Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.48 KB, 82 trang )

Câu 13: Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Phân tích
tình hình đầu tư trong hệ thống DNNN.
Nhóm 11
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về đầu tư phát triển trong doanh
nghiệp
I.Đầu tư phát triển:
1.1. Các khái niệm cơ bản:
- Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào
đó nhằm thu về kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ
ra để đạt được các kết quả đó.
- Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chỉ dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài
sản vật chất (nhà xưởng thiết bị...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng...), gia
tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
- Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc
mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để được
hưởng lãi suất định trước.
- Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền mua hàng hóa và
bán ra với giá cao hơn để hưởng chênh lệch giá khi mua và khi bán.
1.2 .Phân loại đầu tư
-Theo nguồn vốn đầu tư
+ Đầu tư trong nước.
+ Đầu tư nước ngoài.
1
-Theo hình thức đầu tư.
+ Tự đầu tư.
+ Liên doanh
+ BOT, BT, BTO.
-Theo phương thức thực hiện.
+ Mua


+ Xây dựng
+ Thuê
-Theo luật đầu tư.
+ Đầu tư trong nước.
+ Đầu tư nước ngoài
+ FDI
-Theo thẩm quyền đầu tư.
+ Thủ tướng chính phủ (dự án quan trọng quốc gia)
+ Chủ tịch UBND tỉnh, tp trực thuộc trung ương, bộ trưởng, thủ trưởng
các cơ quan trực thuộc chính phủ.
+ Thủ trưởng các cấp được ủy quyền hoặc được phân cấp theo quy
định.
-Theo thời gian thực hiện & phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư
I.3. Mục đích của đầu tư phát triển:
- Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc
gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng
cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm
tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng
2
nguồn nhân lực...
I.4. Đặc điểm của đầu tư phát triển:
- Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển
thường rất lớn.
+ Quy mô vốn đầu tư lớn nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện
đầu tư. Vì thế đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây
dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ
tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm
trọng điểm,đánh giá kiểm tra năng lực thi công công trình,giám sát chặt chẽ
trong việc sử dụng vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,tiết kiệm được

vốn và thu hồi vốn.
+ Lao động cần sử dụng cho các dự án lớn đặc biệt đối với các dự án
trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo,quản lý, sử dụng và
đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu
cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời hạn chế đến mức thấp
nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí
lại lao động, giải quyết lao động dôi dư cùng các chế độ liên quan.
- Thời kì đầu tư kéo dài.
Thời kỳ đầu tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn
thành và dựa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian
đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê động suốt thời gian
thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ
đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trong hoàn thành dứt điểm từng hạng
mục công trình, quản lý cho chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình
trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dụng cơ bản,thực hiện tiết
kiệm,chống thất thoát lãng phí,sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn đầu tư.
- Thời kì vận hành kết quả đầu tư kéo dài.
Thời gian vận hành kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt
động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Trong suốt quá
trình vận hành , các thành quả đầu tư chịu tác động hai mặt, cả tích cực và
tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội... Để thích ứng
3
với đặc điểm này, công tác quản lý hoạt động đầu tư cần chú ý 1 số nội dung
sau:
+ Cần xâu dựng cư chế và phương pháp dự báo khoa học cả ở cấp vi
mô và vĩ mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự
khiến khả năng cung từng năm và toàn bộ vòng đời dự án.
+ Quản lý tốt quá trình vận hành,quy hoạch kế hoạch hợp lý, nhanh
chóng đưa các thành quả đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để
nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình.

+ Chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian đầu tư. Đầu tư trong năm
nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó
mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất riêng
của lĩnh vực đầu tư, ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư.
- Đại bộ phận các công trình đầu tư thường phát huy tác dụng ngay tại nơi nó
được tạo dựng nên do đó chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên,kinh tế, xã
hội tại vùng đó.
Không thể dễ dàng di chuyển các công trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi
khác, nên công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc
điểm này trong một số nội dung sau:
+ Trước tiên, cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng.
Đầu tư cái gì, công suất bao nhiêu là hợp lý... cần phải được nghiên cứu kỹ
lưỡng, dựa trên căn cứ khoa học.
+ Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý. Để làm được điều này cũng cần
phải dựa trên căn cứ khoa học, dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế,
chính trị, xã hội, môi trường, văn hóa... Cần xây dựng một bộ tiêu chí khác
nhau và nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổi và địa điểm đầu
tư cụ thể và hợp lý nhất, sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không
gian đầu tư cụ thể, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
- Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao.
Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành
các kết quả đầu tư cũng kéo dài... nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát
4
triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không
đạt yêu cầu... có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán
sản phẩm giảm, công suất sản suất không đạt công suất thiết kế... Vậy để quản
lý hoạt động đầu tư phát triển hiệu quả, cần phải thực hiện các biện pháp quản
lý rủi ro bao gồm:
+ Nhận diện rủi ro đầu tư. Có nhiều nguyên nhân rủi ro, do vậy xác

