Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại ngân hàng công thương chi nhánh Nam Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.75 KB, 51 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kì hội nhập và phát triển mạnh mẽ, vì vậy
nhu cầu về vốn cho nền kinh tế là rất lớn. Nhận thức được nhu cầu của thị
trường nên các ngân hàng đã sử dụng rất nhiều biện pháp để nâng cao hiệu
quả huy động vốn. Tuy nhiên hiện nay việc huy động vốn của các ngân hàng
còn nhiều bất hợp lý. Điều này dẫn tới chi phí vốn cao, quy mô không ổn
định, việc tài trợ cho các danh mục tài sản không còn phù hợp với quy mô,
kết cấu từ đó làm hạn chế khả năng sinh lời, buộc ngân hàng phải đối mặt với
các loại rủi ro.v.v. Do đó, việc tăng cường huy động vốn từ bên ngoài với chi
phí hợp lý và sự ổn định cao là yêu cầu ngày càng trở nên cấp thiết và quan
trọng.
Là một bộ phận cấu thành trong guồng máy của hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển
nền kinh tế Việt Nam song cũng không tránh khỏi những khó khăn chung.
Nâng cao hiệu quả của hoạt động huy động vốn để củng cố sự tồn tại và phát
triển ngân hàng, đã đang và sẽ là những vấn đề được quan tâm bởi Ngân hàng
Công Thương Việt Nam nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung.
Chính vì vậy trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương
Chinh nhánh Nam Thăng Long, em đã mạnh dạn đi sâu tìm hiểu và hoàn
thành đề tài: "Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy
động vốn tại Ngân hàng Công Thương – Chi nhánh Nam Thăng Long".
Bùi Thị Phương Hoa 1
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
Đề tài được chia làm ba chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về nghiệp vụ huy động vốn của
Ngân hàng
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Công
Thương chi nhánh Nam Thăng Long
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác huy động


vốn tại Ngân hàng Công Thương chi nhánh Nam Thăng Long
Do thời gian có hạn, vấn đề lại rất phức tạp và đa dạng, hơn nữa khả
năng chuyên môn và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế, nên những gì em
trình bày trong chuyên đề khó tránh khỏi sai sót, em rất mong có sự bổ xung,
góp ý của các thầy, cô và ngân hàng.
Bùi Thị Phương Hoa 2
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
Một số lý luận cơ bản về nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng
1.1.Khái niệm và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng
1.1.1. Khái niệm vốn của NHTM.
Nguồn vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Vậy, nguồn vốn của NHTM là gì?
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập
và huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
Thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ
sở hữu của chúng gửi vào Ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay
đầu tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền dử dụng vốn cho Ngân hàng,
để Ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập.
Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại
vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại
quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng
1.1.2.1. Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành NHTM

Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt độnh kinh doanh, ngân hàng
không thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu không có vốn. Vốn không
chỉ là.phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu
của NHTM. Những ngân hàng trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh
Bùi Thị Phương Hoa 3
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn lớn là lợi thế đầu tiên trong việc chấp hành
pháp luật trước hết là luật NHTW, luật các TCTD, tạo thế mạnh và thuận lợi
trong kinh doanh tiền tệ. Chính vì thế, có thể nói vốn làđiểm đầu tiên trong
chu kỳ kinh doanh của ngân hàng, là khâu cốt tử của ngân hàng. Do đó, ngoài
vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì ngân hàng phải
thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động
của mình
1.1.2.2. Vốn quyết định khả năng thanh toán của Ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô
hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải tạo được uy tín. Uy tín đó phải được thể
hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả cho khách hàng của
ngân hàng. Chúng ta đã biết, đại bộ phận vốn của ngân hàng là vốn tiền gửi
và đi vay, do vậy ngân hàng phải trả cho khách hàng khi họ có yêu cầu rút
tiền. Với một ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, khi nhu cầu vay vốn trên thị
trường là rất lớn, một mặt ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay, mặt
khác với quy mô nhỏ, ngân hàng nếu cho vay tối đa nguồn vốn huy động
đuợc, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán. Trong khi đó, với một
ngân hàng trường vốn, họ thực hiện dự trữ đủ khả năng thanh toán đồng thời
vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh tế, do đó sẽ tạo được uy tín
ngày càng cao.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của
ngân hàng càng lớn. Vì vậy nếu loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh
toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn

khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể
hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt
động cạnh tranh có hiệu quả nhằm giữ chữ tín, vừa nâng cao vị thế của ngân
hàng.
Bùi Thị Phương Hoa 4
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2.3. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt
động kinh doanh khác của Ngân hàng
Vốn của Ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng
tín dụng. Thông thường, các Ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh,
khoản mục đầu tư, khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh
hưởng đến khả năng thu hút vốn của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư,
thậm chí không đáp ứng được nhu cầu vốn vay của doanh nhiệp. Họ sẽ mất
khách hàng và không tận dụng được cơ hội kinh doanh. Nếu là Ngân hàng
lớn, nguồn vốn dồi dào chắc chắn họ sẽđáp ứng được nhu cầu về vốn, cóđiều
kiện để mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp và thị trường tín
dụng.
Nguồn vốn lớn còn giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều
loại hình khác nhau như: Liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh
doanh chứng khoán… các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và
tạo thêm vốn cho Ngân hàng. đồng thời, nâng cao uy tín và tăng sức cạnh
tranh trên thị trường. Vì vậy, vốn có vai trò quyết định trong hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng.
1.1.2.4 Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc
mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối
lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định
mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều
khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và

ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng làđiều kiện
để bổ xung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
và quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng
tổng hòa các nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó sẽ giúp ngân hàng có đủ khả
Bùi Thị Phương Hoa 5
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là
cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch
vụ thuê mua (leasing), mua bán nợ (factoring), kinh doanh trên thị trường
chứng khoán… Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần
phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân hàng
đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài ra vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho NHNN đảm
bảo khả năng thực thi chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ,
đảm bảo cân đối tiền – hàng trong nền kinh tế.
1.2 Nội dung và tính chất các loại vốn của ngân hàng
1.2.1 Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng thương mại là vốn tự có do ngân hàng
tạo lập được thuộc sở hữu riêng của ngân hàng, thông qua góp vốn của các
chủ sở hữu hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh. Ở những nước khác nhau,
định nghĩa về vốn tự có có thể khác nhau nhưng nét chung nhất vốn tự có bao
gồm các thành phần sau:
- Vốn góp của chủ sở hữu để thành lập hoặc mở rộng ngân hàng.
- Các quỹ dự trữ được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng theo cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu
vốn như: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính
- Vốn coi như tự có: Lợi nhuận chưa chia…
Vốn chủ sở hữu mang tính chất ổn định, nó thường chiếm tỷ trọng nhỏ

trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, nhưng nó có một vị trí quan trọng quyết
định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng kinh doanh, huy
động vốn và cho vay. Người ta ví nó như một đĩa đệm chống đỡ sự giảm giá
trị của những tài sản Có của ngân hàng mà có thể đẩy ngân hàng đến tình
trạng thiếu khả năng chi trả và phá sản.
Bùi Thị Phương Hoa 6
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2 Vốn tiền gửi
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm
hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút
vốn.Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh
doanh của NHTM.
Vốn tiền gửi gồm có
- Tiền gửi không kì hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra
bất kì lúc nào. Mục đích của người gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài
sản và thực hiện các thanh toán qua ngân hàng. Đây là nguồn vốn biến động
thường xuyên. Do đó giải pháp chủ yếu để tăng cường nguồn vốn này không
phải là lãi suất mà là sự an toàn, thuận tiện của nguồn vốn gửi cũng như chất
lượng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng đặc biệt là dịch vụ thanh toán
không dùng tiền mặt.
- Tiền gửi có kì hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau
một thời gian nhất định. Mục đích của người gửi tiền là thu được lãi suất và
ngân hàng có thể chủ động sử dụng nguồn vốn này vì tính có thời hạn của
nguồn vốn.
- Tiền gửi tiết kiệm: Gồm tiền gửi tiết kiệm có kì hạn và không kì hạn.
Mục đích của người gửi tiền là nhằm hưởng lãi. Lãi suất phải trả cho loại tiền
gửi này khá cao và tương quan với kỳ hạn, có thể với cả quy mô tiền gửi tuỳ
theo sự vận dụng của mỗi Ngân hàng.

Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn
vốn của ngân hàng thương mại, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh
doanh.
1.2.3 Vốn đi vay
Các ngân hàng thương mại có thể vay vốn từ Ngân hàng Trung ương,
vay các ngân hàng hoặc trung gian tài chính khác và vay từ công chúng.
Bùi Thị Phương Hoa 7
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
Vốn đi vay gồm có:
- Phát hành chứng từ có giá: Đặc điểm của khoản nợ này là có tính ổn
định cao, quyền đòi tiền thường xếp sau các khoản tiền gửi.
- Vay ngân hàng trung ương : thông qua hình thức tái cấp vốn mà chủ
yếu là chiết khấu các giấy tờ có giá, cho vay thế chấp ứng trước…
- Vay các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác: Mục đích nhằm
đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng trong thời gian ngắn và đảm bảo nguồn vốn
lưu chuyển liên tục trong hệ thống ngân hàng.
- Các nguồn vốn khác: Tiền vay từ những công ty mẹ của ngân hàng
hay phát hành hợp đồng mua lại…
- Vay nước ngoài: Các ngân hàng cũng có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt
động từ việc phát hành phiếu nợ để vay tiền từ nước ngoài
Vốn vay đã trở thành một nguồn vốn quan trọng của ngân hàng khi nó
làm cho các ngân hàng chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh.Việc áp
dụng một chính sách lãi suất linh hoạt kèm theo các điều kiện phi lãi suất
thích hợp đối với các công cụ nợ khi đi vay ngân hàng có thể chủ động đạt
được nguồn vốn phù hợp với nhu cầu.
1.3 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.3.1 Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi.
Tiền gửi không kỳ hạn.
Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng mà khách hàng không

