Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

“một số bài tập phát triển sức bền chuyên môn cho nam sinh viên môn bóng chuyền trường đại học tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.63 KB, 74 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục thể chất là một nhiệm vụ cơ bản trong mục tiêu chiến lược
của sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta nhằm góp phần đào tạo những con
người phát triển toàn diện, hoàn thiện về nhân cách, phát triển về trí tuệ, nâng
cao thể chất để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, giữ vững và tăng cường nền an ninh quốc phòng trong hoàn cảnh
đất nước ta đang trên con đường đổi mới, nền kinh tế xã hội mở cửa với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, đã quyết định “đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy cần
phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người, đó là
yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững”[15]. Từ các quan điểm của
Đảng ta nói trên, cùng với luật giáo dục đã được ban hành, mục tiêu giáo dục
là “ Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức,
có sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp trung thành với lý tưởng độc lập và chủ
nghĩa xã hội…”[1; 21].
Cũng như các môn thể thao khác, bóng chuyền là một trong những môn
thể thao được phát triển rộng rãi và khá phổ biến trên toàn thế giới. Nó chiếm
vị trí khá quan trọng trong việc giáo dục thể chất và giáo dục đạo đức con
người. Vì nó là một môn thể thao tập thể có tính đối kháng cao. Tập luyện và
thi đấu bóng chuyền có tác dụng mau chóng nâng cao các tố chất thể lực như:
Sức nhanh, Sức mạnh, Sức bền, độ mềm dẻo, khéo léo và khả năng phối hợp
vận động.
Hoạt động của các đấu thủ trên sân đòi hỏi người tập phải biết vận
dụng những giác quan của mình để phán đoán chuẩn xác các tình huống xẩy
2


ra trong thi đấu. Bóng chuyền là một trong những môn thể thao mang tính tập
thể cao, sự hợp đồng giữa các vận động viên như một sợi dây chuyền liên hệ
chặt chẽ, đòi hỏi mỗi vận động viên phải có khả năng toàn diện và liên tục di
chuyển. Do đó, người tập phải không những có kỹ chiến thuật tốt mà đòi hỏi
phải có thể lực cao mới phù hợp với Bóng chuyền hiện đại.
Quá trình huấn luyện thể lực là một quá trình toàn diện, các tố chất thể
lực, đặc biệt là tố chất sức bền chuyên môn. Trong hoạt động thi đấu bóng
chuyền thì tố chất sức bền chuyên môn giữ một vai trò quan trọng. Các hoạt
động như bật nhảy đập bóng tấn công, bật nhảy chắn bóng, bật nhảy chuyền
bóng, di chuyển chiếm vị trí trên sân và đặc biệt là bật nhảy phát bóng tấn
công đây là một hoạt động dành lợi thế ngay từ khi đưa bóng vào cuộc, phù
hợp với xu thế huấn luyện bóng chuyền hiện đại.
Việc giáo dục thể chất (GDTC) nói chung và giảng dạy môn bóng chuyền
nói riêng của trường Đại học Tây Bắc hiện nay đã được quan tâm, song hầu như
vẫn giữ một thói quen dàn đều và cào bằng chưa chú trọng phát triển một cách
khoa học có hệ thống nhằm hướng tới các tố chất mang tính chất đặc thù có tính
chất quyết định trực tiếp trong các hoạt động thi đấu. Muốn giải quyết được
vấn đề đó đòi hỏi giảng dạy cũng như khi huấn luyện sức bền chuyên môn
cần sử dụng hợp lý có khoa học đảm bảo tính hệ thống trong quá trình tập
luyện và thi đấu.
Để đảm bảo giảng dạy cho nam sinh viên môn bóng chuyền của khoa
TDTT trường Đại học Tây Bắc có một trình độ sức bền chuyên môn đáp ứng
được một cách tích cực trong học tập và thi đấu cũng như công tác sau này
đòi hỏi các nhà chuyên môn cần có một chương trình giảng dạy và huấn luyện
đảm bảo tính hệ thống khoa học. Chúng ta cần nghiêm túc đánh giá và đưa ra
các bài tập cụ thể phù hợp để phát triển sức bền chuyên môn có hiệu quả cao
trong giảng dạy và huấn luyện.
Vấn đề sức bền từ trước tới nay đã có một số tác giả nghiên cứu và ứng
dụng. Song việc áp dụng hệ thống các bài tập đó trong công tác huấn luyện
3


nói chung và trong giảng dạy nói riêng ở trường Đại học Tây Bắc thì hầu hết
chưa thực sự được quan tâm và việc vận dụng vào công tác giảng dạy và huấn
luyện còn rất non kém. Đó cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn tới kết quả học
tập chưa cao, thành tích thi đấu còn hạn chế, khả năng tiếp thu động tác, kỹ
chiến thuật của sinh viên còn gặp khó khăn hơn hoặc chưa theo kịp.
Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết không thể thiếu trong
chương trình học tập và rèn luyện của sinh viên môn bóng chuyền khoa
TDTT trường Đại học Tây Bắc.
Qua tìm hiểu vấn đề phát triển sức bền chuyên môn cho nam sinh viên
môn bóng chuyền khoa TDTT trường Đại học Tây Bắc thấy rằng chưa có một
tác giả hay một công trình nghiên cứu nào được công bố
Do vậy, việc nghiên cứu, lựa chọn tìm ra một hệ thống bài tập phát
triển sức bền chuyên môn là một vấn đề cấp thiết hiện nay đối với nam sinh
viên môn bóng chuyền trường Đại học Tây Bắc, nhằm làm nền tảng cho việc
học tập cũng như nâng cao khả năng tiếp thu kỹ thuật động tác, và là cơ sở thể
lực vững chắc cho những năm tiếp theo.
Vì lý do nêu trên tác giả đi đến việc nghiên cứu đề tài.
“Một số bài tập phát triển sức bền chuyên môn cho nam sinh viên môn
Bóng chuyền trường Đại học Tây Bắc”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi tới việc nghiên cứu lựa chọn một số bài tập phát triển sức bền
chuyên môn cho nam sinh viên môn bóng chuyền trường Đại học Tây Bắc để
góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn bóng chuyền nói riêng và công
tác đào tạo trong những năm học tới ở trường, từ đó đáp ứng nhu cầu của xã
hội và đối với giáo viên thể dục thể thao trong trường học các cấp.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề nêu trên đề tài đặt ra 03 nhiệm vụ như sau.
Nhiệm vụ 1. Đánh giá thực trạng sức bền chuyên môn của nam sinh
viên (K49) môn bóng chuyền trường Đại học Tây Bắc.