định đúng nguyên nhân rủi ro sẽ là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra giải
pháp phù hơp để khắc phục.
+ Đánh giá mức độ rủi ro. Rủi ro xảy ra có khi rất nghiêm trọng nhưng
có khi chưa đến mức gây nên những thiệt hại về kinh tế. Đánh giá đúng mức
độ rủi ro sẽ đưa ra biện pháp phòng và chống phù hợp.
+ Xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro. Mỗi loại rủi ro và
mức độ rủi ro nhiều hay ít sẽ có biện pháp phòng và chồng tưng ứng nhằm
hạn chế thấp nhất các thiệt hại có thể có do rủi ro này gây ra.
I.5. Vai trò của đầu tư phát triển
I.5.1. Trên góc độ vĩ mô:
- Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Trong ngắn hạn, đầu tư tác động đến tổng cầu khi tổng cung chưa kịp thay
đổi. Khi đầu tư tăng làm cho tổng cầu tăng kéo theo sản lượng cân bằng và giá cả
của các yếu tố đầu vào cũng tăng theo. Khi thành quả của đầu tư chưa phát huy tác
dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài
hạn tăng thêm, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm.
Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng lại kích thích
sản xuất hơn nữa, sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển
kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành
viên trong xã hội.
- Đầu tư tác động đến sự ổn định về kinh tế.
5
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng
cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư,
dù là tăng giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu
tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá
cả các hàng hóa có liên quan ( giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật
tư) tăng đến một mức nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Lạm phát làm cho
sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền

lương thực tế ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm
lại. Mặt khác khi tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản
xuất các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất
nghiệp, nâng cao đời sống người lao động giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác
động này tạo điều kiện phát triển nền kinh tế.
Khi tăng đầu tư cũng dẫn đến các tác động hai mặt nhưng theo chiều
hướng với các tác động trên đây. Vì vậy trong điều hành kinh tế vĩ mô nền
kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết các tác động hai mặt này
để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy được các
tác động tốt, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
- Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Về mặt lý thuyết, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng
trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận đầu tư và việc tích lũy
vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng trong việc gia tăng năng lực sản
xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Việc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ
góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình
quân mỗi lao động. Theo mô hình Harrod-Domar, mức tăng trưởng của nền
kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào mức tăng vốn đầu tư thuần.
Mức gia tăng sản lượng = mức đầu tư thuần/ICOR
Nếu ICOR không đổi mức tăng trưởng hoàn toàn phụ thuộc vào mức đầu tư.
Tại các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 – 7 do thừa vốn, thiếu lao
động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế lao động và sử dụng nhiều công
nghệ có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 – 3 do thiếu
6
vốn thừa lao động, sử dụng nhiều lao động để thay thế vốn, sử dụng công
nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo
trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm của
các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu
quả đầu tư trong các ngành, các vùnh lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu

quả của các chính sách kinh tế nói chung.
Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn
đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được tỷ lệ tăng thêm sản phẩm
quốc nội dự kiến. Tại nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một cái huých ban
đầu, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế ( các nước NICS, các nước Đông
Nam á )
- Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những
chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư.Nếu có chính sách đầu tư hợp lý sẽ tạo
đà cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.Tỷ trọng phân bổ cho các
ngành khác nhau sẽ mang lại những hiệu quả và các kết quả khác nhau. Kinh
nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng
trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9% – 10%) là tăng cường đầu tư tạo ra
sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành
nông- ngư nghiệp do có hạn chế về đất đai và khả năng sinh học , để đạt được
tốc độ tăng trưởng từ 5% – 6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư
quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được
tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế đất nước. Có thể thấy giữa
đầu tư và tăng trưởng kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối
7
quan hệ chặt chẽ.Đầu tư vốn nhằm mục đích mang lại hiệu quả kinh tế
cao,tăng trưởng nhanh trên toàn bộ nền kinh tế sẽ dẫn đến hình thành cơ cấu
đầu tư hợp lý.Ngược lại, tăng trưởng kinh tế cao kết hợp với chuyển dịch cơ
cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi dào,định hướng vào các ngành
hiệu quả hơn.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết các mất cân đối về phát
triển giữa các vùng và lãnh thổ, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi đói nghèo,
phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị...của
những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các vùng
khác cùng phát triển.

- Đầu tư tác động tới khoa học và công nghệ.
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và
phát triển khoa học công nghệ của một doanhh nghiệp và quốc gia.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta
hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của
Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Việt Nam là một
trong số 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này,
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó
khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển về công nghệ lâu
dài, nhanh chóng và vững chắc.
Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu và phát minh
ra cônh nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù tự nghiên cứu hay nhập
công nghệ từ nước ngoài cũng cần phải có tiền, cần có vốn đầu tư. Mọi
8
phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư đều là những
phương án không khả thi.
I.5.2. Trên góc độ vi mô:
Trên góc độ vi mô thì đầu tư là nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và
phát triển của các cơ sản xuất, cung ứng dịch vụ và của cải các đơn vị vô vị
lợi. Để tạo dựng cơ sở vật chất, các kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở,
đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ nào đều phải xây dưng nhà xửng, cấu
trúc hạ tầng, mua sắm, lắp dặt máy móc, thiết bị, tiến hành công tác xây dựng
cơ bản khác và thực hiện các chi phí gắn liền với các hoạt động trong một chu
kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Đây chính là biểu hiện cụ
thể của hoạt động đầu tư.
II. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp:
II.1. Tính tất yếu của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp:
II.1.1. Vĩ mô:

