PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và quốc tế hóa nền kinh tế, hội nhập và
tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu đối với mổi quốc gia
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của mình.
Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất
khẩu hành hóa. Trong khi những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày
càng có uy tín trên thị trường thế giớ đã xuất hiện một số trường hợp hàng
xuất khẩu của nươc ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán
phá giá để tạo ra hàng rào bảo hộ, ngăn cản hàng hóa của nước ta không cho
xuất khâu vào thị trường nước họ. Từ năm 1995 đến nay Việt Nam đã tích
cực thanh gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam tham gia hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) năm 1995, diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn
Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) năm 1998. Tháng 7
năm 2000 hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã
được ký kết và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 11 tháng 12 năm 2001. Ngày 07
tháng 11 năm 2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
WTO tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu . Tạo động lực cho sự phát triển
toàn diện nền kinh tế của Việt Nam đây cũng là một thách thức lớn đối với
các doanh nghiệp Việt Nam khi cạnh tranh với các thị trường lớn trên thế
giới. Sự tham gia vào các tổ chức này đồng nghĩa với sự thay đổi sâu sắc các
chính sách thương mại liên quan tới việc mở cửa thị trường. Hiện tượng bán
phá giá hàng hóa nước ngoài chắc chắn sẻ ngày càng tăng lên trên thị trường
nước ta có thể gây ra những tổn thất lớn cho các nhà sản xuất trong nước do
hàng rào bảo hộ bằng các biện pháp hạn chế định lượng có thể biến mất,
đồng thời thuế suất thuế nhập khẩu cũng giảm xuống.
Đứng trước thực tế đó, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và sớm áp dụng
các công cụ bảo hộ mới phù hợp với các quy định của tổ chức thương mại
thế giới (WTO) trong đó có thuế chống bán phá giá. Đây là việc làm mang
tính cấp bách và cần thiết vì lợi ích và yêu cầu của đất nước. Đạt được điều
này, đòi hỏi nước ta phải hoàn thiện hệ thống pháp lý thương mại trước và
sau khi kết nạp vào tổ chức thương mại thế giới WTO nhằm bảo vệ công
nghiệp sản xuất nội địa và bảo vệ thị trường trong nước chống lại việc mua
bán phá giá hoặc chống bán phá giá lại các trợ cấp mang tính chấc kỳ thị đối
với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1 Ý nghĩa khoa học
Trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới khi mà hàng hóa của Việt Nam
ngày càng có mặt nhiều hơn trên các thị trường lón như Mỹ Châu Âu… và
nhiều nước khác thì tất yếu các doanh nghiệp Việt Nam phải đương đầu
ngày càng nhiều hơn các vụ kiện bán phá giá từ các doanh nghiệp nước
ngoài nếu không có một cơ sở khoa học để ngăn ngừa, phòng tránh và đối
phó với các vụ kiện bán phá giá thì các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam rất
khó cạnh tranh tại thị trường nước ngoài và ngày càng mất uy tín tại thị
trường nội địa. Do đó cùng với các quy định của pháp luật như Pháp lệnh về
việc chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam 2004. Nghị định
90/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Nghị định
04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ
cấp và tự vệ. Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh. Thông tư
106/2005/TT-BTC ngày 5/12/2005 hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả thuế chống
bán phá giá, chống trợ cấp và các khoản bảo đảm thanh toán thuế chống bán
phá giá, thuế đối kháng. Việc nghiên cứu đề tài pháp luật về chống bán phá
giá và thực tiễn tại Việt Nam giúp các doanh nghiệp Việt Nam các cơ quan
chức năng nắm rõ hơn các quy định về vấn đề này.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Vấn đề áp thuế chống bán phá giá của hàng hóa ngoại nhập là hệ quả tất
yếu của quá trình sản xuất và xuất khẩu hàng hóa . Để bảo vệ hàng hóa trong
nước không bị các hàng hóa nước ngoài lán chiếm thị trường yêu cầu cần có
một cơ chế pháp lý dành riêng cho hàng ngoại nhập đó là hành động áp thuế
chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu bị coi là bán phá giá. Từ khi
phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại và đẩy mạnh hội nhập vào nền
thương mại quốc tế Việt Nam phải đụng chạm tới rất nhiều vấn đề trong đó
đáng chú ý là vấn đề bán phá giá và chống bán phá giá. Trong những năm