4

Nhiệm vụ 2. Lựa chọn một số bài tập phát triển sức bền chuyên môn
cho nam sinh viên (K49) môn bóng chuyền trường Đại học Tây Bắc.
Nhiệm vụ 3. Thực nghiệm kiểm chứng hiệu quả ứng dụng các bài tập
đã lựa chọn.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Một số bài tập phát triển sức bền chuyên môn.
4.2. Khách thể nghiên cứu.
- Nam sinh viên (K49) môn bóng chuyền trường Đại học Tây Bắc.
- Giáo viên, chuyên gia về bóng chuyền (20 - 30).
- Tài liệu tham khảo ước khoảng; 15 – 20 tài liệu.
5. Phương pháp và tổ chức nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, đề tài đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau.
5.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu, đọc tài liệu nhằm mục đích thu thập
các thông tin có liên quan về phương pháp nghiên cứu, về chỉ tiêu nghiên cứu,
về cơ sở lý luận khoa học của vấn đề nghiên cứu tìm ra được các test để đánh
giá và lựa chọn bài tập phát triển sức bền chuyên môn. Đó cũng như là cơ sở
để viết phần tổng quan và bàn luận kết quả nghiên cứu.
5.2. Phương pháp phỏng vấn, toạ đàm
- Thông qua phỏng vấn gián tiếp bằng phiếu hỏi nhằm thu nhập thông
tin cần thiết từ ý kiến của các giáo viên, các chuyên gia để xác định được thực
trạng vấn đề và hình thành giả thiết khoa học, cũng như các chỉ tiêu đánh giá
và các bài tập phát triển sức bền chuyên môn.
- Đối tượng phỏng vấn là giáo viên giảng dạy TDTT, các chuyên gia,
huấn luyện viên có trình độ và kinh nghiệm công tác đối với môn bóng
5


chuyền trong ngành của trường Đại học sư phạm Hà Nội, trường Đại học
TDTT - Bắc Ninh và trường Đại học Tây Bắc, ngoài ra còn trao đổi với một
số giáo viên ở các trường khác.
5.3. Phương pháp quan sát sư phạm(trong đó có kiểm tra sư phạm)
- Quan sát quá trình dạy học và hoạt động thi đấu bóng chuyền (nội,
ngoại khoá) của sinh viên, nhằm tổng kết các bài tập phát triển sức bền
chuyên môn, phân phối lượng vận động trong tập thể lực
- Đồng thời qua quan sát, đề tài cũng tiến hành đánh giá sức bền
chuyên môn của nam sinh viên bóng chuyền ở một số test như
Các Test sử dụng đánh giá sức bền chuyên môn
* Test thực hiện bài tập liên hoàn
- Đánh giá sức bền phối hợp động tác
- Đơn vị tính: số lần (l)
- Cách tiến hành: Khi có tín hiệu còi VĐV đỡ bóng ở vị trí số 1 lên vị
trí số 3 sau đó di chuyển đến vị tí số 6 đỡ bóng ở vị trí số 6 lên vị trí số 3 rồi
di chuyển ngang ra biên trái đón đập bóng ở vị trí số 4.
- Yêu cầu: Đỡ bóng vào đúng ô quy định, đập bóng qua lưới và
trong sân.
- Thực hiện liên tục trong 3 phút, số tổ thực hiện 3 tổ
- Quãng nghỉ giữa các tổ là 3' lấy thành tích tốt nhất.
* Test bật nhảy đập bóng tung ở vị trí số 3 liên tục
- Nhằm đánh giá sức bền bật có đà của nam sinh viên
- Đơn vị tính: số lần (l)
- Cách tiến hành: VĐV đứng ở vị trí số 3 cách lưới 3 bước đà khi có
người phục vụ tung bóng ở số 3 lên thì lấy đà 3 bước bật nhảy đập bón xong
rồi lại lùi xuống lấy đà, cứ như vậy đập liên tục trong 2 phút
- Yêu cầu: Đập bóng qua lưới và trong sân, được tính một lần, đập liên
tục trong 2 phút thực hiện 2 tổ nghỉ giữa các tổ là 3' lấy thành tích tốt nhất.
6


* Test hai người nhảy chắn bóng liên tục trên lưới
- Nhằm đánh giá sức bền bật tại chỗ
- Đơn vị tính: số lần (l)
- Cách tiến hành: 2 VĐV đứng đối diện nhau cùng bật nhảy chắn bóng
liên tục trong 2 phút
- Yêu cầu: VĐV khi nhảy lên thực hiện động tác chắn bóng phải chạm tay
vào nhau bên trên lưới, tuyệt đối người không chạm lưới thì được tính một lần,
thực hiện liên tục trong 3 tổ nghỉ giữa các tổ là 3 phút lấy thành tích tốt nhất.
* Test chay rẻ quạt (cây thông)
+ Mục đích nhằm đánh giá khả năng duy trì sức bền tốc độ của người
tập trong di chuyển có đổi hướng nhanh và liên tục.
+ Đơn vị đo: giây
+ Cách tiến hành: Đặt 7 quả bóng tại 7 điểm quy định là A, B, C, D, E,
F, G. Khi có hiệu lệnh xuất phát người thực hiện chạy từ A sang B quay lại A
sang C, quay lại A sang D cứ như vậy hết điểm cuối cùng thì quay lại A là
đích kết thúc 1 lần thực hiện test.
+ Yêu cầu, chạy nhanh thường không di chuyển ngang và mỗi lần tới
phải chạm tay vào bóng.
+ Thực hiện 3 lần, nghỉ giữa các lần thực hiện là 5 phút, lấy thành tích
tốt nhất
+ Dụng cụ kiểm tra: Đồng hồ bấm giây.
7


G F


E D



C B



A
Sơ đồ test chạy rẻ quạt.
5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Trong đề tài này, phương pháp thực nghiệm sư phạm được sử dụng để
kiểm nghiệm sự phát triển sức bền chuyên môn thông qua việc áp dụng một
số bài tập đã lựa chọn. Thực nghiệm được tiến hành trên 40 nam sinh viên
(K49) môn bóng chuyền trường Đại học Tây Bắc.
- Nhóm thực nghiệm gồm 20 nam sinh viên bóng chuyền k49 Cao
Đẳng Thể dục
- Nhóm đối chứng gồm 20 nam sinh viên bóng chuyền K49 Cao Đẳng
Thể dục
5.5. Phương pháp toán học thống kê
Đề tài sử dụng phương pháp này nhằm mục đích xử lí số liệu đã thu
thập được và gồm các công thức toán sau.
8