có thoả thuận trước về thời gian rút tiền. Ngân hàng phải trả một mức lãi suất
thấp hoặc không phải trả một lãi cho số tiền gửi này. Bởi vì, tiền gửi không kỳ
hạn của khách hàng rất biến động, khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào, do
đó ngân hàng không chủ động sử dụng số vốn này, ngân hàng phải dự trữ một
số tiền để đảm bảo có thể thanh toán ngay khi khách hàng có nhu cầu. Tiền
gửi không kỳ hạn gồm hai loại:
Bùi Thị Phương Hoa 8
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng
để thực hiện các khoản thanh toán về tiền mua hàng hoá, dịch vụ và các
khoản thanh toán khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của
khách hàng. Đứng trên góc độ là khách hàng thì đây là tiền khách hàng gửi
vào ngân hàng để sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt: Séc,
thẻ thanh toán, uỷ nhiệm chi Họ có quyền rút ra bất kỳ lúc nào thông qua
công cụ thanh toán. Đứng trên góc độ ngân hàng thì ngân hàng coi đây là một
khoản tiền mà họ phải có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng bất kỳ lúc nào.
Tuy nhiên ngân hàng cần tận dụng loại tiền gửi này để làm vốn kinh doanh
của mình bởi vì trong quá trình lưu chuyển vốn của ngân hàng do có sự chênh
lệch giữa các khoản tiền gửi vào và rút ra giữa các tài khoản của khách hàng.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là loại tiền gửi không kỳ hạn, khách
hàng gửi vào ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn về tài sản. Tiền gửi không kỳ
hạn thuần tuý cũng là tài sản của người ký thác, họ có quyền rút bất kỳ lúc
nào, ngân hàng luôn luôn phải đảm bảo có thể thanh toán, lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn thuần tuý cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán. Mục đích của
người gửi tiền là bảo đảm an toàn vì khách hàng không xác định được thời
gian nhàn rỗi cho số tiền của họ và họ không có nhu cầu sử dụng tiền gửi
thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn.
Là loại tiền gửi, khách hàng gửi vào ngân hàng có sự thoả thuận trước

về thời hạn rút tiền. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi tương đối ổn định vì
ngân hàng xác định được thời gian rút tiền của khách hàng để thanh toán cho
khách hàng đúng thời hạn. Do đó ngân hàng có thể chủ động sử dụng số tiền
gửi đó vào mục đích kinh doanh trong thời gian ký kết. Đối với loại tiền gửi
này, ngân hàng có rất nhiều loại thời hạn từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng mục
đích là tạo cho khách hàng có được nhiều kỳ hạn gửi phù hợp với thời gian
nhàn rỗi của khoản tiền mà họ có. Chính vì là loại tiền gửi mà ngân hàng có
Bùi Thị Phương Hoa 9
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
quyền sử dụng nó trong thời gian nhất định nên loại tiền gửi này được trả lãi
suất cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm.
Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm hưởng lãi. Khi
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng cấp cho khách hàng một cuốn
sổ, khách hàng phải quản lý và mang theo mỗi khi đến ngân hàng giao dịch.
Xét về bản chất, tài khoản tiền gửi tiết kiệm là một phần thu nhập của
cá nhân người lao động mà họ chưa đưa vào tiêu dùng, và là một dạng đặc
biệt để tích luỹ tiền tệ thay cho hình thức cất trữ vàng, hàng hoá. Tiền gửi tiết
kiệm có ba loại:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ
lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người
khác. Số dư tiền gửi này không lớn, nhưng ít biến động, vì vậy đối với loại
tiền gửi này các Ngân hàng thương mại thường trả lãi suất cao hơn với tiền
gửi thanh toán.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận về thời
gian gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn.
Loại hình tiết kiệm này khá quen thuộc ở Việt Nam, các Ngân hàng thương
mại Việt Nam thường huy động tiết kiệm với thời hạn phong phú từ ba tháng
đến một năm.

Tiết kiệm dài hạn: Đây là loại tiền gửi phổ biến ở một số nước công
nghiệp. Loại tiết kiệm này có tính ổn định cao bởi vì thời gian gửi tiền từ một
năm trở lên, do đó ngân hàng chủ động sử dụng nguồn vốn này, nó tạo cho
ngân hàng có tính chủ động sử dụng vốn cho mục đích vốn dài hạn. Để thu
hút vốn này, ngân hàng thường phải trả lãi suất cao.
1.3.2 Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá mà các Ngân hàng thương mại dùng để huy động vốn
thực chất là các giấy nhận nợ mà ngân hàng trao cho những người cho ngân
Bùi Thị Phương Hoa 10
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng vay tiền xác nhận quyền đòi nợ của khách hàng đối với ngân hàng ở một
mức lãi suất và ngày hoàn trả nhất định.
Việc phát hành giấy tờ có giá của ngân hàng để hình thành vốn sử dụng
có tính ổn định cao, đồng thời nhằm giải quyết những khoản vốn thiếu hụt có
tính tình thế do khả năng thu hút bằng nguồn tiết kiệm hạn chế. Ngân hàng
thường sử dụng các loại giấy tờ có giá dưới các hình thức:
Phát hành trái phiếu:
Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân hàng
phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi
phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành
trái phiếu, các Ngân hàng thương mại chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung
Ương, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị chi
phối bởi uy tín của ngân hàng.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi.
Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một ngân hàng. người
sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến
hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường tiền tệ.
Phát hành kỳ phiếu.
Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc điểm

giống như trái phiếu nhưng có thời hạn ngắn hơn trái phiếu vì vậy nó được sử
dụng cho mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng.
Giấy tờ có giá khác.
Điển hình là việc phát hành EURO DOLLAR. Đây là hình thức phát
hành phiếu nợ để thu hút vốn ở nước ngoài. Nó có đặc điểm là chỉ dùng huy
động vốn bằng đô la và khi trả lãi và vốn gốc cũng bằng đô la. Đối với loại
này ngân hàng sử dụng để thu hút vốn huy động ngắn hạn (3 tháng). ở các
trung tâm tài chính, loại phiếu nợ này được chấp nhận như là đô la. Quyền
phát hành ở một số nước trong đó có Việt Nam được giới hạn ở một số ngân
Bùi Thị Phương Hoa 11
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng đặc biệt, như Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng xuất nhập khẩu. Các
ngân hàng trên được phép phát hành phiếu nợ này ở trong nước và nước
ngoài, còn với các ngân hàng khác chỉ được phát hành ở nước ngoài.
Huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá các Ngân hàng
thương mại phải trả lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi. Vì vậy khi phát hành các
Ngân hàng thương mại phải căn cứ vào đầu ra để quyết định đến khối lượng
huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động phù hợp.
1.3.3 Vay Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng khác.
Đây là nguồn vốn mà Ngân hàng thương mại có được nhờ thông qua
quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Trung Ương
hoặc các Ngân hàng thương mại với nhau hay với các tổ chức tín dụng khác.
Vốn đi vay là nguồn vốn mà ngân hàng chịu chi phí cao hơn vốn huy động vì
vậy chỉ trong trường hợp ngân hàng thiếu vốn khả dụng trong thời gian ngắn
nào đó thì ngân hàng mới tìm đến các Ngân hàng thương mại khác để thoả
mãn nhu cầu vốn khả dụng.
Nếu Ngân hàng thương mại không thoả mãn được nhu cầu đó từ phía
các Ngân hàng thương mại khác thì giải quyết tiếp theo là đi vay của Ngân
hàng Trung Ương. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, các

