Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LOP 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.62 KB, 25 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự do –Hạnh phúc

-------------------

MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG
TRONG CÁC TIẾT DẠY TẬP ĐỌC
CHO HỌC SINH LỚP 1.3 TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG
MINH A


Họ và tên: Đinh Thị Tố Nga
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Quảng Minh A


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Quảng Trạch , năm 2013

1. PhN Mở ĐầU


1.1. Lí DO CHN TI
Vn hc l nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc
sống con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ để sáng
tạo nên những hình tượng về cuộc sống con người, quê hương, xử sở và đem lại
cho người đọc những rung cảm thực sự trong sáng. Trong nhà trường tiểu học ở Việt
Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các mơn học khác.
Mơn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vơ vùng quan trọng đó là
hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một phân


mơn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân mơn có vị trí đặc
biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng
đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học đầu tiên. Kỹ
năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu lốt, trơi chảy), đọc có ý
thức (thơng hiểu được nội dung những điều mình đọc hay cịn gọi là đọc hiểu)
và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các
mơn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hồn thành được năng
lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này khơng phải tự nhiên mà có. Nhà
trường phải từng bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch
đầu tiên. Vì vậy, việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.
Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các em
thật vơ cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp
tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt.
Việc dạy đọc ở lớp 1 cũng quan trọng bởi từ chỗ các em cịn phải đọc đánh vần
từng tiếng đến việc đọc thơng thạo được một văn bản là việc tương đối khó với
các em mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học sinh
yêu tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của tiếng Việt, sự giàu đẹp
của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế
nhưng hiện nay, ở trường tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ
điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh của
chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng là lý do khiến cho trong nhiều trường
hợp, học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc.
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

-2-


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách dạy

tập đọc ở lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông được
văn bản mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc. Vấn đề đặt ra là làm thế nào
để giúp các em đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc đúng ngữ
điệu, biết cách ngắt nghỉ hơn trong văn bản thơ, cũng như văn bản văn xuôi.
Những băn khoăn này chính là lý do tơi chọn đề tài: “Một số biện pháp luyện
đọc đúng trong các tiết dạy tập đọc cho học sinh lớp 1.3 Trường Tiểu học
Quảng Minh A”.
1.2. §IĨM MíI CỦA ĐỀ TÀI
Tập đọc là phân mơn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành kỹ
năng đọc cho học sinh. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh.
Dạy đọc giáo dục cho học sinh lòng ham đọc sách, giúp cho các em thấy được
đây chính là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ phát
triển. Tập đọc góp phần làm giàu vốn kiến thức ngơn ngữ, bồi dưỡng cho học
sinh lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các cách tư duy có hình ảnh.

Đặc điểm của dạy tập đọc lớp 1 chính là ở chỗ: đây là bước chuyển tiếp
từ dạy “học vần” sang dạy “tập đọc” (ở lớp 2). Giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả
phương pháp học vần, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là
củng cố hệ thống âm vần đã đọc (nhất là các vần khó) đọc đúng tiếng, liền tiếng
trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết
lên giọng và hạ giọng. Để làm tốt được những nhiệm vụ nêu trên, đề tài của tơi
mục đích đưa ra một số biện pháp để giúp học sinh đọc thông được văn bản và
đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng, nhằm nâng cao chất
lượng của 1 giờ dạy tập đọc ở lớp 1.
1.3. phạm vi áp dụng đề tài
i tng nghiờn cu là thực trạng dạy tập đọc cho học sinh lớp 1.3
Trường Tiểu học Quảng Minh A.
1.4. Thêi gian thùc hiÖn
Tõ tháng 9-2011 đến tháng 3-2013
ii. phN NộI DUNG

2.1. THC TRNG CđA NéI DUNG CÇN NGHI£N CøU
Qua nhiều năm giảng dạy tập đọc lớp 1ở trường tiểu học Qu¶ng Minh A,
bản thân tôi nhận thấy các em trong các tiết học tập đọc, đọc ngắt nghỉ không
đúng dấu phẩy dấu chấm, phát âm còn sai nhiều ở các phụ âm. Điều kiện kinh tế
của các em hoàn toàn khác nhau, nhiều phụ huynh không quan tâm phần phát
âm của học sinh. Mặt khác các em sống xa địa điểm trường, có em sống trên
sông nước, việc đến trường không được đều đặn. Do đó địi hỏi người giáo viên
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

-3-


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

lớp 1 phải thường xuyên quan tâm đến việc luyện đọc đúng trong các tiết dy
tp c ngay t lp 1.
II. Kết quả điều tra năm học 2011-2012 v nm hc 2012- 2013 nh sau:
c tốt
TSHS

Thời gian khảo sát

Lớp 1
30

Tuần 10 năm học

Đọc khá

Đọc TB


Đọc yếu

TS

TL

TS

TL

TS

TL

TS

TL

5

16,7%

7

23,4%

7

23,4%


11

36,6%

6

20,0%

7

23,33

8

26,67

9

30,0%

2011-2012
30

Tuần 10 năm học
2012-2013

%

%


2.3. TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY CỦA GIÁO VIÊN:
1. Quan điểm của giáo viên về giờ tập đọc
Nhìn chung, giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên ở
các lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn cịn ở các
lớp cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu bài quan trong như
nhau. Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc quan trọng
hơn, còn về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thì 80% số giáo viên cho rằng
thời gian luyện đọc là nhiều hơn, còn 20% cho rằng thời gian của 2 phần này
như nhau. Được dự các tiết tập đọc chuyên đề của cụm nói chung và ở trường
nói riêng, tơi nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát âm cho học
sinh, song do thời gian bị hạn chế nên việc sửa lỗi do chỉ được thực hiện lướt
qua khi luyện đọc từ hoặc câu giáo viên thường chỉ cho học sinh luyện những từ
và câu mà sách giáo khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra những từ hoặc câu mà
học sinh của mình hay nhầm lẫn.
2. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc
Hiện nay ở tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụng
phương pháp dạy học cụ thể là: phương pháp làm mẫu, phương pháp luyện đọc
theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp (đặt câu hỏi để
học sinh tự tìm và phát hiện từ khó, cách ngắt nhịp câu dài…) và phương pháp
đóng vai (đối với văn kể chuyện).
* Thực trạng phần rèn đọc ở lớp 1trường tiểu học Quảng Minh A.
Qua giảng dạy , tìm hiểu và dự giờ ở lớp 1 tôi thấy hiện nay nhìn chung
giờ tập đọc được tiến hành theo trình tự sau:
Tiết 1:
1. Kiểm tra bài cũ
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