* Sè trung b×nh:
1
n
i
Xi
X
n
=
=



Trong đó:
X
là số trung bình cộng.

i
X
là kết quả đo của từng cá thể

n
là tổng số người tham gia.
∑ là ký hiệu tổng
* Phương sai:
(
)
2
2
n
xx
i


=
δ
(n ≥ 30)
*
Phương sai chung:
2 2
2

1 1
( ) ( )
2
Na Nb
A A B B
i i
c
A B
X X X X
n n
σ
= =
− + −
=
+ −
∑ ∑

Trong đó:
X
A,
X
B
; Là kết quả quan sát từng chỉ tiêu ở mỗi cá thể của hai nhóm A, B.

,
A B
X X
: Là trung bình cộng các chỉ tiêu của hai nhóm A,B.

,

A B
n n
: Lµ tæng sè người tham gia t−¬ng øng cña hai nhóm A vµ B.
* §é lÖch chuẩn:
2
σ σ
= ±

* C«ng thøc so s¸nh hai sè trung b×nh.

2 2
( 30)
A B
tinh
c c
A B
X X
t n
n n
σ σ

= <
+

Trong ®ã:
X
: Lµ sè trung b×nh.

2
c

σ
: Lµ ph−¬ng sai chung
t : chỉ số so sánh hai số trung bình

9

* C«ng thøc so s¸nh hai sè trung b×nh

b
b
a
a
ba
tính
nn
xx
t
22
δδ
+

=
(n ≥ 30)
Trong ®ã:
X
: Lµ sè trung b×nh.

2
δ
: Lµ ph−¬ng sai

t : chỉ số so sánh hai số trung bình
*
n
s
x
t
d
d
tính
=
( dùng trong tự đối chiếu)
Trong đó:
d
x
là số trung bình gia tăng

d
δ
là độ lệch chuẩn gia tăng
n là số cá thể được khảo sát
* Tính hệ số tương quan r:

3,2,1
)()(
))((
22
=
−−
−−
=

∑ ∑

i
yyxx
yyxx
r
il
ii
(n < 30)
Trong đó: x là chỉ số đo của từng cá thể nhóm A
y là chỉ số đo của từng cá thể nhóm B

X
,  là giá trị trung bình của hai nhóm tương ứng
* Hệ số tương quan thứ bậc.
)1(
6
1
2
2

−=

nn
d
r

Trong đó. d là hiệu số thứ bậc ở hai biến lượng của từng cá thể.
* Công thức so sánh tần số quan sát giữa 2 mẫu.


( )
2
2
i i
i
Q L
x
L

=


10

Trong đó: Q
i
: là tần số quan sát.
L
i
: là tần số lý thuyết
∑: là ký hiệu tổng
* Nhịp tăng trưởng.
%100
)(5.0
12
12
VV
VV
W
+


=

Trong đó: W: là nhịp tăng trưởng được tính bằng phần trăm
V
1
: Kết quả đo lần trước.
V
2
: Kết quả đo lần sau.
5.6. Kề hoạch tổ chức nghiên cứu
5.6.1 Thời gian nghiên cứu
* Giai đoạn 1. Từ tháng 01/ 2010 đến 08/2010
- Xác định tên đề tài nghiên cứu
- Xây dựng đề cương nghiên cứu và báo cáo trước hội đồng khoa học
* Giai đoạn 2. Từ tháng 08/2010 đến 12/2010
- Giải quyết nhiệm vụ 1.
+ Đánh giá thực trạng sức bền của nam sinh viên môn bóng chuyền
trường Đại học Tây Bắc.
- Giải quyết một phần nhiệm vụ 2.
+ Lựa chọn một số bài tập phát triển sức bền chuyên môn làm cơ sở
cho thực nghiệm sư phạm.
* Giai đoạn 3 Từ tháng 12/2010 đến 8/2011
- Giải quyết phần còn lại của nhiệm vụ 2
- Giải quyết nhiệm vụ 3, tiến hành thực nghiệm sư phạm.
- Hình thành kết cấu luận văn, viết hoàn chỉnh luận văn và bảo vệ luận
văn trước hội đồng khoa học.
5.6.2. Địa điểm nghiên cứu
- Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.
- Trường Đại học Tây Bắc.

11

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục thể
chất trong các trường Đại học, Cao đẳng
Đã nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng công tác GDTC
trường học, nhằm đào tạo những lớp người phát triển toàn diện, kế tục sự nghiệp
Cách mạng, xây dựng kinh tế xã hội theo định hướng XHCN và bảo vệ Tổ quốc,
thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo nói
chung, về GDTC trong trường học nói riêng, được xuất phát từ những cơ sở
tư tưởng, lý luận của học thuyết Mác - Lênin về con người và sự phát triển
con người toàn diện, về giáo dục thế hệ trẻ trong XHCN, về những nguyên lý
GDTC Mác-xit, từ tư tưởng quan điểm Hồ Chí Minh về TDTT nói chung và
GDTC cho thế hệ trẻ nói riêng.
Những cơ sở tư tưởng, lý luận đó đều được Đảng ta quán triệt trong
suốt thời kỳ lãnh đạo Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến lên xây
dựng CNXH ngày nay, được cụ thể hoá qua các kỳ Đại hội Đảng, các chỉ thị,
các nghị quyết, nghị định, thông tư về TDTT ở từng giai đoạn cách mạng theo
yêu cầu nhiệm vụ và tình hình cụ thể của đất nước.
- Nghị quyết VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, tháng
06/1991 đã khẳng định: “ Bắt đầu đưa việc dạy thể dục và một số môn thể
thao cần thiết vào chương trình học tập của các trường học phổ thông,
chuyên nghiệp và các trường đại học ”.[14]
- GDTC còn là nội dung bắt buộc đã được khẳng định trong hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại chương 3, điều 35, 36, 41
hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ: “ Việc dạy và học TDTT trong trường học là
bắt buộc ”.[8]