Ngân hàng thương mại có thể vay Ngân hàng Trung Ương các loại vốn: Vốn
vay ngắn hạn bổ sung vốn ngắn hạn còn thiếu của Ngân hàng thương mại
hoặc vốn vay để thanh toán giữa các ngân hàng nhằm bù đắp những thiếu hụt
tạm thời trong thanh toán, hoặc các Ngân hàng thương mại mang các giấy tờ
có giá đến Ngân hàng Trung Ương xin tái chiết khấu (tái cấp vốn).
Ngân hàng Trung Ương thông qua nhu cầu vay vốn của Ngân hàng
thương mại với Ngân hàng Trung Ương nhằm mục đích phát hành thêm tiền
Trung Ương theo kế hoạch, bổ sung lượng vốn khả dụng cho Ngân hàng
thương mại một cách thường xuyên và là cứu cánh cho vay cuối cùng nhằm
cứu nguy cho các Ngân hàng thương mại khi cần thiết, nếu sự đổ vỡ của các
Bùi Thị Phương Hoa 12
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngân hàng thương mại có thể gây ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống
ngân hàng.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của ngân hàng
1.4.1 Những nhân tố khách quan
1.4.1.1 Môi trường chính trị - pháp luật
Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt chịu tác động bởi nhiều
chính sách, các qui định của Chính phủ và của NHTW. Thay đổi chính sách
của nhà nước, của NHTW về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh cũng như khả năng thu hút vốn của NHTM. Sự ổn
định về chính trị hay chính sách ngoại giao cũng tác động đến quan hệ nguồn
vốn của một ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Như vậy, môi trường chính trị pháp luật là nhân tố khách quan có tác động rất
lớn tới quá trình huy động vốn của NHTM. Mục tiêu hoạt động của NHTM
được xây dựng vào các qui định, qui chế của Nhà nước để đảm bảo an toàn và
nâng cao niềm tin từ khách hàng.
1.4.1.2 Môi trường kinh tế
Việc huy động của ngân hàng chịu ảnh hưởng bởi các chỉ tiêu kinh tế

như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập dự tính của người lao động,
tâm lý người gửi tiền, chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sự ổn
định vĩ mô của nền kinh tế Cụ thể thấy khi xảy ra lạm phát dẫn đến việc
người dân thay vì gửi tiền vào ngân hàng với lo sợ đồng tiền mất giá sẽ
chuyển sang đầu tư vào những lĩnh vực có giá trị bền vững như vàng bạc,
kim cương, đất … để đạt được sự an toàn hơn; nhất là khi tỷ lệ lạm phát cao
hơn cả lãi suất huy động thưc tế. Hay như khi nền kinh tế tăng trưởng, sản
xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường
cho việc thu hút vốn của NHTM thuận lợi. Ngược lại, khi nền kinh tế suy
thoái, lạm phát tăng, người dân không gửi tiền vào ngân hàng mà giữ tiền để
Bùi Thị Phương Hoa 13
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
mua hàng hoá, việc thu hút vốn gặp khó khăn. Vì vậy một môi trường kinh tế
ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn của ngân hàng.
1.4.1.3 Môi trường văn hóa xã hội
Mỗi một quốc gia hay khu vực đều có đặc trưng văn hóa riêng, điều đó
tạo nên tập quán, thói quen…của người dân. Đối với ngân hàng hoạt động
huy động vốn chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường văn hoá. Cụ thể ở các
nước phát triển người dân có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để hưởng
những tiện ích trong thanh toán, hưởng lãi và trong tiềm thức họ ngân hàng là
một phần không thể thiếu được , là một phàn tất yếu của nền kinh tế. Do vậy
ngân hàng gặp không mấy khó khăn trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong
dân cư và tổ chức kinh tế. Ngược lại ở những nước đang phát triển như Việt
Nam vẫn có tâm lý ưu dùng tiền mặt, người dân chưa thấy hết được các tiện
ích mà ngân hàng cung cấp việc huy độn vốn của ngân hàng gặp rất nhiều
khó khăn. Các tập quán tiêu dùng này khó có thể được thay đổi ngay một sớm
một chiều. Do đó để mở rộng nguồn huy động, các ngân hàng phải nỗ lực hết
mình: cải cách quy trình, thủ tục, phát triển chính sách khách hàng
1.4.1.4 Thu nhập của người dân