-4-



Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả lời một số câu hỏi ứng với nội
dung bài học.
2. Bài mới:
a. Giới thiệu bài:
- Giáo viên chép sẵn bài đọc lên bảng lớp.
- Giáo viên đọc mẫu, học sinh theo dõi.
b. Hướng dẫn học sinh luyện đọc
* Luyện đọc tiếng, từ
Giáo viên kể chân những tiếng từ mà SKG yêu cầu → cá nhân học sinh đọc.
* Luyện đọc câu
Giáo viên đưa ra những câu thơ, văn ngắt nhịp, ngắt giọng sẵn và đọc
mẫu sau đó học sinh đọc theo cơ. Khi cá nhân học sinh đọc các em khác nghe và
nhận xét bạn.
* Luyện đọc đoạn
Giáo viên nêu bài đọc chia thành……đoạn…..., sau đó cho học sinh đọc
nối tiếp đoạn cho đến hết bài.
* Luyện đọc cả bài:
Cá nhân học sinh đọc → các em khác nhận xét.
3. Ôn vần:
- Dựa vào các câu hỏi và bài tập của SGK.
+ Tìm tiếng có chứa vần cần ơn.
+ Nói câu chứa tiếng có vần cần ơn.
4. Củng cố: Ghép từ thành câu.
Tiết 2
5. Tìm hiểu bài và luyện nói
a. Tìm hiểu bài
- Học sinh đọc trong SGK.

+ Cá nhân học sinh đọc từng đoạn và giáo viên nêu câu hỏi ứng với nội
dung của từng đoạn để học sinh trả lời.
+ Giáo viên giảng giải thêm về nội dung, kết hợp giải nghĩa từ.
b. Luyện đọc (mức độ đọc hay)

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

-5-


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

- Giáo viên nêu cách đọc hay: giọng đọc, nhấn giọng, ngắt giọng.
- Giáo viên đọc mẫu lần 2.
- Học sinh đọc (cá nhân → đồng thanh).
c. Luyện nói
- Học sinh nhìn vào tranh hoặc ảnh của SGK để luyện nói về những chủ
đề mà bài đọc yêu cầu.
6. Củng cố – dặn dò
Dặn dò học sinh đọc lại bài nhiều lần và chuẩn bị bài sau.
Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một số
kết luận sau:
* Giờ tập đọc có vị trí quan trọng ở tiểu học.
* Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc tập đọc và nhiệm vụ chính
của dạy đọc.
* Trong giờ tập đọc giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa để các em tự
phát hiện ra cách đọc.
* Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên cịn ít chú ý
đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm
giảm tiến độ của tiết dạy.

3. Đối với học sinh
Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy ở tiểu học các em thường coi nhẹ
mơn tập đọc vì các em cho rằng môn tập đọc là môn dễ không phải suy nghĩ như
mơn tốn mà chỉ cần đọc trơi chảy, lưu loát là được. Các em cũng chưa để ý đến
việc đọc của mình như thế nào. Một số ít học sinh phát âm sai do thói quen đã
có từ trước hoặc do tiếng địa phương. Khi đọc các em còn hay mắc lỗi ngắt
giọng, các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng
sinh lý). Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng phần lớn các
em chỉ bit bt chc cụ mt cỏch t nhiờn.

2.4. CáC GIảI PH¸P:
I-/ VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC
1. Vị trí của dạy đọc ở tiểu học
a. Khái niệm đọc:
Mơn Tiếng Việt ở trường phổ thơng có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngơn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện bốn
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

-6-


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là
một dạng hoạt động ngơn ngữ, là q trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời
nói có âm thanh và thơng hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá
trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa khơng có âm
thanh (ứng với đọc thầm).

Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và phát

âm, nghĩa là nó khơng phải chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng như
các ký hiệu chữ viết mà cịn là một q trình nhận thức để có khả năng thơng
hiểu những gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái
niệm “đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến
việc sử dụng bộ mã chữ âm cịn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được
chú ý đúng mức.
b. Ý nghĩa của việc đọc
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư
tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn
đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu khơng biết đọc thì con người khơng thể tiếp
thu nền văn minh của lồi người, khơng thể sống một cuộc sống bình thường, có
hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người
đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây anh ta biết tìm hiểu, đánh giá
cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con
người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp
được với thế giới bên trong của người khác, thơng hiểu tư tưởng tình cảm của
người khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người khơng chỉ
được thức tỉnh về nhận thức mà cịn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ
tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được
bồi dưỡng tâm hồn không biết đọc con người sẽ khơng có điều kiện hưởng thụ
sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, khơng thể hình thành được một nhân cách
toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thơng tin thì biết đọc ngày càng quan
trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thơng tin, đọc chính là học, học
nữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì những lý lẽ trên dạy đọc có ý nghĩa
to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi
học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em
chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là cơng cụ
để học tập các mơn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo
điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một
khả năng khơng thể thiếu được của con người văn minh.

Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ
cũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi
dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

-7-


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to lớn
cịn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dục và phát triển.
2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở tiểu học
Những điều vừa nêu trên khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và
phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Tập
đọc với tư cách là một phân mơn của Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng
yêu cầu này - hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.
Phân môn học vần cũng thực hiện nhiệm vụ dạy đọc nhưng mới dạy đọc ở
mức độ sơ bộ nhằm giúp học sinh sử dụng bộ mã chữ âm. Việc thông hiểu văn
bản chỉ đặt ra ở mức độ thấp và chưa có hình thức chuyển thẳng từ chữ sang
nghĩa (đọc thầm). Như vậy, tập đọc với tư cách là một phân môn tiếng Việt tiếp
tục những thành tựu dạy học mà học cần đạt được, nâng lên một mức đầy đủ
hoàn chỉnh hơn.
Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ
năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc
lưu lốt, trơi chảy), đọc có ý thức (thơng hiểu được nội dung những điều mình
đọc hay cịn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành
trong 2 hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng
thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác

động tích cực đến những kỹ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh
cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu
điều mình đang đọc thì khơng thể đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi khó
mà nói được rạch rịi kỹ năng nào làm cơ sở cho kỹ năng nào, nhờ đọc đúng mà
hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc
khơng thể xem nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lịng ham đọc sách, hình thành
thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác thơng qua
việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi
ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những
con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Ngồi ra việc đọc cịn có những nhiệm vụ khác đó là làm giàu kiến thức
về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hố cho học sinh, phát triển ngơn ngữ và
tư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các em.
II-/ NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC
1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

-8-


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc,
nắm bản chất của kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh khi đọc hay
cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học.
Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc
tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác.
Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này.
- Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với

nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là q trình vận
động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành những
dịng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng,
tình cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng,
các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung những gì
được đọc.
- Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của các
cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thơng hiểu những gì được đọc. Càng
ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn.
Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp
giữa những mặt riêng lẻ này của q trình đọc, đó là điểm phân tích biết người
mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao
nhiêu thì việc đọc càng hồn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu.
- Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ "đọc" được sử dụng trong nhiều
nghĩa: theo nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ năng đọc trùng với nắm kỹ thuật đọc
(tức là việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh), theo nghĩa rộng,
đọc được hiểu là kỹ thuật đọc của những từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài). Ý nghĩa
hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương
pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ hai - đọc được xem
như là một hoạt động lời nói, trong đó có các thành tố:
1. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ.
2. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ
theo từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ thuộc vào trình độ
nắm kỹ thuật đọc.
3. Thơng hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kỹ năng đọc là
một kỹ năng phức tạp, địi hỏi một q trình luyện lâu dài chia việc hình thành
kỹ năng này ra làm 3 giai đoạn: phân tích tổng hợp (cịn gọi là giai đoạn phát
sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành động) và giai đoạn tự động
hoá. Giai đoạn dạy học vần là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo
các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

-9-


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

nhận từ bằng thị giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp
theo sự thông hiểu ý nghĩa của "từ" trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm,
tức là đọc được thực hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học
sinh bắt đầu đọc tổng hợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng
tự động hố, nghĩa là người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính q trình đọc
mà chú ý nhiều đến việc chiếm lĩnh văn hoá (bài khoá), nội dung của sự kiện,
cấu trúc chủ đề, các phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ra đã
chú trọng hơn đến những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kỹ
năng đọc và hình thành kỹ năng làm việc với văn bản. Nghĩa là đòi hỏi giáo viên
tổ chức giờ học đọc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc đồng thời
hướng dẫn đọc có ý thức bài đọc, việc đọc như thế nhằm vào sự nhận thức.
Chúng ta chỉ xem đứa trẻ là biêt đọc khi nó đọc mà hiểu tường tận điều mình
đọc. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếu trẻ không hiểu được những từ ta đưa cho
chúng đọc, chúng sẽ khơng có hứng thú học tập và khơng có khả năng thành
cơng. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ, hứng thú cho việc đọc.

Để có giờ tập đọc đạt kết quả tốt người giáo viên phải nắm được đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh mình nắm được đặc điểm, yêu cầu, bản chất, kỹ năng,
cơ chế, mục đích cần đạt được của tiết dạy tập đọc. Trên cơ sở đó sử dụng
phương pháp cho phù hợp.
2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc
Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngơn ngữ học.
Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề chính

âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề nghĩa của từ, của
câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học), vấn đề dấu câu, các kiểu
câu… Phương pháp dạy học tập đọc phải dựa trên những kết quả nghiên cứu của
ngôn ngữ học, Việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác lập nội
dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của đọc không thể tách rời những
cơ sở ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việc dạy học
sẽ mang tính tuỳ tiện và khơng đảm bảo hiệu quả dạy học.
a. Vấn đề chính âm trong tiếng Việt
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngơn ngữ có giá trị và hiệu quả
về mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề thời sự, có
nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như chuẩn
hố ngơn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mục đích của việc xây dựng
chính âm.
b. Vấn đề ngữ điệu của Tiếng Việt
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên
cao hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phần
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 10 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

của ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạo
thành lời nói.
Mỗi ngơn ngữ có một ngữ điệu riêng. Ngữ điệu tiếng Việt, như các ngôn
ngữ có thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng
(cao độ), sự nhấn giọng (cường độ), sự ngừng giọng (trường độ) và sự chuyển
giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ).
Ngữ điệu là một hiện tượng phức tạp có thể tách ra thành các yếu tố cơ

bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng) trọng âm, âm
điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ
những yếu tố này.
c. Cơ sở lý thuyết cơ bản, phong cách học và văn học của dạy đọc
Việc dạy đọc không thể dựa trên lý thuyết về văn bản những tiêu chuẩn để
phân tích, đánh giá một văn bản (ở đây muốn nói đến những bài đọc ở tiểu học)
nói chung cũng như lý thuyết để phân tích, đánh giá các tác phẩm văn chương
nói riêng. Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm và đọc hiểu cho học
sinh phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản tốt: tính chính xác,
tính đúng đắn và tính thẩm mỹ, dựa trên những đặc điểm vè các kiểu ngôn ngữ,
các phong cách chức năng, các thể loại văn bản, các đặc điểm về loại thể của
tác phẩm văn chương dùng làm ngữ liệu đọc ở tiểu học. Ví dụ, cách đọc và khai
thác để hiểu nội dung một bài thơ, một đoạn văn tả cảnh, một câu tục ngữ, một
truyền thuyết, một bài lịch sử, một bài có tính chất khoa học thường thức… là
khác nhau. Việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài đọc cũng phải dựa
trên những hiểu biết về đề tài, chủ đề, kết cấu nhân vật, quan hệ giữa nội dung
và hình thức, các biện pháp thể hiện trong tác phẩm văn học, nhằm miêu tả, kể
chuyện và biểu hiện các phương tiện và biện pháp tu từ…. Việc luyện đọc cho
học sinh phải dựa trên những hiểu biết về đặc điểm ngôn ngữ văn học, tính hình
tượng, tính tổ chức cao và tính hàm súc, đa nghĩa của nó. Tất cả những vấn đề
trên đều thuộc phạm vi nghiên cứu của lý thuyết văn học. Vì vậy ta dễ dàng
nhận thấy phương pháp dạy tập đọc không thể không dựa trên những thành tựu
nghiên cứu của lý thuyết văn bản nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng.
III-/ TỔ CHỨC DẠY ĐỌC THÀNH TIẾNG Ở LỚP 1
1. Chuẩn bị cho việc đọc
Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc cần
phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30-35
cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp, khi được cô
giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin, khơng hấp tấp đọc ngay.
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch


- 11 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Trước khi nói về việc rèn đọc đúng, cần nói về tiêu chí cường độ và tư thế khi
đọc, tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc thành
tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai - và mặt này thường được nhấn
mạnh - là người tiếp nhận thông tin bằng chữ viết; vai thứ hai là người trung
gian để truyền thông tin đưa văn bản viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ hai
này, người đọc đã thực hiện việc tái văn bản. Vì vậy, khi đọc thành tiếng, người
đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng với
phát biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đám đông đầu tiên của trẻ em
nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công, tạo cho
các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng, các em phải tính đến người nghe.
Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em đọc khơng phải chỉ cho mình cơ
giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho tất cả những
người này nghe rõ. Nhưng như thế khơng có nghĩa là đọc q to hoặc gào lên.
Để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ "lí nhí", giáo viên cần tập cho các em đọc to
chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Giáo viên nên cho học
sinh đứng trên bảng để đối diện với những người nghe. Tư thế đứng đọc phải
vừa đàng hoàng, vừa thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai
tay.Giáo viên làm mẫu, đây là đối tượng HS vùng nông thôn , GV cần nắm bắt
sự khéo léo , tâm lý của HS, giúp HS mạnh dạn, tự tin trong lúc đọc.
2. Luyện đọc đúng
a. Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
khơng có lỗi. Đọc đúng là đọc khơng thừa, khơng sót từng âm, vần, tiếng. Đọc
đúng phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách khác là
khơng đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc

đúng các âm thanh (đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu).
b. Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị
tiếng Việt. Với HS ở Thị Trấn Cửa Việt cần rèn đọc đúng các yếu tố sau:
- Đọc đúng các phụ âm đầu: Ví dụ: có ý thức phân biệt để không đọc:
“dảy dây”, “khoẻ khắn” mà phải đọc là “nhảy dây” ,“khỏe khoắn”, chú ý phân
biệt giữa âm d và âm nh., âm x và âm s như : “chim sẻ” thành “chim xẻ”.v.v…
- Đọc đúng các âm chính: Ví dụ: có ý thức phân biệt để không đọc “iu
tin, quả lịu” mà phải đọc “ưu tiên, quả lựu”.
- Đọc đúng các âm cuối: Ví dụ: có ý thức không đọc: “luông luông” mà
phải đọc “luôn luôn”.
- Đọc đúng bao gồm cả đọc tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điều câu. Ngữ
điệu là hiện tượng phức tạp, có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có quan hệ
với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng), trọng âm, âm điệu, âm nhịp
và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy cho học sinh làm chủ những yếu tố này.
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 12 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa là mục đích của
dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc.
Khi dạy đọc đúng giáo viên cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ
pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc khơng được tách một từ ra
làm hai. Ví dụ khơng ngắt hơi.
“Con/ cị mà đi ăn đêm
Đậu phải cành/ mềm lộn/ cổ xuống ao”
- Ông già bẻ gãy từng chiếc đũa một / cách dễ dàng. Không tách giới từ
với danh từ đi sau nó.

Thí dụ khơng đọc:
“Như con chim chích
Nhảy trên / đường vàng”
Khơng tách động từ, hệ từ “là” với danh từ đi sau nó.
Thí dụ: không đọc
Cá heo là / tay bơi giỏi nhất của biển
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu
hơn ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng
ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu
cảm. Với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ giọng khi đọc bộ
phận giải thích của câu.
Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.
3. Luyện đọc nhanh
a) Đọc nhanh (cịn gọi là đọc lưu lốt, trơi chảy) là nói đến phẩm chất đọc
về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau
khi đã đọc đúng.
Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (nhiệm vụ này phần dạy đọc
của phân môn học vần phải đảm nhận), đọc không ê a, ngắc ngứ, không vừa đọc
vừa đánh vần. Về sau tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức
bài đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ đọc
nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp được. Vì vậy, đọc nhanh khơng phải là
đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng
trùng với tốc độ của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ đọc sẽ nhanh hơn nhiều.
b) Biện pháp luyện đọc nhanh
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu
để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn,
bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra, cịn có
biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, của bạn để

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch


- 13 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng
cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc như thế nào còn phụ
thuộc vào độ khó của bài đọc.
IV-/ MỤC ĐÍCH U CẦU CỦA PHÂN MƠN TẬP ĐỌC Ở LỚP 1
- Mơn Tiếng Việt ở trường tiểu học có tác dụng hình thành phát triển
ngôn ngữ cho học sinh. Tiếng Việt gồm nhiều phân mơn: Tập đọc, từ ngữ, ngữ
pháp, chính tả, tập làm văn. Phân mơn tập đọc có vị trí quan trọng. Dạy tốt phân
môn này đáp ứng một trong 4 kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Kỹ năng đọc nhanh,
chính xác, rõ ràng, rành mạch và diễn cảm nhờ đó học sinh có những hiểu biết
văn học ngơn ngữ và ngược lại. Vì vậy đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là
q trình có liên quan mật thiết với nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh
được những tri thức văn hố của dân tộc và cũng từ đó giáo dục tình cảm đạo
đức cao đẹp cho học sinh, đồng thời phát huy tính sáng tạo, khả năng tư duy cho
các em.
Đối với học sinh lớp 1, các em bắt đầu chuyển từ giai đoạn học vần sang
tập đọc vì vậy giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả phương pháp học vần, cả phương
pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống âm vần đã học
(nhất là các vần khó), đọc đúng và trơn tiếng, đọc liền từ, đọc cụm từ và câu: tập
ngắt nghỉ (hơi) đúng chỗ trong câu. Hiểu các từ thông thường, hiểu được ý diễn
đạt đã đọc (độ dài câu khoảng 10 tiếng). Bên cạnh nhiệm vụ ơn vần cũ, học vần
mới học sinh cịn được phát triển vốn từ, tập nói câu đơn giản.
V-/ VÀI NÉT VỀ PHÂN MÔN TẬP ĐỌC Ở LỚP 1
- Cấu trúc chung: Phân môn tập đọc gồm 42 bài được bắt đầu từ tuần 5 của
học kỳ II (có 14 tuần dạy tập đọc, mỗi tuần có 3 bài, mỗi bài dạy trong 2 tiết).

