi ích chung, toàn cục.
12
 KH mang tính mệnh lệnh:
giao chỉ tiêu và cấp phát
nguồn lực, đồng thời chỉ
định cả địa chỉ tiêu thụ
 KH mang tính định hướng: Hoạt
động như bộ khung làm cơ sở để
hoạch định các chính sách đòn bẩy
và các biện pháp gián tiếp để thực
hiện định hướng
 KH thiếu tính linh hoạt: vì
là pháp lệnh nên mang tính
cứng nhắc, mọi sự điều
chỉnh KH chỉ là hình thức.
 KH mang tính linh hoạt. Khi các
điều kiện thị trường thay đổi thì KH
cũng sẽ có sự điều chỉnh theo.
Chính vì sự khác biệt về bản chất đó của KH trong nền kinh tế thị trường
đòi hỏi phải có sự đổi mới về cơ bản công tác KHH, từ tư duy đến qui trình và
phương pháp lập KH.
Việt nam hiện nay đang thực hiện quá trình cải cách kinh tế theo mô
hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Công tác KH cũng đang được chuyển đổi phù hợp từ cơ chế KH tập

trung sang KH định hướng phát triển, với ba nội dung chủ yếu:
- Thứ nhất, chuyển từ cơ chế KHH tập trung phân bổ nguồn lực cho nền
kinh tế bao gồm hai thành phần sở hữu quốc doanh và tập thể là chủ yếu
sang cơ chế KHH theo phương thức khai thác, huy động và sử dụng có
hiệu quả nguồn lực cho nền kinh tế đa thành phần sở hữu.
- Thứ hai, chuyển từ cơ chế KHH trực tiếp mang tính pháp lệnh với hệ
thống chằng chịt các chỉ tiêu mang tính chất bao cấp cả đầu vào lẫn đầu
ra sang cơ chế KHH định hướng gián tiếp với hệ thống cơ chế chính sách
kinh tế vĩ mô phù hợp.
- Thứ ba, chuyển từ cơ chế KHH hiện vật, mang tính chất khép kín trong
từng ngành, từng địa phương sang cơ chế KHH theo chương trình mục
13
tiêu với sự kết hợp hài hoà giữa các ngành, các vùng, cả bên trong lẫn
bên ngoài theo hướng tối ưu hoá và hiệu quả các hoạt động KTXH.
2. Sự khác nhau về hệ thống chỉ tiêu KH
Hệ thống chỉ tiêu trong KHPT là thước đo nhiệm vụ và nội dung phát
triển KTXH của đất nước trong thời kỳ KH và được sử dụng để thực hiện hành
vi điều tiết vĩ mô của nhà nước.
Hệ thống chỉ tiêu KHPT được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau, có chức
năng và tác dụng phản ánh tính định lượng riêng biệt. Hệ thống chỉ tiêu KH
trong nền kinh tế thị trường có những sự khác biệt đáng kể so với cơ chế cũ, xét
ở từng góc độ khác nhau.
2.1. Theo góc độ nội dung KHH, hệ thống chỉ tiêu KH được phân thành:
Các chỉ tiêu kinh tế. Hệ thống này bao gồm các mục tiêu về kinh tế cần đạt
được như tốc độ tăng trưởng GDP, chuyển dịch cơ cấu ngành, các mục tiêu
phát triển vùng và các chỉ tiêu mang tính chất biện pháp như các yếu tố nguồn
lực cần thiết cho tăng trưởng, các cân đối vĩ mô chủ yếu cần duy trì trong thời
kỳ KH.
Các chỉ tiêu xã hội bao gồm các chỉ tiêu về nâng cao phúc lợi xã hội, mức
sống đân cư, các chỉ tiêu chất lượng cuộc sống, môi trường tự nhiên và xã hội,

chỉ tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN), công bằng xã hội v.v...
Các chỉ tiêu lồng ghép các vấn đề xã hội trong phát triển kinh tế. Theo khía
cạnh lồng ghép, cả nội dung kinh tế và xã hội đều được phản ánh trong một chỉ
tiêu, các mục tiêu kinh tế và xã hội ràng buộc lẫn nhau hoặc mục tiêu xã hội đặt
nhiệm vụ cho kinh tế phải giải quyết.
Theo lịch sử KHH ở các nước, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển,
các KHPT thường tập trung chủ yếu vào các chỉ tiêu kinh tế nhằm mục đích
thúc đẩy quá trình tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. Khi nền kinh tế đã phát
triển đến một mức độ nhất định, các mục tiêu xã hội ngày càng được chú trọng
nhiều hơn và một xu thế mới là xây dựng các chỉ tiêu mang tính chất lồng
14

×