Mức thu nhập của người dân là một trong những yếu tố trực tiếp quyết
định đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung, thu nhập của người dân
càng cao, nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu
cầu tiêu dùng và lúc này nhu cầu mở tài khoản cũng như gửi tiền vào ngân
hàng sẽ ngày một tăng lên. Thực tế cho thấy, đất nước nào kinh tế càng phát
triển, thu nhập dân cư càng cao và ổn định thì tỷ trọng dân cư mở tài khoản,
thanh toán và gửi tiền vào ngân hàng càng lớn và ngược lại.
1.4.1.5 Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng
Hiện nay đất nước ta đang trong thời kì hội nhập mạnh mẽ, vì vậy sự
canh tranh giưa các ngân hàng diễn ra khốc liệt hơn bao giờ hết. Sự cạnh
tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng mà còn bao gồm cả các tổ chức tín
Bùi Thị Phương Hoa 14
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
dụng, các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính, và các loại hình
dịch vụ mà các tổ chức khác cung cấp. Hơn nữa trong giai đoạn gần đây
chúng ta đang chịu ảnh hưởng rất nhiều từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã
gây nên những khó khăn lớn cho các ngân hàng. Thực tế cho thấy đã có
những thời kì diễn ra cuộc chay đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng.
Không chỉ thế mỗi ngân hàng còn thường xuyên tung ra các gói dịch vụ mới
với những khuyến mại hấp dẫn nhằm thu hút nguồn tiền gửi trong dân. Sự
cạnh tranh này đã tác động rất lớn tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng,
điều đó đòi hỏi các ngân hàng phải có các chính sách huy động vốn phù hợp
với tình hình thị trường.
1.4.2. Các nhân tố chủ quan
1.4.2.1 Uy tín, hình ảnh của ngân hàng.
Xuất phát từ yếu tố tâm lý và thói quen tiêu dùng của người dân luôn
mong muốn sự an toàn đối với khoản tiền đầu tư của mình. Nên họ luôn lựa
chọn những ngân hàng có uy tín trên thị trường để chắc chắn khoản tiền của
mình sẽ không bị thất thoát khi có biến cố bất ngờ xảy ra. Một ngân hàng có

uy tín, có hình ảnh đẹp (như đảm bảo chất lượng thanh toán, có phong cách
giao dịch, chất lượng phục vụ tốt…) sẽ là cơ sở để tạo niềm tin cho khách
hàng khi quyết định gửi tiền, mở tài khoản và sử dụng các dịch vụ của ngân
hàng. Mặc dù không phải là yếu tố quyết định song uy tín và hình ảnh của
ngân hàng có tác động không nhỏ tới việc thúc đẩy người dân gửi tiền, mở tài
khoản và thanh toán qua ngân hàng, tạo tiền đề cho việc họ huy động được
những nguồn vốn lớn hơn với chi phí rẻ hơn và tiết kiệm được thời gian.
1.4.2.2 Quy mô vốn chủ sở hữu
Vốn của chủ sở hữu đóng vai trò như cái đệm chống đỡ sự sụt giảm giá
trị tài sản của NHTM, nó đảm bảo lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng
cũng là yếu tố quyết định giới hạn tối đa của qui mô huy động vốn. Những
ngân hàng có vốn chủ lớn sẽ chiếm lợi thế hơn về quy mô, giúp ngân hàng
Bùi Thị Phương Hoa 15
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
huy động được nguồn vốn lớn, từ đó góp phần thúc đẩy việc mở rộng tín dụng
đối với các thành phần kinh tế.
1.4.2.3 Chính sách của ngân hàng trong việc huy động vốn
Chính sách về lãi suất: Lãi suất là giá cả của khoản tiền mà người mua
phải trả cho người bán. Người bán luôn muốn bán với giá cao, còn người
mua cũng luôn muốn mua với giá thấp. Như vậy người dân có có nhu cầu gửi
tiền vào ngân hàng thì cái đầu tiên họ quan tâm là lãi suất của ngân hàng đó
so với ngân hàng khác.Tuy lãi suất huy động không đóng vai trò quyết định
nhưng với một lãi suất huy động cao thì bao giờ cũng tạo được sự lưu tâm của
khách hàng. Đặc biệt trong giai đoạn nhu cầu về vốn là rất lớn như hiện nay
dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi
tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ đang sử dụng sang
đầu tư vào lĩnh vực khác hay chuyển từ tổ chức tín dụng này sang tổ chức tín
dụng khác. Tuy vậy cạnh tranh bằng lãi suất là cạnh tranh có giới hạn. Một
Ngân hàng nếu không bị khống chế bởi lãi suất huy động “trần” và lãi suất

cho vay “sàn” của NHTW, thì cũng bị khống chế bởi chính lợi nhuận và sự
tồn tại của Ngân hàng.
Hình thức huy động vốn: Đây cũng là một trong những yếu tố có ảnh
hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động
vốn của ngân hàng càng đa dạng, phong phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả năng
thu hút vốn từ nền kinh tế càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác
nhau về nhu cầu và tâm lý của các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng của các
hình thức huy động càng cao thì càng dễ dàng đáp ứng một cách tốt nhất nhu
cầu của dân cư và họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gưỉ tiền phù hợp
mà lại an toàn. Do vậy các NHTM thường cân nhắc rất kỹ trước khi đưa vào
hình thức huy động mới.
Các dịch vụ kèm theo: Một ngân hàng có dịch vụ tốt hiển nhiên sẽ có
nhiều lợi thế hơn các ngân hàng khác. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt các
Bùi Thị Phương Hoa 16
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
ngân hàng phải phấn đấu nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hoá các
dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tăng thu nhập của ngân hàng.
Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không có
giới hạn do vậy đây chính là điểm mạnh để các ngân hàng vươn lên trong
cạnh tranh.
Chính sách khuyếch trương sản phẩm: Trong điều kiện cạnh tranh
mạnh mẽ như ngày nay khó có thể duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả
nên chiến lược phục vụ và quảng cáo trở thành yếu tố vô cùng quan trọng để
thu hút khách hàng. Thái độ phục vụ thân thiện, chu dáo là điều kiện để thu
hút khách hàng , chiến lược quảng cáo phù hợp sẽ giúp ngân hàng có nhiều
khách hàng mới. Do đó để có uy tín trên thị trường, giữ vững mối quan hệ với
khách hàng truyền thống và thu hút thêm nhiều khách hàng mới ngân hàng
phải không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, có chiến lược quảng cáo hợp
lý để để nhiều người biết đến ngân hàng và sản phẩm dịch vụ do ngân hàng