- Nội dung: Các bài tập đọc xoay quanh 3 chủ đề: Nhà trường, gia đình, thiên
nhiên đất nước.
- Bài tập đọc lớp 1 gồm có các phần:
+ Văn bản đọc
+ Những từ khó cần lưu ý
+ Các câu hỏi (bài tập) để ôn luyện âm, vần
+ Luyện nói: nói về một vấn đề hoặc nhìn tranh để diễn đạt.
VI-/ NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SINH RÈN ĐỌC
- Quá trình tìm hiểu thực tế, nhìn chung mỗi giờ tập đọc đều có 2 phần lớn
tìm hiểu nội dung bài và luyện đọc, hai phần này có thể tiến hành cùng một lúc,
đan xen vào nhau, cũng có thể tách rời nhau tuỳ từng bài và từng giáo viên.
Song dù dạy theo cách nào thì hai phần này ln có mối quan hệ tương hỗ,

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 14 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

khăng khít. Phần tìm hiểu bài giúp học sinh tìm hiểu kỹ nội dung nghệ thuật của
từng bài, từ đó học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Ngược lại đọc diễn cảm để thể
hiện nội dung bài, thể hiện những hiểu biết của mình xunh quanh bài học.
Như vậy phần luyện đọc có vai trị quan trọng, học sinh đọc tốt sẽ giúp
các em hoàn thành được năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ của chính bản thân
mình. Đọc tốt giúp các em hiểu biết tiếp thu được văn minh của loài người, bồi
dưỡng tâm hồn tình cảm, phát triển tư duy.
Trong quá trình rèn đọc giáo viên cần rèn luyện một cách linh hoạt các
phương pháp khác nhau để phù hợ với đặc trưng của phân môn và phù hợp với
nội dung của bài dạy. Quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc trước hết giáo viên

phải sử dụng phương pháp làm mẫu. Nghĩa là giáo viên làm mẫu cho học sinh
nghe, yêu cầu giọng đọc của giáo viên phẩi chuẩn, diễn cảm thể hiện đúng nội
dung, ý nghĩa của bài học để học sinh bắt trước đọc theo. Sau đó giáo viên phải
kết hợp phương pháp luyện đọc theo mẫu, luyện đọc đúng, đọc chính xác các
phụ âm đầu, âm chính, âm cuối, dấu thanh. Đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi nghỉ hơi
đúng chỗ, đúng ngữ điệu câu. Từ đó hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm để biểu đạt
đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả mong muốn và gửi gắm trong bài tập đọc.
- Trong quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc, giáo viên cần đổi mới
phương pháp giảng dạy, luôn lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ là người
hướng dẫn tổ chức, học sinh tự tìm hiểu, tự phát hiện và luyện đọc đạt kết quả tốt.
- Ngoài ra để phần rèn đọc đạt kết quả tốt thì cần phải có các yếu tố khác
như cơ sở vật chất đầy đủ, đồ dùng học tập. Bên cạnh đó giáo viên phải ln
tích cực tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ năng lực. Nếu phối hợp các
yếu tố trên sẽ giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Từ đó thể hiện được nội
dung của bài học, thấy được cái hay, cái đẹp của cuộc sống qua từng bài học.
- Bên cạnh các yếu tố trên trong giảng dạy phân môn tập đọc giáo viên
còn phải chú ý đến một số nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc phát triển lời nói (nguyên tắc thực hành). Chúng ta ai cũng
biết trẻ em không thể lĩnh hội được lời nói nếu chúng khơng nắm được lời
miệng. Do vậy khi giảng dạy cần phải bảo đảm nguyên tắc này. Điều này được
thể hiện rõ hơn ở phần luyện đọc, ở phần này học sinh được rèn luyện về cách
phát âm, cách nghĩ hơi đúng chỗ, cách đọc đúng ngữ điệu.
+ Để giờ tập đọc đạt kết quả cao thì phải bảo đảm nguyên tắc phát triển tư
duy, phát huy tính tích cực, chủ đạo của học sinh. Do vậy phần luyện đọc giáo
viên cần gọi mở, hướng dẫn học sinh tự phát hiện những chỗ cần ngắt giọng hạ, hạ
giọng ở những câu thơ, những câu văn trong bài từ đó tìm ra cách đọc hay hơn.

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 15 -



Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Như vậy để học sinh đọc tốt môn tập đọc đặc biệt là vấn đề rèn đọc đúng
cho học sinh lớp 1 chúng ta cần đảm bảo tốt các phương pháp và nguyên tắc
trên.

PHẦN KẾT LUN
1. ý NGHĩA CủA Đề TàI:
Rốn k nng c cho học sinh là đọc đúng âm, vần tiếng, từ và câu ứng dụng
mình đã học. Đọc nhấn mạnh vào nội dung mình đang học để làm nổi bật ý
nghĩa của tiếng, từ,câu, biết ngắt nghỉ đúng chỗ.
Để phân môn học vần ( tập đọc-học kì II ) có kết quả giáo viên phải nắm
vững đặc điểm tâm lí của học sinh. Do vốn từ ngữ của các em còn hạn chế, tư
duy của các em chưa phát triển, độ chú ý chưa cao nên học sinh thường thích
làm những gì mình muốn, nói những gì mình nghĩ. Chính vì thế nếu khơng xác
định rõ nhiệm vụ học tập thì các em rất dễ quên.
Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền
thụ cho học sinh, phải bồi dưỡng mặt nào cho các em thông qua bài học đó. Khi
thiết kế bài dạy cần lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, vận dụng được việc
đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm. Hay nói
cách khác giáo viên chỉ là người tổ chức các hình thức dạy học, còn học sinh
phải chủ động chiếm lĩnh tri thức. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng phải
được coi trọng hàng đầu.
Mở đầu tiết học cần giới thiệu bài một cách tự nhiên để gây sự hứng thú học
tập cho học sinh nhằm lôi cuốn các em vào nội dung bài học.
Khi đọc mẫu giáo viên cần phát âm chuẩn vì ở lứa tuổi các em bắt chước rất
tốt tránh để tiếng địa phương làm ảnh hưởng đến cách phát âm của học sinh.
- Trong quá trình giảng dạy kể từ đầu năm học đến nay tôi đã áp dụng một số

biện pháp để rèn kĩ năng đọc đúng - đọc nhanh - đọc thành thạo cho học sinh lớp
1 kết quả đạt được như sau:
TSHS

Thời gian

Lớp 1

khảo sát

Đọc tốt
TS
TL

Đọc khá
TS
TL

Đọc TB
TS
TL

Đọc yếu
TS TL

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 16 -



Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Tuần 34
30

Năm học:

18

60%

10

33,3%

2

6,7%

0

0%

18

60%

11

36,67%


1

3,33%

0

0%

2011-2012
Tuần 23
30

Năm học:
2012-2013

* Qua các biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh như trên tơi tin rằng sang
học kì II tỷ lệ học sinh đọc tốt sẽ chiếm tỷ lệ cao. Vì hiện nay các em mới chỉ
học xong phân mơn học vần, sang học kì II học sinh tiếp tục được rèn kĩ năng
đọc thông qua phân môn tập đọc.