12

Gần đây, nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII
năm 1996 đã khẳng định: “ Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công
nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu ”.[15]
Để khẳng định vai trò tất yếu của TDTT đối với toàn xã hội, cũng như
nhằm thúc đẩy nhanh, mạnh hơn nữa phong trào TDTT quần chúng và phong
trào GDTC học đường, Đảng ta luôn có những chỉ thị, nghị quyết kịp thời, đề
ra những chủ trương đường lối đẩy mạnh tiến trình phát triển. Qua từng giai
đoạn cách mạng, tương ứng với những yêu cầu, tình hình và nhiệm vụ cụ thể,
Đảng ta ban hành các chỉ thị như.
- Chỉ thị 112/CT ngày 09/05/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng Chính phủ) về công tác TDTT trong những năm trước mắt có ghi: “
Đối với học sinh, sinh viên, trước hết nhà trường phải thực hiện nghiêm túc
việc dạy và học môn TDTT theo chương trình quy định, có biện pháp tổ chức,
hướng dẫn các hình thức tập luyện và hoạt động thể thao tự nguyện ngoài giờ
học ”.[3]
- Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/03/1994 về công tác TDTT trong giai
đoạn mới đã nêu rõ: “ Cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện
thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho trường học các cấp, tạo những điều
kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả
các trường học ”.[2]
- Cũng trong năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị 133/TTg ngày
07/03/1996, về việc xây dựng và quy hoạch phát triển ngành TDTT, về
GDTC trường học đã ghi rõ: “ Bộ Giáo dục - Đào tạo cần đặc biệt coi trọng
việc GDTC trong nhà trường, cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khoá,
ngoại khoá, quy định tiêu chuẩn về rèn luyện thân thể cho học sinh các cấp
học, có quy chế bắt buộc đối với các trường ”.[4]
Vì vậy, GDTC trường học là bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục -
đào tạo và thể dục ngành nghề là một mặt quan trọng trong hệ thống GDTC

13

học đường. Cùng với thể thao thành tích cao, GDTC trường học đã góp phần
đảm bảo cho nền TDTT nước nhà phát triển cân đối và đồng bộ, để thực hiện
mục tiêu giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, cùng với thực
hiện mục tiêu chiến lược củng cố, xây dựng và phát triển nền TDTT Việt
Nam từ nay đến năm 2025, đưa nền TDTT nước nhà hoà nhập và tranh đua
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong các trường đại học, GDTC có tác dụng tích cực trong việc hoàn
thiện cá tính, nhân cách, những phẩm chất cần thiết cho nghiệp vụ và hoàn thiện
thể chất của sinh viên. Việc tiến hành GDTC nhằm giữ gìn sức khoẻ và phát
triển thể lực, tiếp thu những kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản, còn có tác
dụng chuẩn bị tốt về mặt tâm lý và tinh thần của người cán bộ tương lai. Đồng
thời giúp họ hiểu biết phương pháp khoa học, để tiếp tục rèn luyện thân thể, củng
cố sức khoẻ, góp phần tổ chức xây dựng phong trào TDTT trong nhà trường.
Quy chế về công tác GDTC trong nhà trường các cấp của Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định: “…đối với sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng phải
thực hiện kiểm tra lấy chứng chỉ, là điều kiện để thi tốt nghiệp”…[21]
Do đó, muốn giáo dục con người phát triển toàn diện phải “kết hợp hài
hoà sự phong phú về tinh thần, sự trong sáng về đạo đức, sự toàn diện về thể
chất”. Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng
thời là vốn quý tạo ra sản phẩm trí tuệ và vật chất cho xã hội. Vì vậy, chăm lo
cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội nói chung và ngành
TDTT nói riêng. Đó chính là mục tiêu cơ bản, quan trọng nhất của nền giáo
dục TDTT nước ta mà Đảng, Nhà nước và Bác Hồ luôn coi trọng, quan tâm
và nhắc nhở.
1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan
- Khái niệm giáo dục thể chất (GDTC) là một loại hình giáo dục
chuyên biệt với nội dung chủ yếu là dạy học động tác và phát triển các năng
14


lực con người. Đặc trưng của GDTC là dạy học động tác (Giáo dưỡng thể
chất) và giáo dục các tố chất thể lực.[25]
- Khái niệm về bài tập thể chất.

Để đạt hiệu quả của giáo dục thể chất người ta sử dụng nhiều phương
tiện giáo dục thể chất. Các phương tiện này bao gồm các bài tập thể chất (còn
gọi là bài tập TDTT), các yếu tố của tự nhiên, môi trường như nước, ánh nắng
mặt trời, khí hậu, thời tiết, các yếu tố vệ sinh Trong đó bài tập thể chất được
coi là phương tiện chủ yếu và chuyên biệt của giáo dục thể chất.
Bài tập thể chất là hoạt động vận động được lựa chọn nhằm giải quyết
các nhiệm vụ giáo dục thể chất.[25].
Là phương tiện giáo dục thể chất, bài tập thể chất được thực hiện bằng sự
vận động cơ bắp một cách tích cực. Nói cách khác, bài tập thể chất là sự vận
động tích cực của cơ thể con người, phù hợp với qui luật giáo dục thể chất.
- Khái niệm sức bền: Là năng lực làm việc thời gian dài mà không suy
giảm hiệu quả công việc ( nói cách khác - năng lực chống mệt mỏi). Có 2 loại
sức bền.[25]
+ Sức bền chung. Là năng lực con người đối với hoạt động thể lực thời
gian dài với cường độ thể lực vừa phải với sự tham gia của phần lớn hệ cơ.
+ Sức bền chuyên môn: Đó là khả năng con người thực hiện các loại
hình công việc riêng, bất chấp sự tăng trưởng mệt mỏi. Ví dụ; Sức bền mạnh,
sức bền tốc độ, sức bền phối hợp vận động, sức bền trong các môn thể
thao.[25]
1.3. Đặc trưng của Bóng chuyền hiện đại
Nghiên cứu đặc trưng các môn thể thao có ý nghĩa quyết định tới việc
định hướng phát triển, lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp huấn luyện
môn thể thao đó để bồi dưỡng, đào tạo được người tài thi đấu thể thao phù
hợp yêu cầu phát triển của nó.
15