vừa qua việc hàng hóa Việt Nam xuất khâu sang thị trường nước ngoài ngày
càng có nhiều các vụ kiện bán phá giá gây không ít khó khăn cho các doanh
nghiệp Việt Nam và tổn thất không nhỏ cho nền kinh tế. Trong khi đó Việt
Nam vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này do đó phần lớn các vụ
kiện Việt Nam đều bi thiệt hại nặng nề và hàng hóa Việt Nam khi xuất khẩu
sang các nước thắng kiện sẻ bị áp với thuế rất cao và cao hơn xo với các
hàng hóa cùng loại mà các nước xuất khẩu khác vào thị trường nước này. Do
đó điều cần thiết là cần tìm ra nguyên nhân thực trạng và các giải pháp cho
các doanh nghiệp nước ta trong thời gian tới
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu pháp luật về bán phá giá và chống bán phá giá của các quốc gia
trên thế giới và ở Việt Nam tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam
nắm bắt được các vấn đề pháp lý có tính chấc kỹ thuật, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt vấn đề và ra chiến lược phát triển kinh tế
và chính sách để đối phó với những vụ kiện bán phá giá ngày càng phức tạp
và khó khăn hơn trong thời gian tới. Đồng thời tạo sự có mặt ổn định của
hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế, thúc đẩy phát triên kinh tế xã hội
của đất nước
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Là các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực giao lưu buôn bán hợp tác với
các nước trên thế giới, trong lĩnh vức xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước
ngoài và hàng hóa từ nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Hoạt động Điều
tra thăm dò xem xét của các cơ quan chức năng kiểm tra hàng hóa này có
bán phá giá trên thị trường nước nhập khẩu hay không trên cơ sở đó áp dụng
thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa bị kiện bán phá giá
4.2 phạm vi nghiên cứu
Do mức độ rộng lớn của vấn đề đòi hỏi phải có sự nghiên cứu của nhiều
nghành, nhiều cấp nên trong đề tài này chỉ đề cập tới một số nét khái quát về
lý luận của việc chống bán phá giá, thuế chống bán phá giá tại một số nước
đại diện cho những khu vực kinh tế điển hình, cũng như nguyên nhân thực
trạng và giải pháp của Việt Nam trước việc hàng hóa nước ngoài nhập khẩu
vào bán phá giá ở thị trường nước ta và việc hàng xuất khẩu của Việt Nam ra
nước ngoài bị kiện bán phá giá.
5. Kết cấu của đề tài
Phần mở đầu.
Phần nội dung của đề tài
Chương 1: Pháp luật về chống bán phá giá trên thế giới
1.1 Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá
1.2 Các quy định của pháp luật về bán phá giá trên thế giới
1.2.1 Quy định chống bán phá giá của WTO
1.2.2 Quy định chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu (EU)
Chương 2: thực tiễn chống bán phá giá tại Việt Nam
2.1 Định nghĩa của Việt Nam về bán phá giá
2.2 Nguyên nhân của việc bán phá giá hàng hóa
2.3Những ảnh hưởng của việc bán phá giá hàng hóa
2.4 Thực trạng bán phá giá và chống bán phá giá tại Việt Nam
2.4.1Thực trạng bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam
2.4.2 Thực trạng bán phá giá hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
2.5 Các giải pháp đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá của Việt Nam
2.6 Các biện pháp phòng vệ chống bán phá giá, chống trợ cấp .
Phần kết luận
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN
THẾ GIỚI
1.1 Khái niệm bán phá giá và thuế chông bán phá giá:
1.1.1 Bán phá giá: trong ngôn ngữ tiếng Việt, “bán phá giá” thường
được hiểu là hành động bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành
của mặt hàng đó trên thị trương, lam cho những người bán hàng khác hạ giá
bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị
trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất khẩu, mặc dù giá bán ở thị
trường tiêu thụ (nước nhập khẩu) có thể không khác nhau, thậm chí có thể
xảy ra trường hợp giá bán cao hơn giá hiện hành. Nhìn chung, các tài liệu
quốc tế đều thống nhất hiện tượng “án phá giá” xảy ra khi hàng hóa xuất
khẩu được bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán tại thị trường
nội địa (của nước xuất khẩu). Nếu đọc lướt qua, định nghĩa này thật là đơn
giản, chỉ việc so sánh giữa giá xuất khẩu với giá bán tại nội địa, nếu giá xuất
khẩu thấp hơn giá nội địa tức là có sự bán phá giá. Tuy nhiên, sự việc lại
không đơn giản khi một loạt câu hỏi đắt ra cần giải quyết khi so sánh giá để
đảm bảo sự chính xác và công bằng, giá nội địa là giá nào? Là giá bán buôn
hay giá lẻ? giá xuất khẩu là giá nào?...