3. Kiến nghị, đề xuất
T vic nghiờn cu c s thc tiễn và cơ sở lý luận của việc dạy đọc là
nhận thấy nếu dạy như đại trà hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu
dạy đọc ở tiểu học. Do vậy dể khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu
điểm hiện có ở thực tế. Tơi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp hướng dẫn
học sinh rèn đọc đúng để nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc ở lớp 1 nói riêng và
ở tiểu học nói chung. Đó là:
1. Đọc mẫu:
- Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng đọc

của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ ràng, trôi chảy và
diễn cảm. Giáo viên yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học sinh tâm lý nghe
đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên
đứng ở vị trí bao qt lớp, khơng đi lại, cầm sách mở rộng, thỉnh thoảng mắt
phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng khơng để bài đọc bị gián đoạn.
- Đối với học sinh lớp 1 giai đoạn đầu (khoảng 2 → 3 bài đầu) giáo viên
chép bài đọc lên bảng rồi học sinh theo dõi cô đọc ở trên bảng, nhưng ở giai
đoạn sau giáo viên nêu yêu cầu học sinh theo dõi bài ở sách giáo khoa để tạo
cho các em có thói quen làm việc với sách.
2. Hướng dẫn đọc
Sách giáo khoa tập đọc lớp 1 chủ yếu có 2 dạng bài:
- Dạng thơ, chủ yếu là thể thơ 4 – 5 tiếng
- Dạng văn xi
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 17 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Cụ thể là trong 42 bài đọc thì có:
- 23 bài dạng văn xi
- 19 bài dạng thơ
Việc hướng dẫn đọc đúng được thể hiện trong tiết 1
a. Luyện đọc từ ngữ
Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi
luyện đọc đúng tồn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần. Trong
phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó, hay nhầm lẫn
khi đọc có ở trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài việc cần lựa chọn
thêm những từ ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay nhầm lẫn hoặc phát âm

sai để cho các em luyện đọc. Trong thực tế, hàng ngày lên lớp tơi vẫn thực hiện
điều này.
Thí dụ: Bài “Hoa Ngọc Lan”
Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau
“ Hoa lan, lá dày, lấp ló”
Khi dạy, dựa vào tình hình đọc của lớp ngồi những từ trên tơi đã tìm
thêm một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ: “xanh thẫm, nụ
hoa, cánh xoè ra duyên dáng, ngan ngát, toả khắp vườn, khắp nhà…” Sở dĩ tôi đã
lựa chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp tơi dạy vần cịn một số ít em
đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanh. Cụ thể như:
Từ

Học sinh đọc nhầm

Xanh thẫm

Sân thấm

Nụ hoa

Nụ hao

Cánh xoè ra duyên dáng

Cánh xèo ra duyên dáng

Ngan ngát

Ngan ngác


Toả khắp vườn, khắp nhà

Toả khắc vườn, khắc nhà

Giáo viên cũng nên để cho học sinh tự nêu những từ mà các em cảm thấy
khó đọc trong khi phát âm.
Thí dụ: Bài “Chú công”
SGK chỉ yêu cầu luyện đọc từ “nâu gạch, rẻ quạt, rực rỡ, lóng lánh”
nhưng các em học sinh lớp tôi đã nêu ra được 2 từ mà các em cho là khó đọc đó

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 18 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

là: “màu sắc, xoè tròn” vì khi đọc dễ bị lẫn “màu sắc” với “màu xắc”, “xoè
tròn” với “xèo tòn”
Khi cho các em luyện đọc từ ngữ, giáo viên nên kết hợp phân tích tiếng để
giúp học sinh nhớ lại những âm vần đã học. Tuy nhiên chúng ta cần tập trung
gọi những học sinh đọc còn yếu, song để giúp những em này đọc được đúng thì
việc gọi một số em giỏi đọc thật to, thật chính xác là một việc làm khơng thể
thiếu bởi vì các êm yếu sẽ bắt chước các bạn để đọc và như vậy các em sẽ có ý
thức tự sửa hơn. Sau đó cả lớp sẽ đồng thanh những từ ngữ này. Cần tăng cường
cho các em nhận xét nhau đọc, đúng hay say, nếu sai thì ở đâu, các em có thể tự
sửa lại cho bạn. Nếu học sinh khơng làm được việc đó, giáo viên phải kịp thời
uốn nắn sửa sai ngay cho các em. Nhất thiết phải có khen chê kịp thời.
- Khơng chỉ luyện đọc đúng từ trong giờ tập đọc mà trong các tiết tăng cường
Tiếng Việt tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vần để

giúp các em phát âm tốt hơn.
Thí dụ: Dạng bài tập điền vần hoặc điền phụ âm đầu
+ Bài tập 1: Điền l hay n
….o…..ắng
, …o…ê
, ….í….ẽ ,
….áo…ức
+ Bài tập 2: Điền r, d, gi
… ộn….ã , …..ập ….ờn ,
tháng…..iêng
+ Bài tập 3: Điền s, x
…ản …uất
, …anh….anh
,
…o….ánh
…ung phong ,
….ừng…ững
+ Bài tập 4: Điền vần ăc, ắt hay ăp
m….. trời
,
m….. áo
,
đôi m……
kh……… nơi ,
th……. nến
+ Bài tập 5: Điền vần anh hay ăn
ch..… len , c…… đẹp ,
c…… nhà
m…. khoẻ
,