Nhiều chuyên gia Bóng chuyền thế giới, đặc biệt là các nước phương
Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, những nước đã đạt được thành tích đỉnh
cao thế giới về Bóng chuyền, từ kinh nghiệm thành công đã nghiên cứu định
hướng phát triển và đưa ra đặc trưng của Bóng chuyền hiện đại là: toàn diện,
nhanh, cao, biến. Đó là những nhân tố chính, quan trọng không thể thiếu hay
coi nhẹ, hình thức để giành thắng lợi trong thi đấu Bóng chuyền đỉnh cao.
Các năng lực đó thể hiện ở các mặt:
* Toàn diện: Chỉ trình độ nắm vững toàn diện các mặt trong đó có kỹ
thuật, chiến thuật Bóng chuyền phải đạt mức điêu luyện, chuẩn, thực dụng,
bao gồm cá nhân vận động viên và đội phải đạt mức toàn diện.
Xu hướng toàn diện của Bóng chuyền là đặc trưng có tính quy luật,
nghĩa là vận động viên giỏi, có trữ lượng phát triển toàn diện, vững vàng là
điều kiện để nâng cao năng lực thi đấu, biến hoá linh hoạt và sáng tạo.
* Nhanh: Chỉ nhịp độ vận động, tốc độ trận đấu nhanh. Nhanh trong
Bóng chuyền chỉ tốc độ động tác nhanh, nhịp độ phối hợp liên tiếp nhanh,
chuyển đổi liên tục phòng thủ và tấn công nhanh. Ngoài ra, nhanh còn chỉ sự
tăng tốc và giảm tốc để tạo ra sự biến đổi tốc độ biến hoá động tác. Nhanh
theo nội hàm, thường hiểu gồm các mặt phản ứng nhanh, tần số động tác
nhanh, di chuyển vận động nhanh và bật nhảy nhanh.
* Cao: Chỉ độ cao khống chế trên lưới và cả so với lưới, bao gồm
chiều cao đứng, tay dài tức là chiều cao với tay và sức bật. Những năm gần
đây, Bóng chuyền xuất hiện xu thế nhiều người cao, nhiều đội nam có không
ít vận động viên cao trên 2m, các đội nữ cao trên 1m 85 cũng là phổ biến.
Chiều cao đứng của các đội nữ Bóng chuyền thế giới cuối thế kỷ XX cao
bằng các đội nam những năm 60.
* Biến: Chỉ năng lực phối hợp các loại kỹ, chíên thuật cũng như năng
lực vận dụng kỹ năng, kỹ xảo, căn cứ vào đối thủ và tình huống biến hoá khác
16


nhau trên sân để tìm cách thay đổi hình thái vận động như: biến tốc, biến tầm,
biến vị trí, biến lực, biến đường, biến hình tay, biến đổi động tác.
Biến do năng lực thần kinh linh hoạt và trữ lượng kỹ năng, kỹ xảo
phong phù được hình thành, tích luỹ qua huấn luyện. Biến và nhanh kiết hợp
chặt chẽ với nhau và là cơ sở tác động lẫn nhau phát triển; trong nhanh có
biến, muốn biến phải có nhanh. Qua đó thấy việc yêu cầu vận động viên Bóng
chuyền phải có năng lực sáng tạo ở mức cao đồng thời phải phát triển toàn
diện các tố chất thể lực thành phần của vận động viên Bóng chuyền.
1.4. Sức bền và sức bền trong bóng chuyền
1.4.1. Quan điểm về sức bền
Quan điểm về sức bền trong các tài liệu, sách báo có những thể hiện và
nhìn nhận khác nhau. Qua phân tích và tổng hợp tài liệu chúng tôi thấy có một
số cách tiếp cận sau:
Theo tác giả D. Harre: "Sức bền được hiểu là khả năng chống lại sự
mệt mỏi của VĐV. Sức bền đảm bảo cho VĐV đạt được một cường độ nhất
định (tốc độ, dùng lực, nhịp độ thi đấu, sử dụng sức lực) trong thời gian vận
động kéo dài của thi đấu tương ứng khả năng huấn luyện mình. Sức bền còn
đảm bảo chất lượng động tác và giải quyết hoàn hảo các hành vi kỹ - chiến
thuật tới cuộc thi đấu và vượt qua một khối lượng vận động lớn trong luyện
tập" . Theo tác giả D.Harre: "Sức bền là nhân tố xác định ảnh hưởng lớn đến
thành tích thi đấu và là nhân tố xác định thành tích tập luyện, khả năng chịu
đựng lượng vận động (LVĐ) của VĐV" [7].
Theo tác giả Diên Phong: "Tố chất sức bền chỉ là năng lực của cơ thể
khắc phục mệt mỏi sản sinh trong quá trình hoạt động "[20]
Ông cho rằng, sức bền là năng lực đa nhân tố, ngoài cấu trúc tổ chức cơ
thể ảnh hưởng đến sức bền ra nó còn có những nhân tố ảnh hưởng khác như:
17

Đặc trưng tâm lý VĐV, năng lực chức năng trao đổi và thu năng lượng khi cơ
thể vận động, tính ổn định chức năng cơ thể, sự tiết kiệm chức năng cơ thể…

Theo quan điểm của tác giả Lưu Quang Hiệp dưới góc độ sinh lý học:
Sức bền đặc trưng cho khả năng thực hiện các hoạt động thể lực kéo dài liên
tục từ 2-3 phút trở lên với sự tham gia của một khối lượng cơ bắp lớn (từ 1/2
đến toàn bộ lượng cơ bắp cơ thể) nhờ sự hấp thụ O
2
để cung cấp năng lượng
cho cơ thể chủ yếu bằng con đường ưa khí [9].
Nguồn năng lượng chính cho sự co cơ trong vận động là 3 hệ:
- Hệ phốtphogen (ATP-CP)
- Hệ lắc tác
- Hệ oxy hoá
Trong đó hệ phốtphogen và hệ lắc tác là hệ yếm khí, còn hệ ôxy hoá là
hệ ưa khí. Như vậy việc vận dụng các phương pháp đều tập trung vào việc
giải quyết các nhiệm vụ là nâng cao khả năng hấp thụ O
2
tối đa của cơ thể
(VO
2
max) và khả năng duy trì lâu dài mức độ khả năng hấp thụ O
2
tối đa của
cơ thể. Song việc tập luyện sức bền cho sinh viên Bóng chuyền là một vấn đề
có ý nghĩa quan trọng. Trong tập luyện nguồn năng lượng chính cung cấp cho
hoạt động của sinh viên Bóng chuyền là hệ yếm khí và ưa khí, nhưng trong thi
đấu thì hệ yếm khi chiếm ưu thế hơn so với hệ ưa khí.
Theo tác giả Phạm Danh Tốn, Nguyễn Toán: Sức bền là năng lực thực
hiện một hoạt động với cường độ cho trước hay là năng lực duy trì khả năng
vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có thể chịu đựng được [23].
Để phát sinh sức bền phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ nhằm hoàn
thiện và nâng cao những nhân tố chi phối đến sức bền.

