Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Mở rộng cho vay khách hàng cá nhân tại ngân hàng Đông Nam Á chi nhánh Láng Hạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.91 KB, 60 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
LỜI MỞ ĐẦU
Đa dạng hoá là một xu hướng tất yếu của sự phát triển trong hoạt động
kinh doanh nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Đặc biệt trước những
yêu cầu mới của cạnh tranh và hội nhập kinh tế, ngành ngân hàng phải không
ngừng phát triển và tìm kiếm những hướng đi mới phù hợp để vừa có thể đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng vừa đứng vững trong cơ chế
thị trường. Mở rộng cho vay khách hàng cá nhân là một hướng đi như vậy.
Đây là một hướng đi không mới ở các nước phát triển nhưng lại khá mới mẻ ở
Việt Nam bởi người dân Việt Nam vẫn có thói quen suy nghĩ rằng ngân hàng
là nơi phục vụ cho các doanh nghiệp, là một kênh đầu tư tiền nhàn rỗi. Do
vậy, thị trường cho vay khách hàng cá nhân còn khá sơ khai và chưa được
nhiều ngân hàng khai thác.
Sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đông Nam Á – Chi
nhánh Láng Hạ, em nhận thấy hoạt động cho vay khách hàng cá nhân ở chi
nhánh vẫn còn nhỏ bé và đơn giản. Do đó em lựa chọn đề tài “Mở rộng cho
vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Đông Nam Á – Chi nhánh Láng
Hạ” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Ths. Lê Hương Lan
cùng các thầy cô trong khoa Ngân hàng – Tài chính, cám ơn các cán bộ tín
dùng ở Chi nhánh Láng Hạ đã đóng góp những ý kiến quý báu giúp em hoàn
thành chuyên đề này.
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
1
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
Chuyên đề được chia làm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về cho vay khách hàng cá nhân của
Ngân hàng thương mại


Chương 2: Thực trạng cho vay tại Ngân hàng Đông Nam Á – Chi
nhánh Láng Hạ
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân
hàng Đông Nam Á – Chi nhánh Láng Hạ
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về cho vay khách hàng cá nhân
của Ngân hàng thương mại
1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1.Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
Còn theo điều 20, Luật số 20/2004/QH11 ngày 15/6/2004 về sửa đổi,
bổ sung một số điều của luật Các tổ chức tín dụng (được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997): “Ngân hàng là
loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt
động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại
hình ngân hàng khác”.
1.1.2.Chức năng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1.Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu,

tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những
người cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu,
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch
vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với
ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1)
nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan
hệ tài chính của hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay
trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là
quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Lấy
quan hệ tín dụng làm ví dụ: người có tiền tiết kiệm đòi 1% chi phí giao dịch,
chi phí rủi ro là 2% và 3% là thu nhập ròng từ số tiền tiết kiệm mà anh ta đang
phải tạm thời từ bỏ quyền sử dụng. Tổng cộng anh ta đòi 6% trên số vay.
Người vay phải chi 1% chi phí giao dịch, 6% trả cho người có tiền, tổng cộng
phí tổn tín dụng là 7%. Nếu việc sử dụng tiền vay có thể tạo ra cho anh ta một
tỷ suất thu nhập lớn hơn 7% (giả sử là 10%) thì quan hệ tín dụng sẽ được thiết
lập. Quan hệ tín dụng trực tiếp (quan hệ tài chính trực tiếp) đã có từ rất lâu và
tồn tại cho đến ngày nay.
Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị giới hạn do sự không phù hợp về quy
mô, thời gian, không gian… Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và
là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hóa, trung gian tài
chính có thể làm giảm chi phí giao dịch ví dụ từ 2% xuống 1% ở ví dụ trên,
chi phí rủi ro từ 2% xuống 1%. Trung gian có thể trả cho người tiết kiệm
3,5% với cam kết không có rủi ro (lớn hơn 3% thu nhập trước đó), và đòi
người sử dụng 6,5% (nhỏ hơn 7% trước đó). Chênh lệch 6,5% - 3% = 3%

chính là thu nhập của trung gian. Như vậy trung gian tài chính đã tăng thu
nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm
phí tổn cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó mà khuyến
khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động
của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật
nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
1.1.2.2.Tạo phương tiện thanh toán
Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh
toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng
tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy
nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương
tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các
ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số
lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân
hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất
trữ; nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng
tiền quốc gia duy nhất dã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát
hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc Bô tài chính hoặc là Ngân hàng trung
ương. Từ đó chấm dứt việc ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc của
riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể
chi trả để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu.