bức tr…….
.v..v và còn nhiều bài tập khác dạng như trên. Sau khi học sinh điền xong
giáo viên phải yêu cầu và kiểm tra các emđọc. Nếu các em đọc sai giáo viên
phải kịp thời uốn nắn ngay. Phần luyện đọc từ nếu giáo viên làm tốt, hướng dẫn
học sinh đọc kỹ sẽ giúp cho các em đọc trơn bài đọc tốt hơn.
b. Đọc đúng: dạng thơ
Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một
cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể hiện được
tình cảm của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 19 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

xúc đến người nghe. Vì vậy đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vần thơ, thể thơ để
thể hiện sắc thái, tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ thì một cơng việc khơng
thể thiếu được đối với giáo viên và học sinh đó là ngắt nhịp câu thơ. Thực tế cho
thấy học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do khơng tính đến nghĩa chỉ đọc theo áp lực
của nhạc thơ. Học sinh tìm được trong bài có những dấu câu thì ngắt nhịp ra sao.
Do vậy khi dạy những bài đọc thơ ở giai đoạn đầu tôi thường chép lên bảng các
câu thơ cần chú ý ngắt giọng rồi hướng dẫn
Thí dụ: Bài “Tặng Cháu”
Vở này / ta tặng cháu yêu ta
Tỏ chút lịng u cháu / gọi là
Mong cháu / ra cơng mà học tập
Mai sau / cháu giúp nước non nhà
Học sinh sẽ được luyện đọc từng câu rồi đọc nối tiếp nhau cho đến hết
bài. Giáo viên có thể cho các em dùng ký hiệu đánh dấu vào sách để khi đọc

không bị quên.

Đến giai đoạn sau (khoảng từ giữa học kỳ II trở đi) tơi đã để học sinh
nhìn vào sách và nêu cách ngắt giọng của mình ở từng câu thơ (vì những bài thơ
của lớp 1 thường là ngắn nên công việc này cũng không chiếm quá nhiều thời
gian trong tiết dạy). Nếu học sinh nói đúng giáo viên công nhân ngay và cho các
em đánh dấu ln vào sách. Nếu học sinh nói sai giáo viên sửa lại cho học sinh.
Thí dụ 1: Bài “Mẹ và cô”
Học sinh thường ngắt nhịp như sau:
Buổi sáng / bé chào mẹ
Chạy tới ôm / cổ cô
Buổi chiều / bé / chào cơ
Rồi sào / vào lịng mẹ
Mặt trời / mọc / rồi lặn
Trên đôi chân / lon ton
Hai chân trời / của con
Là mẹ / và cô giáo
Tôi đã sửa lại những câu học sinh sai và nêu cho các em thấy tại sao ngắt
nhịp như vậy lại là sai.
Thí dụ: Câu “chạy tới ơm cổ cơ” ngắt nhịp như trên là sai vì “ơm cổ cơ”là
một cụm từ liền nhau, nếu ngắt giọng ở sau chữ “cổ” thì cụm từ đó sẽ bị tách ra
Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 20 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

và nghĩa của nó sẽ không rõ ràng. Hay câu “Buổi chiều bé chào cô” cũng tương
tự tôi đã sửa cách đọc bài thơ trên như sau:

Buổi sáng / bé chào mẹ
Chạy tới / ôm cổ cô
Buồi chiều / bé chào cô
Rồi / sà vào lịng mẹ

Mặt trời mọc / rồi lặn
Trên đơi chân lo ton
Hai chân trời / của con
Là mẹ / và cô giáo
Thí dụ 2: Bài “Kể cho bé nghe”
Khi đọc học sinh thường ngắt mỗi dòng thơ một lần là do thói quen
nhưng tơi đã sửa lại và hướng dẫn cho các em cách đọc vắt dòng: cuối dòng 1
đọc vắt ln sang dịng 2, cuối dùng 3 đọc vắt ln sang dòng 4. Cứ như thế cho
đến hết bài.
Bên cạnh việc rèn đọc đúng trong các giờ tập đọc ở trên lớp thì trong các
tiết tăng cường tiếng Việt tơi cũng thường đưa ra những câu thơ hoặc bài thơ
ngắn để giúp học sinh luyện đọc và ngắt giọng, cũng có thể đó là những câu ứng
dụng hay bài ứng dụng đã có ở phần học vần.
Thí dụ:
“Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Hay
“Tiếng dừa làm dịu nắng trưa
Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo
Trời trong đầy tiếng rì rào
Đàn cị đánh nhịp bay vào bay ra”
c. Đọc đúng: dạng văn xuôi
Tương tự như ở thơ, giáo viên cần chú trong rèn cho các em biết ngắt,
nghỉ hơi cho đúng. Cần phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt hơi cho đúng.

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 21 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Khi đọc không được tách một từ ra làm hai, tức là không ngắt hơi trong một từ.
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghĩ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở
dấu chấm. Đối với những câu văn dài cần hướng dẫn học sinh ngắt hơi cho phù
hợp. Cụ thể tôi cho học sinh tự tìm những câu văn dài đó hoặc do chính giáo
viên đưa ra. Sau đó u cầu học sinh xác định cách ngắt giọng, gọi học sinh
nhận xét đúng sai. Đối với học sinh lớp 1 giáo viên cũng chưa nên hỏi nhiều quá
về việc tại sao các em lại ngắt giọng như vậy mà nếu thấy đúng thì giáo viên
cơng nhận ngay, cịn nếu sai thì sửa cho các em và giải thích để các em thấy rõ
hơn. Sau khi xác định ngắt giọng ở mỗi câu văn dài bao giờ giáo viên cũng phải
nhấn mạnh cho các em thấy tầm quan trọng trong việc ngắt, nghỉ đúng ở các câu
văn, đoạn văn. Muốn xác định cách ngắt giọng đúng thì phải dựa vào nghĩa vào
các tiếng, từ, dấu câu.
Thí dụ: Bài “Trường em”
Câu dài trong bài cần hướng dẫn cách ngắt nghỉ hơi là:
“Ở trường / có cơ giáo hiền như mẹ / có nhiều bè bạn thân thiết như anh em /”
Tôi đã chép câu này lên bảng và hướng dẫn cách ngắt hơi như trên (vì đây
là bài đầu tiên trong chương trình tập đọc nên tơi hướng dẫn ln cách đọc).
Thí dụ 2: Bài “Đầm sen”
Học sinh đã phát hiện ra câu dài trong bài là ngắt giọng như sau:
“Suốt mùa sen / sáng sáng lại có những người ngồi trên thuyền nan / rẽ lá /
hái hoa”
Tôi đã bổ sung thêm cách nghỉ hơi cho các em như sau:
“Suốt mùa sen , / sáng sáng / lại có những người ngồi trên thuyền nan / rẽ