+ Kỹ thuật thể thao hợp lý.
+ Năng lực duy trì trong thời gian dài trạng thái hưng phấn của các
trung tâm thần kinh.
+ Khả năng hoạt động cao của hệ tuần hoàn và hô hấp.
18

+ Tính tiết kiệm của các quá trình trao đổi chất.
+ Cơ chế có nguồn năng lực lớn.
+ Sự phối hợp hài hoà trong hoạt động của các chức năng sinh lý.
+ Khả năng chịu đựng chống lại cảm giác mệt mỏi nhờ những nổ lực ý chí.
Mặt khác việc nâng cao sức bền thực chất là quá trình làm cho cơ thể
thích nghi dần dần với LVĐ ngày càng lớn, đòi hỏi người tập phải có ý chí
kiên trì, chịu đựng những cảm giác mệt mỏi đôi khi rất nặng nề và cảm giác
nhàn chán do tính đơn điệu của tài tập [23].
Theo các tác giả và A.D Novicốp - L.P Mátvêép: Sức bền là năng lực
chống lại mệt mỏi. Hiện tượng mệt mỏi trong những hoạt động với LVĐ khác
nhau là không giống nhau. Nói một cách khác khi giáo dục sức bền không
phải chỉ chú ý đến chiều sâu của sự mệt mỏi mà cả tính chất của nó nữa [16].
Như vậy huấn luyện sức bền LVĐ được xác định đầy đủ nhờ 5 nhân tố sau:
- Cường độ bài tập
- Thời gian của bài tập
- Thời gian nghỉ giữa quãng
- Tính chất nghỉ ngơi
5 - Số lần lặp lại.
Tóm lại: Sức bền là năng lực thực hiện một hoạt động với cường độ cho
trước hay năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ
thể chịu đựng được.
Đối với môn Bóng chuyền thời gian thi đấu tương đối dài (thời gian
một trận đấu kéo dài ước chừng vài tiếng đồng hồ) do vậy mà trong huấn
luyện LVĐ của bài tập với cường độ rất cao và trong thời gian tương đối dài

thì ta phải làm sao để nâng cao dần khả năng ưa khí và yếm khí của VĐV.
Trong các giây phút căng thẳng với cường độ vận động cao hoạt động như:
Bật nhảy tấn công cao biên hoặc chạy chiến thuật tấn công nhanh trước mặt
và nhanh sau đầu, sau đó lại di chuyển để bật nhảy chắn bóng thực hiện
19

nhiệm vụ phòng thủ trên lưới, cứ như vậy thì hệ yếm khí cung cấp năng lượng
cho hoạt động là chủ yếu. Song khả năng yếm khí này rất kém bền vững, khi
ngừng các pha bật nhảy tấn công và bật nhảy chắn bóng thì mức độ yếu khí
cũng giảm đi một cách nhanh chóng [17].
Theo tác giả Trịnh Hùng Thanh: Sức bền là khả năng chống lại mệt mỏi
và duy trì hoạt động kéo dài của VĐV. Tác giả cho rằng sức bền có ý nghĩa
trong việc xác định thành tích thi đấu, đánh giá kết quả huấn luyện và khả
năng chịu đựng LVĐ, khả năng phục hồi nhanh chóng của VĐV [22]. Theo
tác giả Phạm Ngọc Viễn: "Sức bền là một mặt ý thức của VĐV phản ánh tổng
hợp độ lớn và thời gian của sự nỗ lực cơ bắp và ý chí của VĐV được thể hiện
khi thực hiện các hoạt động kéo dài" [27].
Phân tích các quan điểm về huấn luyện sức bền của các tác giả trong
nước và trên thế giới, chúng tôi có một số nhận xét sau:
Các tác giả Nguyễn Toán - Phạm Danh Tốn, A.D. Nôvicốp - L.P
MatVêép có cùng quan niệm về sức bền.
- Hầu hết các quan điểm về phương pháp huấn luyện sức bền đều thống
nhất cho rằng cơ sở khoa học huấn luyện sức bền là nâng cao khả năng hấp
thụ O
2
tối đa của cơ thể.
- Sức bền có vai trò to lớn trong việc xác định thành tích thi đấu, khả
năng chịu đựng LVĐ, khả năng hồi phục của VĐV.
- Để phát triển được sức bền trong tập luyện TDTT thì VĐV phải khắc
phục mệt mỏi.

1.4.2. Phân loại sức bền
Việc phân loại sức bền có rất nhiều quan điểm khác nhau, mỗi một
trường phái khác nhau lại căn cứ vào đặc điểm khác nhau để phân loại. Qua
phân tích và nghiên cứu tài liệu chúng tôi thấy có một số cách phân loại sức
bền như nhau:
Căn cứ vào thời gian hoạt động chia sức bền ra thành:
20

- Sức bền trong thời gian dài (trên 11'): Thành tích phụ thuộc vào khả
năng hoạt động ưa khí.
- Sức bền trong thời gian trung bình (2' - 11'): Thành tích phụ thuộc vào
yếm khí lẫn ưa khí
- Sức bền trong thời gian ngắn (45" - 2'): Thành tích phụ thuộc vào khả
năng hoạt động yếm khí và sự phát triển sức mạnh - bền và sức nhanh bền [23].
Trong sinh lý TDTT căn cứ vào hệ cung cấp năng lượng người ta chia
sức bền ra 2 loại.
- Sức bền ưa khí: Là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể trong điều
kiện sử dụng nguồn năng lượng thông qua quá trình ôxy hoá hợp chất hữu cơ
giàu năng lượng trong cơ thể.
- Sức bền yếm khí: Là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể trong điều
kiện dựa vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (các phản ứng giải
phóng năng lượng không có sự tham gia của O
2
) [10].
Sức bền ưa khí và sức bền yếm khí được coi là bộ phận chính của
chương trình huấn luyện đối với VĐV Bóng chuyền.
- Theo lý luận và phương pháp GDTC căn cứ vào số lượng các nhóm
cơ tham gia hoạt động, phân chia thành 3 loại.
+ Sức bền cục bộ: Là sức bền có dưới 1/3 khối lượng cơ quan tham gia
hoạt động.