1.1.2.3.Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá rị
hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm
chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng
cần. Các ngân hàng còn thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng
Trung ương hoặc qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua
ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được
mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được
các nhà quản lí tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được
chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các
ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới.
Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của
thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thah toán quan
trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.3.Các dịch vụ của ngân hàng
Ngân hàng là một doanh cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch
vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu
quả.
1.1.3.1.Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi
ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền

khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán
ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao
dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải yêu cầu phải có
trình độ chuyên môn cao.
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
1.1.3.2.Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các
khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch
vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.
Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gủi, các ngân
hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn
sàng hi sinh nhu cầu tiêu dung trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm
thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn
các ngân hàng Huy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết
kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất
gấp đôi hay gấp ba lần lãi suất tiết kiệm.
1.1.3.3.Cho vay
• Cho vay thương mại
Ngay ở thời kì đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực
tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu
cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu
thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua).
Giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản suất kinh doanh.
• Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cục cho vay đối

với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi
ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh
tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng
như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng
nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
• Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng
càng trở lên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt
là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói
chung là cao song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào
đất.
1.1.3.4.Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho
khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ
biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất
cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như
tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân
hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy
thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng
để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy
bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng
phải trả phí bảo quản.
1.1.3.5.Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng

không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ.
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt,
tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết
giấy chi trả cho khách (còn được gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân
hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời
gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Khi ngân hàng mở
chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở rộng phạm vi, càng tạo nhiều
tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân gửi
tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ
mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho
phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ.
Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những
bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Cùng với sự phát triển
của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ
nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
1.1.3.6.Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp
và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với
nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệp trong quản lí ngân quỹ và khả năng
trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ
quản lí ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một
công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào
các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần
tiền mặt để thanh toán.

1.1.3.7.Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường
là cấp bách trong khi thu không đủ. Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận
với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân
không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân
hàng Trung ương thành lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp
can thiệp để có các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp
phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy
phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy
phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó
các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải
mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà
ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với điều kiện ưu đãi cho các
doanh nghiệp của Chính phủ.
1.1.3.8.Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và
do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín
trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo
lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho
khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng
khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
1.1.3.9.Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn,

nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. Cuối
hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê
mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa
chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hựp đồng thuê mua, trong
đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường
phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
thuê. Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay,
và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
1.1.3.10.Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có nhiều chuyên
gia về quản lí tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân
hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát
triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác
đầu tư… Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di
chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản,
bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một
chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lí
tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
1.1.3.11.Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đầu là một trong những lý do chính
khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp
cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà
không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường
hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới

chứng khoán.
1.1.3.12.Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng,
điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hành bị chết, bị tàn phế
hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
1.1.3.13.Cung cấp các dịch vụ đại lí
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng
lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như thanh
toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong
đồng tài trợ…
1.2.Cho vay khách hàng cá nhân của NHTM
1.2.1.Khái niệm và phân loại cho vay
1.2.1.1.Khái niêm cho vay
Theo Mục 2 - Điều 3 - Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về qui chế
cho vay của Tổ chức tín dụng, cho vay là: “một hình thức cấp tín dụng, theo
đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục
đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và
lãi”.
1.2.1.2.Phân loại cho vay
Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại các loại hình cho vay.
• Căn cứ vào thời hạn cho vay: chia thành các loại
- Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay đến 12 tháng
- Cho vay trung hạn: thời hạn cho vay từ 1 năm đến 5 năm
- Cho vay dài hạn: thời hạn trên 5 năm