1.1.2 Thuế chống bán phá giá
Là một sắc thuế mà nước nhập khẩu đánh vào một mặc hàng nhập khẩu
được bán phá giá với mục đích ngăn cản sự tiếp diễn của việc bán phá giá đó
để tránh gây thiệt hại cho nghành sản xuất mặt hành tương tự trong nước.
1.1.3 Nội dung cấu thành
Bán phá giá được xác định theo công thức sau:
Biên độ phá giá = (Giá trị thông thường - Giá xuất khẩu)/Giá xuất
khẩu
Trong trường hợp giá trị thông thường lớn hơn giá xuất khẩu, tức biên
độ phá giá > 0 thì có hiện tượng bán phá giá. Như vậy, việc xác định có bán
phá giá hay không sẽ phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố sau:
Xác định giá trị thông thường của sản phẩm
Xác định giá xuất khẩu của sản phẩm
Xác định phá giá hàng hóa
1.1.3.1 Xác định giá trị thông thường của sản phẩm
Giá trị thông thường được xác định dựa trên giá bán của hàng hóa bị
điều tra ở nước xuất khẩu hoặc nước xuất xứ.
Giá trị thông thường của hàng hóa được xác định bởi các tiêu chuẩn:
Giá được sử dụng phải là giá bán của sản phẩm tương tự với sản phẩm bị
điều tra.
Số lượng của sản phẩm tương tự được bán trên thị trường nước xuất
khẩu phải là số lượng thích đáng (tức ít nhất bằng 5% khối lượng xuất khẩu
được thực hiện trong tiến trình buôn bán thông thường ở trong nước xuất
khẩu).
Giá cả của sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu không được thấp hơn
giá thành sản xuất.
Khách hàng độc lập (tức các khách hàng không có mối quan hệ đặc biệt
với bên xuất khẩu như là quan hệ họ hàng, góp vốn cổ phần , có quyền kiểm
soát chi phối ...)
1.1.3.2 Xác định giá xuất khẩu
Giá xuất khẩu là giá thực tế phải trả cho sản phẩm bị điều tra khi bán ra
nước ngoài từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu hoặc được hiểu là giá
mà nhà sản xuất nước ngoài bán cho nhà nhập khẩu đầu tiên (với điều kiện
đảm bảo nguyên tắc khách hàng độc lập).
1.1.3.3 Xác định phá giá hàng hóa
Nếu có hiện tượng bán phá giá thì kết quả của việc so sánh sẽ tìm ra mức
độ chênh lệch giữa giá trị thông thường và giá xuất khẩu. Mức độ chênh lệch
này được gọi là biên độ phá giá. Biên độ phá giá có ý nghĩa rất lớn trong
việc xác định có phá giá hay không, mức phá giá cũng như biện pháp chống
bán phá giá. Với kết quả của việc so sánh giá, nếu biên độ phá giá là số
dương (>0) thì kết luận sẽ là có bán phá giá và ngược lại.
1.1.4 Tác động của bán phá giá:
Nhìn dưới góc độ tích cực thì phá giá mang lại lợi ích cho người tiêu
dùng tại nước nhập khẩu (thường là lợi ích ngắn hạn, tạm thời), mức độ thiệt
hại mà doanh nghiệp xuất khẩu phải gánh chịu do bán phá giá là mức độ lợi
ích mà người tiêu dùng trong nước nhập khẩu được thụ hưởng. Tuy nhiên,
việc bán phá giá có thể gây những tác động tiêu cực đến nước nhập khẩu thể
hiện ở các khía cạnh sau:
Bán phá giá gây thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất sản phẩm tương
tự trong nước. Thiệt hại về vật chất được xét trên một loạt các yếu tố và chỉ
số kinh tế như: Sự suy giảm thực tế hoặc tiềm ẩn của doanh thu, lợi nhuận,
sản lượng, thị phần, năng suất, việc làm, tiền lương, tăng trưởng...