lá / hái hoa //.”
Tôi giải thích ta ngắt ở sau từ “sáng sáng” để nhấn mạnh thêm về thời
gian mà con người đi thăm đầm sen.
Đối với những bài có lời thoại, giáo viên phải hướng dẫn kỹ học sinh cách
lên giọng cuối câu hỏi và xuống giọng cuối câu kể (câu trả lời)
Thí dụ 3: Bài “Vì bây giờ mẹ mới về”
Tơi đã hướng dẫn học sinh đọc từng câu thoại của mẹ và của con. Những
câu hỏi của mẹ:
Con làm sao thế ? Đứt khi nào thế ? (đọc lên giọng cuối câu)
Những câu trả lời của cậu bé.

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 22 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

Con bị đứt tay. Lúc nãy ạ ! Vì bây giờ mẹ mới về. (đọc xuống giọng ở cuối
câu)
Cũng như thơ, sau khi sửa xong lỗi ngắt giọng cho học sinh, giáo viên
phải gọi nhiều em đọc, các học sinh khác nghe và nhận xét bạn đọc.Việc luyện
đọc cho học sinh đọc đúng từ, câu sẽ giúp cho việc đọc đoạn, bài được trôi chảy,
lưu loát hơn và học sinh nắm chắc được cách đọc đúng văn bản được học mà
khơng phải tình trạng học vẹt.
Để tiết học nhẹ nhàng, không nhàm chán mà lại nhiều em được luyện đọc
thì giáo viên phải tổ chức đọc theo nhiều hình thức khác nhau như đọc cá nhân,
đọc theo nhóm, theo tổ hoặc đồng thanh. Những hình thức này cịn giúp giáo
viên kiểm sốt được khả năng đọc của toàn thể học sinh trong lớp.
- Luyện đọc diễn cảm sẽ được thể hiện trong tiết 2, trong phạm vi đề tài

này tôi chỉ đề cập đến vấn đề đọc đúng. Vì vậy mà cách hướng dẫn đọc diễn
cảm sẽ không được nêu lên trong đề tài.
d. Luyện đọc củng cố và nâng cao
Để giúp học sinh đọc bài một cách chắc chắn, giáo viên cần dành thời
gian để luyện đọc củng cố và nâng cao. Trong phần này giáo viên cho học sinh
luyện đọc cá nhân – giáo viên cần chú ý tới các em đọc yếu để em đó được tham
gia đọc – giáo viên cần động viên khích lệ kịp thời. Trong q trình học sinh đọc
giáo viên quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai cho các em. Đối với những bài đọc
có lời đối thoại nên cho các em đọc theo lối phân vai. Đối với bài thơ cần cho
các em đọc nhiều. Một tiết học tập đọc chỉ có 35 – 40 phút vì vậy để đảm bảo
thời gian và chất lượng giờ học, học sinh phải đọc trước văn bản ở nhà. Giáo
viên cần có sự chuẩn bị chu đáo, phải đưa ra các tình huống có thể xảy ra khi
hướng dẫn học sinh đọc cho đúng, cho hay. Muốn vậy giáo viên phải luôn trau
dồi kiến thức, luôn thay đổi phương pháp dạy học cho phù hợp với sự phát triển
của xã hội. Trong giờ học, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức để học sinh
tự tìm ra kiến thức.
Qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm để dạy tốt phân môn tập đọc mà
nội dung trọng tâm là truyền kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1. Tơi thấy rằng
đây là một phương pháp và hình thức nhằm tích cực hố hoạt động của học sinh
vì khi thực hiện phương pháp và hình thức này học sinh hồn tồn chủ động tự
giác sáng tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục đích của q trình dạy
học hiện nay và hồn tồn phù hợp với đặc điểm phát triển sinh lý của học sinh
lớp 1.
Để giờ dạy tập đọc đạt kết quả cao giáo viên cần áp dụng linh hoạt các
biện pháp trong phần luyện đọc đúng. Tuỳ từng bài giáo viên chọn các biện

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 23 -



Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A

pháp phù hợp để làm sao đạt kết quả cao nhất trong giờ tập đọc. Muốn vậy
người giáo viên phải làm được những công việc sau:
- Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài trước khi lên lớp, phải dự đốn được
tình huống có thể xảy ra trong bài dạy, từ đó có biện pháp thích hợp để
giải quyết tình huống đó.
- Giáo viên chuẩn bị đủ đồ dùng trực quan trong giờ dạy học. Giáo viên
luôn coi học sinh là trung tâm của mọi hoạt động, còn giáo viên chỉ là
người tổ chức hướng dẫn học sinh.
- Để đạt được các yêu cầu trên địi hỏi người giáo viên phải có trình độ
nhất định về kiến thức, phải linh hoạt sáng tạo trong việc đổi mới phương
pháp dạy học. Ngồi ra một điều khơng thể thiếu đó là lịng nhiệt tình, sự
tận tâm với nghề, dức tính chịu khó kiên trì, với đầu tư thích đáng cho
việc nghiên cứu tài liệu phục vụ bài dạy của mỗi giáo viên.
Trên đây là những ý kiến nhỏ của bản thân tôi nhằm giúp giáo viên tham
khảo khi rèn đọc đúng cho học sinh. Mong thầy cô và các đồng nghiệp góp ý và
bổ sung để nâng cao chất lượng giờ dạy tập đọc ở tiểu học.
Xin chõn thnh cm n!
Quảng Minh, thỏng 2 nm 2013.
Ngi vit

Đinh ThÞ Tè Nga
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG MINH A
.......................................................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................
.

...........................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................
.
..........................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................
.
..........................................................................................................................................................................................................

Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 24 -


Một số biện pháp luyện đọc đúngcho học sinh lớp 1.3.Trường tiểu học Quảng Minh A
..........................................................................................................................................................................................................

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHỊNG GD-ĐTQUẢNG TRẠCH
.......................................................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................
.
...........................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................
.
..........................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................
.
..........................................................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................................................


Người trình bày:Đinh Thị Tố Nga.Trường tiểu học Quảng Minh A-QuảngTrạch

- 25 -


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×