Phân loại theo thời gian có một ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì
thời gian liên quan đến tính an toàn và sinh lời của món vay cũng như khả
năng hoàn trả của khách hàng.
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
• Căn cứ vào hình thức đảm bảo:
- Cho vay đảm bảo bằng tài sản:
o Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay: là hình thức cho vay
của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hang vay được
cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp.
o Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: khách hàng dùng tài sản
hình thành từ vốn vay để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối
với tổ chức tín dụng. Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng
vay mà giá trị tài sản được tạo lên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay.
o Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh)
cam kết với tổ chức tín dụng cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu của
mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng vay (bên được bảo lãnh)
nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ trả nợ.
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:
o Cho vay bảo đảm bằng uy tín của người vay: Ngân hàng căn cứ vào uy
tín của khách hàng, sự tin tưởng đối với khách hàng, lịch sử tín dụng của
khách hàng, phương án sử dụng vốn vay của khách hàng có hiệu quả để ra
quyết định cho vay.
o Cho vay bảo đảm bằng uy tín của bên thứ ba: Bên thứ ba (gọi là bên
bảo lãnh) cam kết với tổ chức tín dụng cho vay về việc thực hiện nghĩa vụ trả
nợ thay cho khách hàng vay nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.
o Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ:
Tổ chức tín dụng Nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc
biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tế - xã
hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng được hưởng các chính sách
tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn theo quy định tại các văn bản quy phạm
pháp luận của Chính phủ.
• Căn cứ vào cách thức cho vay:
- Cho vay trực tiếp: là hình thức phổ biến, ngân hàng trực tiếp cho
khách hàng vay vốn thông qua hồ sơ xin vay mà khách hàng nộp cho ngân
hàng. Khách hàng làm việc trực tiếp với cán bộ ngân hàng để thoả thuận các
vấn đề có liên quan.
- Cho vay gián tiếp: cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Đó là
các tổ, đội, nhóm, hội như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội
Cựu chiến binh Mục đính của loại hình này là cho các hộ nông dân, người
buôn bán nhỏ, các hộ nghèo, học sinh, sinh viên nhằm phát triển kinh tế,
làm giàu cho nông dân, xoá đói giảm nghèo.
• Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay nhiều lần tách biệt
nhau đối với cùng một khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên và chỉ
vay trong trường hợp cần thiết. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các
hồ sơ khách nhau.
- Cho vay theo hạn mức: là hình thức cho vay theo đó ngân hàng thoả
thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể

được tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn
mức tín dụng được cấp dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vốn và nhu cầu vay vốn của khác hàng. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
14
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
vay trả nhiều lần nhưng không được vượt quá hạn mức tín dụng. Với trường
hợp ngân hàng qui định hạn mức cuối kỳ khách hàng phải trả nợ để giảm dư
nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức. Đây là hình thức
vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham
gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Cho vay theo dự án đầu tư: các khách hàng có dự án phát triển sản
xuất kinh doanh, dịch vụ hay các dự án đầu tư phục vụ đời sống Nếu tính
được hiệu quả kinh tế, có tính khả thi mà thiếu vốn để thực hiện thì ngân hàng
sẽ xem xét cho vay theo dự án đầu tư giúp khách hàng hoàn thành dự án.
Mức cho vay = Tổng nhu cầu vốn của dự án - Vốn tự có của chủ dự án
tham gia vào dự án - Vốn khác (nếu có)
- Cho vay thấu chi: thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho
phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một
giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn
mức thấu chi. Hình thức này áp dụng với những khách hàng có độ tin cậy cao,
thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn hoặc trong trường hợp khách hàng đặc
biệt khó khăn hoặc đặc biệt thuận lợi. Khách hàng phải chịu một mức lãi suất
thấu chi. Các khoản chi quá mức thấu chi đều phải chịu lãi phạt và bị đình chỉ
sử dụng hình thức này.
- Cho vay hợp vốn: một nhóm tổ chức tín dụng, ngân hàng cùng cho
vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng,
trong đó một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức

tín dụng khác.
- Cho vay trả góp: ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều
lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp
dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
15
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng
trả nợ của khách hàng vay.
• Các hình thức phân loại khác:
- Cho vay theo mục đích sử dụng vốn: cho vay đối với các tổ chức tài
chính nhằm mục đính đảm bảo thanh khoản, cho vay tiêu dùng, cho vay
thương mại…
- Cho vay theo đối tượng khách hàng: cho vay cá nhân, cho vay doanh
nghiệp, cho vay các tổ chức chính trị xã hội…
- Cho vay theo lĩnh vực kinh tế: cho vay nông nghiêp, công nghiệp, xây
dựng, dịch vụ,…
1.2.2.Sự cần thiết của mở rộng cho vay khách hàng cá nhân của NHTM
Đối với ngân hàng, ngoài hai nhược điểm chính là rủi ro và chi phí cao,
cho vay khách hàng cá nhân có vai trò và lợi ích quan trọng như:
• Đối với ngân hàng
- Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy
động các loại tiền gửi cho ngân hàng.
- Tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao
thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
• Đối với khách hàng cá nhân
Họ được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền và đặc biệt quan
trọng hơn nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có

tính cấp thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tính cấp
bách, như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục và y tế.
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
16
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
• Đối với nhà sản xuất
Tạo điều kiện để người tiêu dùng có thể mua hàng hoá nhiều hơn và
nhanh hơn là đã giúp nhà sản xuất bán được sản phẩm, quay vòng vốn nhanh
hơn, mở rộng sản xuất, do đó lợi nhuận cũng tăng lên. Đây cũng là nguyên do
khiến càng ngày càng nhiều nhà sản xuất mong muốn hợp tác với Ngân hàng
để mở rộng cho vay tiêu dùng.
• Đối với nền kinh tế
Nếu cho vay khách hàng cá nhân được dùng để tài trợ cho các chi tiêu
về hàng hóa và dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu,
tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều công ăn việc làm cho
người lao động trong xã hội.
Mặt khác, hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực tài chính -
ngân hàng đã tạo ra cơ hội cho các ngân hàng thương mại Việt Nam phát triển
và tự khẳng định mình, song nó cũng tạo ra những thách thức lớn mà các
ngân hàng phải đối đầu. Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như vậy, khi
mà thị phần của các ngân hàng dần bị chiếm chỗ bởi các định chế tài chính
khác, các ngân hàng thương mại Việt Nam phải làm gì để giữ vững vị thế của
mình?
Vậy liệu các ngân hàng thương mại Việt Nam có nên thực hiện ồ ạt,
đồng loạt ngay các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng bán lẻ hay không? Câu
trả lời là không nên và cũng không phù hợp với điều kiện thực tế của các ngân
hàng Việt Nam hiện nay. Với nguồn vốn sẵn có, nguồn nhân lực dồi dào,
nhưng trong điều kiện công nghệ và cơ sở vật chất còn yếu, các Ngân hàng

thương mại Việt Nam trước tiên nên thực hiện hoạt động cho vay với các
khách hàng cá nhân, và coi đó là bước đi ban đầu an toàn và hiệu quả trong
chiến lược ngân hàng bán lẻ.
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
17
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
1.3.Những nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay khách hàng cá nhân
của NHTM
Dư nợ cho vay khách hàng cá nhân tăng là chỉ tiêu phản ánh mở rộng
cho vay của ngân hàng. Đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho
vay xem xét những nhân tố có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của dư nợ cho
vay.
1.3.1.Những nhân tố từ phía ngân hàng
• Mục tiêu của ngân hàng
Trong một thời kỳ nhất định tất cả các hoạt động của ngân hàng đều
nhằm đạt được một muc tiêu, chiến lược kinh doanh nào đó đã được đặt ra.
Do đó quyết định mở rộng cho vay đối với bất kỳ đối tượng nào cũng đều
phải căn cứ vào mục tiêu hoạt động chung của ngân hàng.
• Lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay là nhân tố có tác động trực tiếp đến thu nhập từ cho
vay của ngân hàng.
Thu lãi cho vay = Dư nợ cho vay (đến thời điểm tính lãi) x lãi suất cho
vay
Như vậy lãi suất cao có thể mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng.
Nhưng để mở rộng cho vay thì việc nâng cao lãi suất cho vay là không hợp lý.
Vì lãi suất cho vay có tác động ảnh hưởng đến dư nợ cho vay thông qua tăng
giá trị món vay. Trên thị tường còn rất nhiều ngân hàng, lãi suất cho vay là
yếu tố quyết định đến lợi ích kinh tế của họ, họ cần lựa chọn cho vay ở những