Bán phá giá gây tác động đến sự phát triển ngành sản xuất sản phẩm
tương tự của nước nhập khẩu trong tương lai. Sản xuất của các nước nhập
hàng bán phá giá có thể bị đình đốn, không cạnh tranh được với hàng nhập
khẩu, mất thị trường và phá sản...
Xuất phát từ thành kiến cố hữu việc bán phá giá thường được coi là có
tác động tiêu cực, thường vì lý do giảm lợi nhuận của người bán hàng khác
gây thiệt hại cho các nhà sản xuất cùng một mặc hàng của nước nhập khẩu,
cho nên người ta thường tìm biện pháp để chống lại hành động này. Tuy
nhiên, cần có sự phân tích thấu đáo bản châc của mọi trường hợp bán phá
giá để xem có phải tất cả mọi hành động bán phá giá đều có hại hay không
để có biện pháp đối phó thích ứng.
Cuối cùng, hành vi phá giá bóp méo những nguyên lý cơ bản của thị
trường nước nhập khẩu (cạnh tranh tự do và lành mạnh).
1.1.5 Phân loại bán phá giá hàng hóa:
Bán phá giá có thể được phân thành 2 loại chủ yếu, dựa trên động cơ phá
giá:
1.1.5.1 Phá giá độc quyền:
Phá giá độc quyền là hành vi vi phạm thô bạo nguyên tắc cạnh tranh vì
bản chất của nó là hành vi nhằm độc quyền hóa. Phá giá độc quyền làm hủy
hoại cạnh tranh và là nguyên nhân trực tiếp gây ra những bất ổn về kinh tế.
Phá giá độc quyền chia làm 2 loại:
Phá giá chiến lược: là hành vi bán phá giá nằm trong một chiến lược
cạnh tranh tổng thể của nước xuất khẩu
Phá giá cướp đoạt: là hành vi định giá thấp nhằm mục đích đẩy đối thủ
cạnh tranh vào tình trạng phá sản để giành vị trí độc quyền tại nước nhập
khẩu
1.1.5.2 Phá giá không độc quyền
Phá giá không độc quyền được biểu hiện qua 3 dạng:
Phá giá mở rộng thị trường: là việc nhà sản xuất bán hàng hóa với giá
cao ở trong nước nhằm hỗ trợ cho giá thấp ở thị trường xuất khẩu
Phá giá chu kỳ: là hình thức phá giá mà nhiều doanh nghiệp sử dụng
nhằm giải quyết hậu quả của việc sản xuất quá dư thừa loại hàng hóa đó.
Phá giá thương mại của Nhà nước: là hình thức bán phá giá được thực
hiện chủ yếu trong các nền kinh tế mà tỷ giá hối đoái có ý nghĩa nhỏ hoặc
các tín hiệu về giá cả là không quan trọng
1.1.6 Các trường hợp bán phá giá
Thứ nhất: giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước xuất khẩu
nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất. trường hợp này có thể xảy ra khi một
hẵng chiếm vị trí độc quyền hoặc gần như độc quyền ở thị trường nội địa
xuất phát từ điều kiện tự nhiên hoặc do được hưởng lợi thế từ hàng rào
thương mại, nhưng phải cạnh tranh thị trường nước xuất khẩu. Trong trường
hợp này vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận hẵng đó sẻ lợi dụng vị thế độc
quyền của mình để ấn định giá bán trong nước cao hơn, chừng nào thị
trường đó còn chấp nhận được. Trong khi đó do phải cạnh tranh ở thị trường
xuất khẩu hẵng đó chỉ có thể bán với giá đang tồn tại ở thị trường đó như
vậy đã xãy ra hiện tượng bán phá giá. Nếu việc bán phá giá này không làm
giá ở thị trường nước nhập khẩu thay đổi (do cạnh tranh ở đây hoàn hảo) sẻ
không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế sẻ không
cần thiết phải có biện pháp chống đối lại. Tuy nhiên nếu việc bán phá giá
này xảy ra với một lượng lớn và trong thời gian dài, làm giảm giá ở thị
trường nước nhập khẩu sẻ tác động đến lợi ích của nước nhập khẩu. người
tiêu dùng sẻ được lợi từ giá thấp nhưng ngược lại các nhà sản xuất và công
nhân trong nghành công nghiệp đó sẻ bị thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị
giảm. Lợi ích cuối cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi ích của
người tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại của người sản xuất và công nhân hay
không.
Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập khẩu bị thiệt hại cũng khó
có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa của hãng
đó nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hẵng đó có thể lập luận rằng do điều kiện
thị trường của nước nhập khẩu là cạnh tranh, bấc kỳ hẵng nào cũng có thể
tham gia thị trường đó và làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục
thiệt hại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp được phép khác như
tự vệ
Thứ hai: giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên thấp hơn giá thị
trường trong nước. Trong trường hợp này có thể xảy ra một số tình huống
khác nhau tùy thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay
“chi phí lề”
Trước hết, để hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hơn chi
phí cần phân biệt các loại chi phí .Thông thường, chí sản xuất được phân
biệt theo hai loại: chi phí bình quân và chi phí lề:
Chi phí bình quân được tính bằng tất cả các chi phí một hẵng phải chụi chia
cho lượng sản phẩm sản xuất ra.
Chi phí lề là chi phí phải bỏ ra để sản xuất ra thêm một đơn vị sản phẩm.
Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại chi phí
sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một phần
nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi phí lề
là yếu tố quyết định trong việc định giá của một hẵng trong thời gian ngắn
hạn khi phải chụi chi phi phí nhất định để thâm nhập vào một thị trường.
Khi nhu cầu thị trường giảm, kéo theo giá thị trường giảm và các hẵng
theo đó cũng phải bán hạ giá. Nếu bán giá thấp hơn chi phí bình quân, hẵng
đó sẻ lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ thuộc vào
lượng sản xuất, mức độ lỗ sẻ phụ thuộc vào lượng hàng hóa bán ra và vào
mức chi phí lề. Nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí lề, hẵng vẫn tiếp tục bán với
hy vọng sau một thời gian ngắn thị trường sẻ phục hồi hoặc chỉ để giảm thiệt
hại trước khi rút lui khỏi thị trường. Đây là sự phản ứng rất bình thường của
các hẵng đối với sự thay đổi của thị trường, kể cả các hẵng nước ngoài và
hẵng nội địa.
Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập
khẩu là bấc hợp lý và như vậy sẻ đối sử không bằng giữa hẵng nội địa và
hẵng nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp dụng các chính sách hỗ
trợ cho các hẵng nội địa giảm nhẹ thiệt hại dưới hình thức tự vệ
1.1.7 Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất
Biện pháp được phép sử dụng trong bán phá giá là thuế theo tỷ lên phần
trăm, do vậy tác động về mặt lợi ích đối với xã hội của biện pháp này cũng
giống như tác động của thuế nhập khẩu thông thường theo tỷ lệ phần trăm.
Khi một sắc thuế được áp dụng, làm cho giá trong nước của sản phẩm tăng
lên một lượng. Do đó các yếu tố về cầu của thị trường nội địa đối với sản
phẩm đó không đổi, lượng tiêu thụ giảm xuống trong khi đó lượng hàng sản
xuất trong nước tăng lên, đồng nghĩa với lượng hàng nhập khẩu giảm xuống.
Như vậy có thể thấy rõ tác động bảo hộ của thuế nhập khẩu đối với sản xuất
trong nước: làm tăng giá trong nước, giảm tiêu thụ hàng nhập khẩu và tăng
sản xuất trong nước. Các nhà sản xuất trong nước được hưởng lợi rõ ràng
khi giá trị thặng dư của họ được gia tăng thêm một lượng.
Tuy nhiên, cùng với việc các nhà sản xuất được hưởng lợi thì người tiêu
dùng bị thiệt hại: giá trị thặng dư của họ bị giảm xuống một lượng. Nhà
nước cũng đươc hưởng lợi khi ngân sách thu vào từ thuế nhập khẩu tăng một
lượng
Thế nhưng, xét về tổng thể, toàn xã hội sẻ bị thiệt hại khi lợi ích mang
lại cho các nhà sản xuất trong nước và Nhà nước không thể bù đắp cho
những thiệt hại về lợi ích của người tiêu dùng.