+ Sức bền chung: Là sức bền trong các hoạt động kéo dài với cường độ
thấp có sự tham gia của 2/3 nhóm cơ trở lên. Trong hoạt động này đòi hỏi cơ
quan tuần hoàn và hô hấp hoạt động khẩn trương để đảm bảo cung cấp năng
lượng cho hoạt động.
+ Sức bền chuyên môn: Là sức bền đối với một hoạt động nhất định
được lựa chọn làm đối tượng chuyên môn hoá [25].
Căn cứ vào chế độ hoạt động của cơ người ta chia sức bền thành:
21

- Sức bền tĩnh: Là khả năng hoạt động lâu dài trong điều kiện tĩnh.
- Sức bền động: Là khả năng hoạt động lâu dài trong điều kiện hoạt động.
Căn cứ vào tố chất vận động người ta chia sức bền thành:
- Sức bền - mạnh: Là năng lực phát huy sức mạnh cao trong thời gian dài.
- Sức bền - Tốc độ: là năng lực duy trì tốc độ trong thời gian dài.
Tổng hợp các quan điểm về phân loại sức bền trên chúng tôi đi đến kết
luận sau:
Mỗi một môn khoa học, mỗi một trường phái có những quan điểm về
sức bền khác nhau. Song việc phân chia sức bền theo lý luận và phương pháp
GDTC là toàn diện hơn cả.
Như vậy, sức bền trong Bóng chuyền có một số đặc điểm sau:
- Tố chất đặc trưng cơ bản nhất trong tập luyện và thi đấu Bóng
chuyền là sức bền - tốc độ, sức bền - bật và sức bền - thi đấu.
- Sức bền trong môn Bóng chuyền được chia ra thành.
+ Sức bền chung
+ Sức bền chuyên môn
Trong huấn luyện Bóng chuyền, muốn phát triển sức bền chung phải
xuất phát từ nội dung của huấn luyện sức bền chuyên môn và ngược lại nội
dung huấn luyện sức bền chuyên môn phải dựa trên các tiền đề do huấn luyện
sức bền chung mang lại
1.4.3. Sức bền đối với Bóng chuyền

- Sức bền là một tố chất thể lực, là năng lực chống lại mệt mỏi trong
hoạt động vận động, sức bền phụ thuộc vào các yếu tố sau.
+ Năng lực hoạt động của hệ thống tim mạch.
+ Quá trình trao đổi chất.
+ Sự tiết kiệm hóa trong vận động (khả năng thả lỏng, kỹ thuật hoàn hảo).
+ Các phẩm chất tâm lý chuyên môn.
22

Sức bền phát triển tốt là tiền đề quan trọng để con người có thể sẵn
sàng lao động, học tập với năng xuất cao, đồng thời hình thành những phẩm
chất tốt đẹp như; tính kiên trì, tinh thần bền bỉ, ý chí quyết tâm
Tập luyện sức bền sẽ nâng cao khả năng làm việc của cơ thể, đặc biệt là
hệ thống tuần hoàn, hô hấp và hệ thống vận động.
Trong thể thao, sức bền là yếu tố quyết định đến thành tích thi đấu, sức
bền phát triển tốt sẽ nâng cao khả năng chịu đựng lượng vận động tập luyện
và là tiền đề quan trọng để người tập có thể hồi phục nhanh chóng sau quá
trình tập luyện và thi đấu.
Dựa trên những yêu cầu cụ thể của thi đấu thể thao người ta chia sức
bền thành sức bền cơ sở và sức bền chuyên môn.
+ Sức bền cơ sở là năng lực chống lại mệt mỏi trong hoạt động vận
động kéo dài với cường độ trong vùng năng lượng có oxi. Cơ sở sinh lý của
năng lực sức bền này là sự “ tiết kiệm hóa” trong hoạt động của các chức
năng cơ thể ( tuần hoàn, hô hấp, trao đổi chất) và sự thuần thục kỹ thuật.
Phát triển sức bền cơ sở trước hết phải nâng cao năng lực hấp thụ oxi
và các năng lực chuyển hóa oxi cũng như các phát triển các phẩm chất tâm lý
chuyên môn.
+ Sức bền chuyên môn là năng lực của vận động viên nhằm chống lại
mệt mỏi trong hoạt động của môn thể thao chuyên sâu.
Trong các môn thể thao có chu kỳ, căn cứ vào yêu cầu thi đấu (thời
gian thi đấu) người ta chia sức bền chuyên môn thành bốn loại: sức bền tốc độ,

sức bền thời gian ngắn, sức bền thời gian trung bình, sức bền thời gian dài.
Tố chất sức bền đặc biệt quan trọng trong môn Bóng chuyền. Bóng
chuyền là môn thể thao thi đấu đồng đội có tính đối kháng gián tiếp cao, có
những trận đấu căng thẳng diễn ra trong thời gian dài, có những hiệp đấu,
những pha bóng căng thẳng gay cấn đền ngạt thở, bên cạnh những đặc điểm
như xuất phát nhanh, dừng đột ngột, bật nhảy tạo ra sự bất ngờ và thời cơ cho
23

việc ghi điểm, chuyền bóng, đập bóng, bỏ bóng, phát bóng , ngay cả trong
các động tác phòng thủ cũng đòi hỏi VĐV có một khả năng duy trì sự tập
chung chú ý cao trong thời gian dài. Vì vậy, có thể nói sức bền có vai trò quan
trọng để vận động viên có thể thực hiện tốt được các động tác kỹ thuật trong
Bóng chuyền, cũng như các nhiệm vụ đề ra trong một trận đấu, hiệp đấu .
Là một tố chất quan trọng đối với VĐV Bóng chuyền, sức bền tạo cho
VĐV đủ năng lực thực hiện ý đồ chiến thuật trong tập luyện và thi đấu, tạo ra sự
bền bỉ dẻo giai khó chịu cho đối phương, nâng cao hiệu quả thành tích thi đấu.
Tóm lại, sức bền là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong
tập luyện, thi đấu và nâng cao thành tích Bóng chuyền. Chính vì vậy mà nhiều
chuyên gia, huấn luyện viên Bóng chuyền nổi tiếng đều coi trọng huấn luyện
sức bền cho VĐV của họ.
Sức bền chuyên môn là một tố chất thể lực quan trọng, cần thiết của
một cầu thủ bóng chuyền, được thể hiện ở khả thực hiện chính xác các động
tác kỹ thuật, chiến thuật trong suốt thời gian thi đấu mà không giảm sút hiệu
quả. Sự biểu hiện sức bền chuyên môn đó là tốc độ động tác, các hoạt động
sức mạnh, các yếu tố về tâm lý như tính quyết đoán, ý chí khắc phục mệt mỏi
trong thi đấu căng thẳng. Sức bền chuyên môn bao gồm; Sức bền tốc độ ; sức
bền bật nhảy và sức bền thi đấu.
1.4.3.1. Sức bền tốc độ
Sức bền tốc độ là khả năng của cầu thủ duy trì hoạt động tốc độ cao
trong thực hiện động tác, di chuyển trong thời gian của trận đấu. Người ta