nơi có lãi suất thấp hoặc có lãi suất phù hợp với nhu cầu của họ nhất.
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
18
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
Lãi suất là công cụ điều chỉnh nguy hiểm, như “con dao hai lưỡi”: nếu
vì muốn tăng dư nợ cho vay, ngân hàng hạ thấp lãi suất thì kết quả là khách
hàng đến vay nhiều hơn, tăng được dư nợ cho vay nhưng thu nhập của ngân
hàng từ cho vay lại giảm không đảm bảo được mở rộng cho vay nhưng vẫn
duy trì mục tiêu lợi nhuận. Nếu vì mục tiêu lợi nhuận mà ngân hàng tăng lãi
suất cho vay thì khách hàng vay giảm, dư nợ cho vay giảm, không thực hiện
được mở rộng cho vay. Vì vậy bài toán đặt ra khi muốn mở rộng cho vay là
phải tính toán được một mức lãi suất cho vay phù hợp vừa đảm bảo được
khách hàng đến vay vốn ngày càng nhiều vừa đảm bảo được lợi nhuận cho
ngân hàng.
Ngân hàng có các mức lãi suất cho vay khác nhau tùy thuộc vào kỳ hạn
của khoản vay, tùy theo loại tiền vay và tùy thuộc vào từng đối tượng khách
hàng. Ngân hàng khi thỏa thuận lãi suất cho vay với khách hàng phải tính đến
rủi ro, lãi suất hòa vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường, mức lợi nhuận
mong muốn tối thiểu của ngân hàng, chi phí vốn, chi phí quản lý khác của
ngân hàng, thuế, tỷ lệ lạm phát…
• Quy trình, thủ tục, phương thức cho vay của ngân hàng
Mỗi đối tượng khách hàng khác nhau đều có đặc điểm hoạt động sản
xuất kinh doanh khác nhau, trình độ quản lý khác nhau dẫn đến nhu cầu vay
vốn cũng như khả năng đáp ứng những yêu cầu mà ngân hàng đặt ra cũng
khác nhau (như các yêu cầu về tài sản đảm bảo, lập phương án vay vốn…). Vì
vậy quy trình, thủ tục cho vay cần xây dựng phù hợp, trung hòa được hai mục
tiêu là an toàn tín dụng cho ngân hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách
hàng, áp dụng linh hoạt đối với mỗi khách hàng trên cơ sở hai bên cùng có

lợi.
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
19
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
Mặt khác hoàn thành tốt quy trình cho vay trong tất cả các bước từ điều
tra, thẩm định, quyết định cho vay, phát tiền vay và xử lý thu hồi nợ là nhằm
hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Phương thức cho vay có ảnh hưởng trực tiếp đến việc vay vốn của
khách hàng vì khi vó nhu cầu vay vốn khách hàng sẽ lựa chọn một phương
thức cho vay phù hợp nhất với nhu cầu của họ. Hiên nay các ngân hàng đều
có rất nhiều phương thức cho vay để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng khi
đến vay vốn: cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức thấu chi…
Ngân hàng nào càng áp dụng nhiều phương thức cho vay đa dạng với những
điều kiện hấp dẫn cho khách hàng càng có điều kiện phục vụ nhiều khách
hàng hơn, khách hàng đến vay nhiều hơn, có khả năng tăng dư nợ tốt hơn.
• Mạng lưới chi nhánh ngân hàng và đội ngũ cán bộ ngân hàng
Việc mở rộng mạng lưới ngân hàng ngoài ở việc mở thêm nhiều chi
nhánh mới ngân hàng cũng cần phải nâng cấp cơ sở vật chất của chi nhánh.
Trang thiết bị đầy đủ và hiện đại giúp cho ngân hàng có thể phục vụ tốt nhất
các nhu cầu của khách hàng về các nghiệp vụ thực hiện cũng như các dịch vụ
bổ trợ, tạo lòng tin, sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng và do đó
thu hút khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Đặc biệt với sự phát triển
như vũ bão về công nghệ thông tin như hiện nay, các trang thiết bị tin học đã
giúp cho ngân hàng có được thông tin và xử lý nhanh chóng, kịp thời chính
xác, trên cơ sở đó quyết định tín dụng đúng đắn, không bỏ lỡ thời cơ trong
kinh doanh giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh toán được thuận tiện,
nhanh chóng, chính xác.
Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng cũng có ảnh hưởng