Ngoài tác động bảo hộ của thuế chống bán phá giá như phân tích trên
đây, quá trình dẫn đến việc áp dụng thuế chống bán phá giá cũng phần nào
có tác động bảo hộ. Ví dụ bản thân việc bắt đầu quá trình điều tra chống bán
phá giá có nghĩa là trong tương lai rất có thể thuế chống bán phá giá sẻ được
áp dụng, làm cho sản phẩm là đối tượng điều tra trở nên ít hấp dẫn hơn đối
với các nhà nhập khẩu, như vậy phần nào đã ngăn cản dòng hang hóa nhập
khẩu
1.2 Các quy định của pháp luật về chống bán phá giá trên thế giới
1.2.1 Quy định về chống bán phá giá của WTO
Năm 1948 hệ thống thương mại đa phương được thiết lập với sự ra đời
của hiệp định chung về thuế quan và Thương mại (GATT). Trải qua gần một
nửa thế kỷ, những quy định cua GATT về thương mại đa biên, trong đó có
quy định về chống bán phá giá (Điêu VI) tỏ ra chưa chặt chẽ. Cùng với sư ra
đời của WTO, hiệp định Chống bán phá giá đã có những quy định chặt chẽ
và chi tiết hơn nhiều so với điều VI của GATT. Theo hiệp định này, nước
nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp bán phá giá khi:
Hàng nhập khẩu bị bán phá giá;
Gây thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất trong nước
Cuộc điều tra về bán phá giá theo đúng thủ tục.
Hiệp định bán phá giá của WTO quy định rất chi tiết nguyên tắc xác
định phá giá, cách tính biên độ bán phá giá và thủ tục điều tra phá giá
1.2.1.1 Định nghĩa chống bán phá giá của WTO
Theo Hiệp định về chống bán phá giá của WTO (ADP) bán phá giá là
việc bán một hàng hoá nào đó với giá thấp hơn giá của nó trên thị trường nội
địa của nước xuất khẩu. Nói một cách đơn giản, để xác định hành động bán
phá giá ta phải so sánh giá cả ở hai thị trường. Tuy nhiên trên thực tế, việc
xác định giá hàng hoá ở thị trường nước xuất khẩu (giá trị bình thường) và
giá ở thị trường nước nhập khẩu (giá xuất khẩu) để tạo ra cơ sở chính xác
cho sự so sánh giá trên hai thị trường là khá phức tạp
1.2.1.2Nguyên tắc xác định
Bán phá giá được xác định dựa vào 2 yếu tố cơ bản là: 1- biên độ phá
giá từ 2% trở lên; 2- số lượng, trị giá hàng hóa bán phá giá từ một nước vượt
quá 3% tổng khối lượng hàng nhập khẩu (ngoại trừ trường hợp số lượng
nhập khẩu của các hàng hóa tương tự từ mỗi nước có khối lượng dưới 3%,
nhưng tổng số các hàng hóa tương tự của các nước khác nhau được xuất
khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm trên 7%).
Theo quy định của WTO, biên độ phá giá được xác định thông qua việc
so sánh với mức giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự được xuất
khẩu sang một nước thứ ba thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so
sánh được này mang tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với
chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản chi phí hợp
lý cho quản trị, bán hàng, các chi phí chung khác và một khoản lợi nhuận.
Như vậy, có thể hiểu rằng biên độ phá giá là mức chênh lệch giá thông
thường của hàng hóa tương tự với mức giá xuất khẩu hiện tại. Việc xác định
giá thông thường được tính toán rất phức tạp dựa trên cơ sở sổ sách và ghi
chép của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất là đối tượng đang được điều tra
với điều kiện là sổ sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp
nhận rộng rãi và phản ánh được một cách hợp lý các chi phí.
1.2.1.3 Điều tra về bán phá giá
Để xác định hàng hóa có bị bán phá giá hay không, việc bán phá giá có
gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hay không để áp đặt các
biện pháp chống phá giá thì điều quan trọng nhất và phức tạp nhất này ở quá
trình điều tra về bán phá giá. Ở những quốc gia khác nhau, việc điều tra sẽ
được thực hiện bởi các cơ quan chức năng khác nhau. Theo quy định trong
Hiệp định về chống bán phá giá của WTO thì việc điều tra chỉ được tiến
hành khi có đơn yêu cầu bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc
của người nhân danh cho ngành sản xuất trong nước. Đơn yêu cầu sẽ được
coi là đủ tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như đơn này
nhận được sự ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản
lượng của sản phẩm tương tự được làm ra. Tuy nhiên, việc điều tra sẽ không
được bắt đầu nếu như các nhà sản xuất bày tỏ ý kiến tán thành điều tra chiếm
ít hơn 25% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành sản xuất
trong nước làm ra.