cung ứng.
1.4.2.4 Số lượng các chi nhánh và phòng giao dịch
Hiện nay các ngân hàng không ngừng mở rộng quy mô hoạt động.
Những ngân hàng có quy mô lớn thường có lợi thế hơn những ngân hàng nhỏ
trong việc huy động vốn. Do họ có phạm vi hoạt động lớn nên việc tiếp cận
với khách hàng dễ dàng hơn, và cũng tạo thuận lợi cho khách hàng khi thực
hiện các giao dịch qua ngân hàng. Đồng thời những ngân hàng có quy mô lớn
cũng tạo được tâm lý an tâm cho khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng, bởi
đó thường là những ngân hàng có vị thế và uy tín lớn trên thị trường.
1.4.2.5 Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng
Không chỉ riêng ngân hàng mà trong bất cứ hoạt động nào, ngành nghề
nào, yếu tố con người cũng phải được đặt lên hàng đầu. Các cán bộ nhân viên
ngân hàng có năng lực sẽ phán đoán, xử lý chính xác các tình huống sẽ làm
cho các hoạt động huy động vốn được thực hiện một cách tốt đẹp. Trình độ
Bùi Thị Phương Hoa 17
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
của cán bộ ngân hàng cao sẽ làm cho các thao tác nghiệp vụ được thực hiện
nhanh chóng và hiệu quả. Thái độ trong tiếp xúc của nhân viên với khách
hàng cũng rất quan trọng. Nó có thể lôi kéo khách hàng làm tăng nguồn vốn
huy động đồng thời cũng có thể làm khách hàng rời bỏ gây ra những hậu quả
vô cùng nghiêm trọng trong hoạt động của ngân hàng, trước hết là trong khâu
huy động vốn. Các nhân viên ngân hàng là những người đại diện cho hình ảnh
của ngân hàng. Do đó, để tăng cường huy động vốn thì một điều cực kỳ quan
trọng là các nhân viên ngân hàng phải có đủ những tiêu chí của một nhân viên
ngân hàng chuyên nghiệp: Hiểu biết khách hàng, hiểu biết nghiệp vụ, hiểu
biết quy trình, hoàn thiện phong cách phục vụ.
1.4.2.6 Công nghệ kĩ thuật
Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển. Những máy móc công nghệ
hiện đại ngày càng được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống và ngân

hàng cũng không phải là một ngoại lệ. Trước xu thế đó các ngân hàng trong
nước đã từng bước đưa những công nghệ hiện đại vào việc quản lí cũng như
phục vụ khách hàng. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại, ngân hàng có thể
nhanh chóng thu thập thông tin về khách hàng, về thị trường. Từ đó, có thể
hoạch định ra các hình thức huy động, thời gian huy động, hình thức trả lãi
Mặt khác, nhờ hệ thống thông tin tốt khiến cho ngân hàng có thể nâng cao
hiệu quả huy động vốn. Đồng thời việc ứng dụng các phần mềm quản lí hiện
đại đã tạo một bước tiến mới trong hoạt động ngân hàng.
Nhìn chung có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động
vốn và kết quả kinh doanh của ngân hàng. Những yếu tố tác động này có tính
hai mặt: có thể có tác động tích cực đồng thời có thể tác động tiêu cực tới
ngân hàng. Do đó trước khi áp dụng chính sách mới ngân hàng cần phải
nghiên cứu tìm hiểu kĩ lưỡng để đưa ra những quyết định phù hợp với từng
thời kì. Điều đó sẽ giúp ngân hàng huy động được nguồn vốn lớn với chi phi
rẻ phục vụ tốt cho việc kinh doanh.
Bùi Thị Phương Hoa 18
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 2
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng
Công Thương chi nhánh Nam Thăng Long
2.1. Khái quát về ngân hàng Công Thương chi nhánh Nam Thăng Long
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) được thành
lập từ năm 1988 sau khi tách ra từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Là Ngân
hàng thương mại lớn, giữ vai trò quan trọng, trụ cột của ngành Ngân hàng
Việt Nam. Ngân hàng có hệ thống mạng lưới trải rộng toàn quốc với 150 Sở
Giao dịch, chi nhánh và trên 800 phòng giao dịch/ Quỹ tiết kiệm, có quan hệ
đại lý với trên 850 ngân hàng và định chế tài chính lớn trên toàn thế
giới. Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam là một Ngân hàng đầu tiên

của Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO 9001:2000, là thành viên của Hiệp hội
Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội các ngân hàng Châu Á, Hiệp hội Tài chính
viễn thông Liên ngân hàng toàn cầu(SWIFT), Tổ chức Phát hành và Thanh
toán thẻ VISA, MASTER quốc tế. Và là ngân hàng tiên phong trong việc ứng
dụng công nghệ hiện đại và thương mại điện tử tại Việt Nam. Không ngừng
nghiên cứu, cải tiến các sản phẩm, dịch vụ hiện có và phát triển các sản phẩm
mới nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu của khách hàng.
Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long là một
Ngân hàng thương mại cổ phần trực thuộc NHCT Việt Nam được thành lập
vào ngày 20/03/2001 trụ sở hiện nay đặt ở số 117A Hoàng Quốc Việt, quận
Cầu Giấy, Tp. Hà Nội.
Bùi Thị Phương Hoa 19
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
Về cơ cấu tổ chức của chi nhánh:
2.1.2. Kết quả một số hoạt động của chi nhánh trong vài năm gần đây.
Từ khi thành lập (3/2001) cho đến nay, hoạt động kinh doanh của CN
đã có sự phát triển vượt bậc: Quy mô tổng tài sản tăng gấp 25 lần (từ 200 tỷ
lên 5000 tỷ đồng); nguồn vốn huy động đạt 4800 tỷ đồng tăng gấp 35 lần; dư
nợ đạt 2.600 tỷ đồng, gấp 20 lần so với ngày đầu thành lập, phát triển đa dạng
các sản phẩm dịch vụ ngân hàng và là một trong 10 đơn vị có mức thu phí
ngoài tín dụng cao nhất hệ thống.
Năm 2010, mặc dù gặp không ít khó khăn do nền kinh tế thế giới và
trong nước, Chi nhánh (CN) Nam Thăng Long đã hoàn thành xuất sắc các chỉ
tiêu được giao, đứng vào Top 20 CN đóng góp lợi nhuận cao trong hệ thống
VietinBank. Tổng nguồn vốn huy động đạt trên 4.400 tỷ đồng, bằng 110% kế
hoạch, tăng 33% so với năm 2009; Dư nợ cho vay nền kinh tế trên 2.280 tỷ
đồng, tăng 86 % so với năm 2009 và đạt 117,98% kế hoạch; Lợi nhuận trên
100 tỷ đồng, đạt 101% kế hoạch… Điểm nổi bật là công tác quản trị rủi ro,
nhất là quản trị rủi ro tín dụng được CN rất quan tâm, coi trọng. Do vậy chất

lượng tín dụng của CN khá tốt, không có nợ nhóm 2 và nợ xấu…Đặc biệt sau
hơn 2 năm thực hiện thành công đề án xử lý nợ xấu, cơ cấu lại bảng cân đối
kinh doanh, mở rộng mạng lưới hoạt động, thay đổi về chất trong công tác
Bùi Thị Phương Hoa 20
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
quản trị điều hành… CN đã vươn lên đứng vào Top 3 về đóng góp lợi nhuận
cho hệ thống VietinBank. Đời sống cán bộ nhân viên được cải thiện, phong
cách và lề lối làm việc được đổi mới, hướng tới tính chuyên nghiệp hơn.
2.2 Thực trạng huy động vốn tại NHCT VN chi nhánh Nam Thăng Long
2.2.1 Biến động của thị trường tài chính tiền tệ trong những năm qua
Trong nửa đầu năm 2008, Việt Nam gánh chịu ảnh hưởng của tình
trạng phát triển quá nóng; lạm phát gia tăng; thâm hụt thương mại, tình trạng
bong bóng của thị trường bất động sản và giảm sút chất lượng đầu tư. Trước
tình hình đó, để giữ ổn định nền kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã điều chỉnh từ
mục tiêu tăng trưởng cao sang mục tiêu kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu
và duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý. Vào những tháng cuối năm 2008, rủi ro
liên quan tới mảng cho vay bất động sản dưới chuẩn tại Hoa Kỳ đã thổi bùng
lên cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và hậu quả là một loạt các quốc gia
phát triển cho đến những nền kinh tế mới nổi trong tam giác tài chính Á-Âu-
Mỹ nối tiếp nhau rơi vào suy thoái.
Năm 2008, thị trường ngân hàng Việt Nam cũng đã trải qua những biến
động chưa từng có.Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa
đầu năm 2008 chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng
cuối năm. Đi cùng với quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều
hành chưa từng có của Ngân hàng Nhà nước, tập trung ở các lãi suất chủ chốt,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá. Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà
nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có
1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần giảm đối

với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh
(3 lần tăng, 2 lần giảm).
Trên cơ sở một mức tăng lạm phát kỷ lục trong nhiều năm gần đây, sự
thiếu hụt vốn khả dụng của nhiều ngân hàng, đặc biệt là NHTMCP nhỏ, cuộc
Bùi Thị Phương Hoa 21
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
chạy đua thu hút vốn giữa các ngân hàng, bùng phát vào tháng 5 và tháng 6,
đưa lãi suất liên ngân hàng đạt đến đỉnh với kỷ lục 43%; lãi suất huy động
của nhiều ngân hàng ở mức 19%-20%. Cuộc đua này chỉ thoái trào vào tháng
7/2008 với việc vốn khả dụng nhiều ngân hàng trở nên đảm bảo và các biện
pháp can thiệp mạnh tay của NHNN. Kể từ tháng 9/2008, cùng với cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới và suy thoái toàn cầu, NHNN đã liên tục cắt
giảm lãi suất cơ bản. Theo đó, các NHTM đã “phải” liên tục điều chỉnh lãi
suất huy động - lãi suất cho vay.
Các ngân hàng trong năm 2008 có thể dính vào ba bẫy: Bẫy thiếu thanh
khoản vào đầu năm, bẫy thừa vốn mà không thể cho vay, và bẫy lãi suất
xuống quá nhanh và sâu khiến cho ngân hàng không thể tiếp tục huy động
được vốn. Mặc dù trong năm 2008 không có ngân hàng nào thua lỗ, điều đó
có sự hỗ trợ rất lớn từ NHNN trong nửa cuối năm 2008 với các biện pháp như
tăng lãi suất dự trữ bắt buộc hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ngoài ra, việc
trích lập nợ xấu của nhiều ngân hàng hiện vẫn chưa đạt chuẩn quốc tế. Tỷ lệ
nợ xấu ngân hàng theo công bố vào cuối năm của NHNN chỉ là 43.500 tỷ
đồng, chiếm 3,5% dư nợ tín dụng nhưng con số này dựa trên chuẩn mực
kếtoán Việt Nam. Nhiều TCTD, tuy nhiên, chỉ công bố nợ xấu hạch toán nội
bảng, một tỷlệ thấp so với nợ hạch toán ngoại bảng và do đó, bức tranh nợ
xấu bị che đi một phần đáng kể
Bùi Thị Phương Hoa 22
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp

Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có
trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2
lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12. Tính chất đặc biệt của tỉ
giá năm 2008 cũng thể hiện ở những biến động trái chiều. Trong những tháng
đầu năm, thị trường có hiện tượng ứ đọng ngoại tệ, tỷ giá VND/USD có lúc
xuống “đáy” 15.300 VND. Tuy nhiên, từ tháng 5, vấn đề khan hiếm ngoại tệ
lại diễn ra trên cả thị trường chính thức lẫn thị trường tự do. Với sự can thiệp
của Ngân hàng Nhà nước, cũng như năng lực dự trữ ngoại hối lần đầu tiên
được công khai một cách chính thức, tỷ giá ổn định dần về cuối năm. Tóm lại,
năm 2008 nền kinh tế Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn lớn như tốc độ tăng
trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát và nhập siêu tăng cao, thị trường chứng
khoán và bất động sản không ổn định, sản xuất của các doanh nghiệp gặp
nhiều khó khăn.
Năm 2009 là một năm tiếp tục có nhiều khó khăn và thách thức đối với
nền kinh tế và hệ thống ngân hàng. Việc huy động vốn của ngân hàng phải
đối mặt với rất nhiều khó khăn.
Bùi Thị Phương Hoa 23
NHC- K10
Chuyên đề tốt nghiệp
Có thể thấy, thực tế lãi suất huy động tăng gần sát lãi suất cho vay đã
phản ánh sự căng thẳng nguồn vốn của các ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến các ngân hàng tiến vào cuộc đua lãi suất vào cuối năm. Trước hết do
áp lực về vốn để thực hiện chính sách cho vay ưu đãi của chính phủ và nhu
cầu đáo hạn các khoản tiền gởi vào cuối năm. Khi ngân hàng thực hiện hỗ trợ
lãi suất, một yêu cầu bắt buộc là không được từ chối cho vay nếu đối tượng
đủ điều kiện. Hơn nữa, những hợp đồng tín dụng đã ký từ trước đã đến ngày
giải ngân cũng là một áp lực về vốn đối với ngân hàng. Trong bối cảnh hiện
nay, khó khăn không chỉ đến với ngân hàng thương mại mà cả đối với Ngân
hàng Nhà nước. Bởi lẽ, nếu giữ nguyên hoặc hạ lãi suất cơ bản để hạ giá vốn
cho doanh nghiệp, hỗ trợ chống suy giảm kinh tế thì phải đối mặt với áp lực

cung cầu vốn trên thị trường. Và điều này lại mâu thuẫn với việc nâng lãi suất
cơ bản để giải tỏa cơn khát vốn cho ngân hàng. Mặt khác, để ổn định tăng
trưởng và kiềm chế lạm phát, chính phủ phải bảo vệ sự ổn định của lượng tiền
cung ứng tăng thêm, do thực tế, nếu phát hành thêm một đồng thì vòng quay
của một đồng đó trong một năm lên tới 4,85 lần. Ngoài ra, do tác động của
việc nới lỏng chính sách tài khoá và tiền tệ, nhất là cơ chế hỗ trợ lãi suất trong
10 tháng đầu năm 2009, làm cho việc kiểm soát tốc độ tăng ở mức hợp lý của
Bùi Thị Phương Hoa 24
NHC- K10
Hình 6: Lãi suất huy động tiền gởi VNĐ
năm 2009
Chuyên đề tốt nghiệp
hai chỉ tiêu trên gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng không thuận lợi đối với việc
kiềm soát lạm phát, ổn định lãi suất thị trường trong các tháng cuối năm 2009.
Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước
cũng như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó
khăn trong giai đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế
giới 2008 – 2009. Nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ -
tín dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế
lạm phát gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả. Theo đó, NHNN
đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong suốt
10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối
năm trước sức ép của lạm phát.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy
luật thì trường, có sự quản lý của nhà nước, NHNN từng bước bỏ các quy
định rằng buộc về các loại lãi suất của các TCTD, cho phép TCTD được thực
hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thoả thuận.
Lãi suất thị trường vẫn ở mức cao
- Đối với lãi suất huy động VND: Trong năm 2010, duy trì đà tăng của
lãi suất huy động vào những tháng cuối năm 2009, lãi suất huy động VND về

cơ bản đã gia tăng ở những tháng đầu năm, giảm và duy trì ổn định trong quý
II, quý III và gia tăng mạnh trong hai tháng cuối năm. Tính đến cuối tháng
12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 – 3,39% cho các kỳ hạn so với cuối năm
2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến 3 tháng.
Bùi Thị Phương Hoa 25
NHC- K10

×