đến mở rộng cho vay. Đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ
giỏi, có đạo đức, có năng lực trong việc quản lý đơn xin vay, định giá tài sản
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
20
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
thế chấp , giám sát số tiền vay và có các biện pháp hữu hiệu trong việc thu hồi
nợ vay của ngân hàng giúp ngân hàng có thể có được những khoản tín dụng
đảm bảo, ngăn ngừa được những rủi ro khi thực hiện một khoản tín dụng.
Như vậy, một ngân hàng có được một chính sách tín dụng hợp lý
nhưng nếu không có đội ngũ cán bộ tín dụng năng động sáng tạo, có đầy đủ
kiến thức chuyên môn và đạo đức nghệ nghiệp thì cũng không thể đảm bảo
được chất lượng các khoản tín dụng cũng như mở rộng quy mô tín dụng và
điều này tất yếu sẽ ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
• Tình hình huy động vốn
Ngân hàng chỉ có thể tiến hành mở rộng cho vay khi có một lượng vốn
đủ lớn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, tăng quy mô cho vay. Thực tế vốn
tự có của ngân hàng là rất nhỏ bé nên các ngân hàng phải tìm mọi cách huy
động vốn trong nền kinh tế. Hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả là điều kiện
để ngân hàng tiến hành mở rộng cho vay.
Mặt khác cơ cấu vốn huy động được cũng có ảnh hưởng: nếu nguồn
huy động được chủ yếu là ngắn hạn thì ngân hàng bị hạn chế nếu muốn mở
rộng cho vay trung, dài hạn và ngược lại. Ngân hàng Nhà nước còn quy định
tỷ lệ chuyển hoán tối đa nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn, đây
cũng là điểm hạn chế ngân hàng mở rộng cho vay.
1.3.2.Các nhân tố từ phía khách hàng
• Nhu cầu vay vốn của khách hàng
Nhu cầu vay vốn của khách hàng ảnh hưởng đến giá trị của món vay từ

đó làm tăng hay giảm dư nợ cho vay của ngân hàng.
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
21
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
Nhu cầu vay vốn vủa khách hàng là ngắn hạn hay trung, dài hạn ảnh hưởng
đến cơ cấu dư nợ theo kỳ hạn của ngân hàng, cũng là yếu tố quyết định mở
rộng cho vay ngắn hạn hay trung, dài hạn.
• Năng lực quản lý và sử dụng vốn vay
Nếu các phương án kinh doanh của khách hàng không phù hợp và kế
hoạch sử dụng vốn vay không hợp lý thì không được ngân hàng xem xét cho
vay vốn hoặc không dự kiến được hết những biến động của thị trường dẫn đến
khả năng trả nợ kém hay không trả được nợ… Những điều này đều ảnh hưởng
đến mở rộng cho vay của ngân hàng.
Cán bộ tín dụng ngân hàng cần xác định tình hình tài chính hiện tại của
khách hàng, dự đoán được xu hướng tài chính: khả năng sinh lời, rủi ro tiềm
năng của khách hàng… từ đó mới có thể ra quyết định cho vay.
Nếu khách hàng không có khả năng tự chủ về tài chính thì rất dễ bị
động trong sản xuất kinh doanh, nợ đến hạn không có khả năng thanh toán
ngay, do vậy ngân hàng hạn chế cho vay đối với những khách hàng hiện đã có
vốn đi vay quá nhiều mà vốn tự có quá ít.
• Khả năng trả nợ của khách hàng
Không thể mở rộng cho vay bằng mọi giá mà không quan tâm đến
khách hàng có trả nợ được hay không. Đây là yếu tố quan trọng nhất để đánh
giá món vay an toàn và hiệu quả. Một khách hàng có tư cách đạo đức tốt, có
tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những
khoản vốn vay của ngân hàng khi đến hạn nợ, qua đó đảm bảo an toàn và
nâng cao chất lượng tín dụng.
• Tài sản đảm bảo

Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
22
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
Đối với các khách hàng cá nhân, việc vay vốn chủ yếu dùng cho sản
xuất và tiêu dùng. Do đó, bên cạnh phương án vay vốn, kế hoạch trả nợ, thu
nhập, tài sản đảm bảo cũng là một yếu tố quan trọng song không phải là cốt
yếu khi ngân hàng tiến hành ra quyết định cho vay. Đây được coi như nguồn
trả nợ dự phòng cho ngân hàng khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động
sản xuất kinh doanh không đủ để trả nợ.
1.3.3.Các nhân tố khác
• Môi trường pháp lý
Hoạt động tín dụng ngân hàng được quy định chặt chẽ bới các văn bản
quy phạm pháp luật do NHNN ban hành. Các đối tượng khách hàng nằm
trong chiến lược mở rộng cho vay của ngân hàng cần được thừa nhận về mặt
pháp lý. Đây là điều kiên để người vay vốn yên tâm, mạnh dạn đầu tư, sản
xuất còn ngân hàng thì thuận lợi hơn khi ra các quyết định cho vay.
Mặt khác mở rộng cho vay nhưng vẫn phải duy trì chất lượng và hiệu
quả cho ngân hàng. Nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, việc thực thi pháp
luật không nghiêm sẽ tạo ra kẽ hở trong quản lý tín dụng, gây nên những rủi
ro trong hoạt động ho vay như khách hàng có hành vi lừa đảo để vay vốn, cán
bộ ngân hàng có hành vi sai trái… ảnh hưởng đến chất lượng cho vay.
• Các đối thủ cạnh tranh trên địa bàn
Trên cùng một địa bàn thường có rất nhiều tổ chức tín dụng cùng hoạt
động: các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Quỹ tín dụng. Khách hàng là
người được quyền chọn lựa làm việc với tổ chức nào phù hợp nhất, đem lại
lợi ích kinh tế cao nhất đối với họ. Vì vậy các hoạt động tín dụng và sự cạnh
tranh của các đối thủ trên cùng địa bàn là vấn đề có ảnh hưởng lớn khi ngân
hàng có quyết định mở rộng cho vay.

Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
23
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
Nếu các tổ chức tín dụng trên cùng địa bàn cùng có xu hướng mở rộng
cho vay đối với một đối tượng thì khi ra quyết định có mở rộng cho vay với
cùng đối tượng đó hay không, ngân hàng cần có chính sách cạnh tranh tín
dụng phù hợp với các mức lãi suất, thời hạn cho vay có thể cạnh tranh thị
phần với các đối thủ cạnh tranh. Có thể ngân hàng cần gia tăng dịch vụ tiện
ích hay đơn giả hóa thủ tục cho vay… để tăng khả năng cạnh tranh.
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
24
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
Chương 2: Thực trạng cho vay khách hàng cá nhân tại
Ngân hàng Đông Nam Á – Chi nhánh Láng Hạ
2.1.Tổng quan về Ngân hàng Đông Nam Á – Chi nhánh Láng Hạ
2.1.1.Lịch sử phát triển của Ngân hàng Đông Nam Á – Chi nhánh Láng
Hạ
Căn cứ Quyết định số 888/2005/QĐ-NHNN ngày 16/06/2005 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định về việc mở, thành lập và
chấm dứt hoạt động sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự
nghiệp của ngân hàng thương mại;
Xét đề nghị của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng thương mại cổ
phần Đông Nam Á tại tờ trình số 42,43/2006 ngày 25/05/2006 và hồ sơ liên
quan về việc xin mở Chi nhánh Láng Hạ, Chi nhánh Hai Bà Trưng tại thành
phố Hà Nội;
Theo đề nghị của Vụ Trưởng Vụ Các Ngân hàng và tổ chức tín dụng

phi ngân hàng, quyết định chấp thuận cho Ngân hàng thương mại cổ phần
Đông Nam Á được mở chi nhánh tại thành phố Hà nội, với tên gọi và địa chỉ
như sau:
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á – Chi nhánh Láng Hạ,
viết tắt là SeABank – Chi nhánh Láng Hạ; Trụ sở tại 22 Láng Hạ, quận Đống
Đa, thành phố Hà Nội.
Ngày 22/09/2006, SeABank – Chi nhánh Láng Hạ được thành lập. Với
tổng số cán bộ nhân viên của Chi nhánh là 27 người được bố trí như sau:
• Giám đốc chi nhánh: 1 người
Đinh Xuân Như Anh Tài chính Doanh nghiệp
46C
25

×