1.1.2.4 Biện pháp áp dụng
Khi thỏa mãn được ba điều kiện trên, Hiệp định cho phép thành viên
WTO được phép áp dụng biện pháp chống bán phá giá với mặt hàng nhập
khẩu bị điều tra. Các biện pháp này thường là áp thêm một khoản thuế nhập
khẩu đối với sản phẩm bị coi là bán phá giá nhằm đưa mức giá của sản phẩm
đó xấp xỉ với "giá trị thông thường" của nó hoặc để khắc phục thiệt hại đối
với ngành sản xuất của nước nhập khẩu. Các biện pháp này nếu trong điều
kiện bình thường là những hành vi vi phạm các nguyên tắc của WTO về
ràng buộc thuế suất nhập khẩu và không phân biệt đối xử hàng nhập khẩu.
Tuy nhiên, biện pháp chống bán phá giá chỉ mang tính tạm thời nhằm loại
trừ ảnh hưởng tiêu cực của hàng hoá nhập khẩu phá giá trên thị trường quốc
gia nhập khẩu vì vậy các quốc gia chỉ được phép áp dụng thuế chống bán
phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu thời hạn nhất định - tối đa là 5 năm
1.2.2 Các quy định về chống bán phá giá của liên minh Châu Âu EU
Luật chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu ra đời năm 1968 và đã
được sửa đổi và bổ sung nhiều lần chủ yếu nhằm đưa những nội dung mới
của việc thực hiện Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch
1994 (Hiệp định Chống bán phá giá 1994) vào luật của EU hiện nay.
Luật chống bán phá giá áp dụng đối với tất cả các nước không phải là
thành viên EU. Đối với các nước bị coi là chưa có nền kinh tế thị trường
hoặc đang trong quá trình chuyển đổi, EU có thể áp dụng những điều khoản
đặc biệt được quy định trong các hiệp định ký giữa EU với các nước thứ 3.
Các quy định hiện có của EC được thay thế bởi Quy chế Chống bán phá
giá mới có hiệu lực từ ngày 1/1/1995. Quy định này sau đó được cập nhật
bởi Quy chế 384/96 có hiệu lực từ ngày 6/3/1996. Quy chế này tập hợp các
biện pháp đã được thoả thuận tại Vòng Uruguay của GATT. Quy chế đồng
thời cũng đưa ra giới hạn thời gian chặt chẽ cho việc hoàn thành điều tra và
ra quyết định nhằm đảm bảo rằng các đơn khiếu kiện được giải quyết nhanh
chóng và hiệu quả.
1.2.2.1 Định nghĩa chống bán phá giá của EU
Định nghĩa bán phá giá (dumping) được trình bày trong các văn kiện
GATT như sau: bán phá giá và việc bán những hàng hóa xuất khẩu ở một
giá thấp hơn “giá trị bình thường” (giá trị bình thường nghĩa là giá bán sản
phẩm ở nước xuất khẩu).
GATT cũng xác định:
Mức phá giá = Giá bán hàng tại thị trường trong nước – Giá xuất khẩu.
EU áp dụng luật chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu từ nước thứ
ba, kể cả các đối tác thương mại được hưởng ưu đãi, trừ các thành viên của
khu vực kinh tế châu Âu (EEA) trong một số lĩnh vực chịu sự chi phối trong
khuôn khổ chính sách cạnh tranh của EU.
1.2.2.2 Cơ sở pháp lý
Luật sửa đổi năm 1996 đã đưa ra cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các
biện pháp chống bán phá giá theo 4 điều kiện: (i) mặt hàng đó đang bị bán
phá giá (giá bán thấp hơn giá thương mại thông thường); (ii) ngành công
nghiệp sản xuất mặt hàng đó đang bị đe dọa hoặc đang bị tổn thương vật
chất; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu đó và tổn thương
vật chất của ngành công nghiệp của EU; và (iv) việc áp đặt các biện pháp
chống bán phá giá là vì lợi ích của Cộng đồng.
1.2.2.3 nguyên tắc xác định
Phát hiện có sự bán phá giá: giá xuất khẩu của sản phẩm thấp dẫn tới
việc sản phẩm được bán trên thị trường EC có giá thấp hơn giá bán tại thị
trường trong nước của nhà sản xuất;
Tổn hại vật chất gây ra cho ngành sản xuất của EC: hàng nhập khẩu đã
gây tổn hại hoặc có nguy cơ gây tổn hại vật chất cho một bộ phận đáng kể
trong ngành sản xuất của EC, ví dụ như mất thị phần, làm giảm giá bán của