thường sử dụng các bài tập phát triển sức nhanh được lặp lại nhiều lần, các
bài tập chạy có đổi hướng, các bài tập phối hợp kỹ thuật với di động có lăn
ngã cứu bóng để phát triển sức bền tốc độ. Thời gian để duy trì một lần tập
khoảng 20 - 30 giây, lặp lại từ 6 - 10 lần trong một nội dung tập. Có thể đưa
ra một số bài tập mẫu để phát triển sức bần tốc độ như.
24

- Chạy zíc zắc nhiều lần từ vạch biên ngang tới vạch giới hạn tấn công
- Di động chắn bóng nhiều lần dọc theo lưới.
- Bật nhảy đập, chắn bóng, khi rơi xuống thực hiện ngã lộn sau qua vai,
sau đó lặp lại 2 - 4 lần.
- Di động kết hợp lăn ngã theo tín hiệu của giáo viên.
- Đập bóng nhiều lần do giáo viên tung ở các vị trí khác nhau (4, 3, 2).
- Các bài tập phát triển sức bền tốc độ lên thực hiện ở cuối các buổi tập.
1.4.3.2. Sức bền bật
Sức bền bật là khả năng duy trì các hoạt động bật nhảy nhiều lần với sự
nỗ lực co cơ cao nhất. ví dụ: Bật nhảy đập bóng, chắn bóng và chuyền hai. Sự
nỗ lực cơ bắp ở mức độ tối đa trên lền mệt mỏi đòi hỏi cầu thủ bóng chuyền
phải có phẩm chất ý trí cao và được rèn luyện thường xuyên trong điều kiện
tập luyện và thi đấu căng thẳng. Người ta có thể sử dụng các bài tập với trọng
lượng phụ nhỏ để tập bật nhảy như: Bao cát, bao trì, tạ gánh 25 - 30 kg để
phát triển sức bền bật. Thời gian cho mỗi lần tập từ 1 - 3 phút, tùy thuộc vào
bài tập. cường độ tối đa liên tục không có nghỉ giữa các lần bật nhảy (khi chân
chạm đất là bật ngay), lặp lại từ 5 - 8 lần, quãng nghỉ từ 1 - 4 phút.
Có thể sử dụng các bài tập mẫu sau:
- Bật nhảy ở hố cát liên tục từ 25 - 30 lần.
- Bật chắn liên tục có đeo bao trì hoặc cát từ 3 - 5 kg.
- Gánh tạ từ 20 - 25 kg.
- Bật nhảy liên tục ở tư thế ngồi xổm (góc độ gập gối không nhỏ hơn 90
0

)
- Nhảy đập liên tục, nhóm 2 - 3 người do giáo viên tung bóng.
1.4.3.3. Sức bền thi đấu
Sức bền thi đấu là khả năng duy trì tốc độ thi đấu với nhịp độ cao, đảm
bảo tính hiệu quả trong thực hiện các hoạt động kỹ - chiến thuật. Đây là một
tố chất tổng hợp, bao gồm tất cả các dạng sức bền và tố chất thể lực huyên
môn, khả năng phát triển cao của các chức năng, hệ thống cơ quan trong cơ
25

thể đảm bảo duy trì các hoạt động chuyên môn lâu dài. có thể sử dụng các biện
pháp thi đấu với sân nhỏ, ít người, như thi đấu 5 x 5; 4 x 4; 3 x 3, với điều kiện
tăng dần thời gian hoặc số hiệp thi đấu. Có thể xen kẽ các bài tập thi đấu với các
bài tập chuyên môn để phát triển sức bền bật trong điều kiện đã xuất hiện mệt
mỏi để giáo dục các phẩm chất tâm lý, ý chí cho các cầu thủ bóng chuyền.
Một số bài tập mẫu có thể áp dụng để phát triển sức bền thi đấu:
- Di động lăn ngã, sau đó thực hiện bật nhảy 5 - 10 lần.
- Bật nhảy nâng cao đùi có đeo trọng lượng phụ (Bao cát hoặc bao trì)
từ 10 - 15 lần.
- Di động đổi hướng kết hợp với lăn ngã theo tín hiệu của giáo viên
(như cá nhảy, lộn nghiêng qua vai). Không có nghỉ giữa các lần ngã. Sau 30
giây, lặp lại như cũ.
- Di động đập bóng, chắn bóng, khi rơi xuống ngã ngửa lộn qua vai, di
động cham tay vạch tấn công, sau đó lặp lại từ 5 - 10 lần.
- Trò chơi vận động chuyền bóng tấn công cầu môn. Mỗi hiệp từ 3 - 5
phút, lặp lại từ 3 - 4 lần, nghỉ giữa các hiệp từ 2 - 3 phút.
Các bài tập thực hiện với cường độ tối đa xen kẽ quãng nghỉ tích cực
bằng các hoạt động khác. Cần xen kẽ các bài tập thể lực với các hoạt động
chuyên môn giống như thi đấu với lượng vận động cao sẽ có tác dụng ổn định
khả năng sức bền thi đấu cho cầu thủ bóng chuyền.
1.4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức bền

Trong quá trình tập luyện TDTT, tất cả các tố chất thể lực đều được phát
triển. Sự hoàn thiện của tố chất vận động này bao giờ cũng kèm theo sự hoàn
thiện tố chất vận động khác. Trong đó các bài tập nhằm phát triển sức bền có tác
dụng rõ rệt nhất đối với các tố chất khác. Vì vậy, các bài tập phát triển sức bền
chung được coi là bài tập cơ sở để phát triển các tố chất khác và nâng cao khả
năng vận động chung. Tuy nhiên sự hoàn thiện của tố chất sức bền nói chung và
sức bền chuyên môn nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.

×