- Đầu tư, phát triển DN chính là để huy động mọi nguồn vốn, tạo thêm nhiều
việc làm, góp phần thực hiện chiến lược CNH-HĐH.
Nước ta là nước đang phát triển, chúng ta đang cần nhiều vốn để đầu tư,nhà
nước chỉ có khả năng dùng ngân sách để đầu tư vào cơ sở hạ tầng là
chính.Các ngành sản xuất cần được đầu tư từ các nguồn khác, phát triển DN
chính là cách huy động thêm các nguồn vốn đầu tư của nhân dân, để phát
triển kinh tế. Nước ta lại đang rất thừa lao động mà DN lại rất có ưu thế trong
việc tạo việc làm vì :vốn đầu tư cho mỗi chỗ làm thấp hơn, tạo ra việc làm
mới nhanh chóng hơn so với doanh nghiệp lớn,tổng vốn đầu tư không quá lớn
nên tính khả thi cao,có thể phát triển ở mọi nơi để thu hút lao động, yêu cầu
về tay nghề trình độ lao động không cao. Do đó, phát triển DN là rất thích
hợp với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay. Đầu tư phát triển DN chính là cách
để thực hiện CNH-HĐH nông thôn, chuyển dần lao động sản xuất nông
nghiệp sang các ngành công nghiệp có quy mô được phát triển ở vùng nông
thôn, chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp
có quy mô được phát triển ở vùng nông thôn tránh gây sứ ép về lao động ,
việc làm và các vấn đề xã hội do tình trạng di cư vào các thành phố và trung
9
tâm tạo nên.
- Đầu tư phát triển DN tạo ra sự năng động linh hoạt cho toàn bộ nền kinh
tế,trong việc thích nghi với những thay đổi của thị trường trong nước và quốc
tế.
Các DN có ưu thế là năng động, dễ thay đổi cơ cấu sản xuất , thích ứng nhanh
với tình hình, đó là những yếu tố rất quan trọng trong kinh tế thị trường để
đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Đầu
tư phát triển DN còn đẩy nhanh quá trình hoà nhập của nước ta với các nước
trong khu vực và trên thế giới
- Đầu tư phát triển DN nhằm đảm bảo cho sự cạnh tranh trong nền kinh tế.
Cạnh tranh là sức sống là động lực và là một đặc trưng cơ bản của kinh
tế thị trường so với cơ chế kế hoạch hoá tập trung.Để cạnh tranh thì trên thị

trường phải có nhiều chủ thể tham gia ,trong nền kinh tế thị trường tự do , các
doanh nghiệp, tập đoàn lớn luôn có xu hướng bành trướng, thôn tính các
doanh nghiệp nhỏ. Để tránh bị thôn tính trong điều kiện như vậy, các DN
cũng có xu thế liên kết lại để trở thành các doanh nghiệp lớn hơn nhằm cạnh
tranh trên thị trường. Kết quả là nền kinh tế chiếm đa số những chủ thể độc
quyền do đó hoạt động kém hiệu quả và người tiêu dùng bị thiệt hại. Phát
triển DN chính là để duy trì sự cạnh tranh cần thiết trong nền kinh tế thị
trường, tránh những méo mó do độc quyền gây ra, duy trì được tính năng
động và linh hoạt của các chủ thể trong một môi trường kinh doanh mà tính
năng động và linh hoạt có vai trò quyết định cho sự sống còn của một doanh
nghiệp.
II.1.2. Vi mô:
- Tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận:
Các DN luôn đặt mục tiêu lợi nhuận để xác định quy mô đầu tư của DN mình.
Không chỉ là mong muốn có lợi nhuận mà họ còn mong muốn tiền của họ
10
không ngừng tăng lên tức là quy mô lợi nhuận ngày càng được mở rộng.
Hoạt động đầu tư của mỗi DN chính là hoạt động nhằm thực hiện chiến lược
sản xuất kinh doanh luận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh
Doanh của DN đó với mục tiêu đạt được lợi nhuận mà DN đề ra. Khi lợi
nhuận càng cao thì lợi ích càng lớn và ngược lại.Doanh thu có lớn hay không
lại phụ thuộc vào quá trình đầu tư của DN. Nếu đầu tư mang lại hiệu quả cao
thì doanh thu sẽ nhiều .Như vậy đầu tư đã tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất,
tăng lợi nhuận.
- Tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của DN:
Ngày càng nhiều DN gia nhập vào thị trường, vì thế DN muốn tồn tại và đứng
vững càng cần phải đầu tư vào các lĩnh vực thế mạnh nhằm nâng cao sức
cạnh tranh.
- Đầu tư tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm :
Đời sống ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm chất lượng cao

càng tăng. Vì thế DN càng cần phải đổi mới mẫu mã và chất lượng sản phẩm
để cạnh tranh với các DN khác, nhất là khi hàng nhập ngoại đang tràn lan trên
thị trường.
- Đầu tư góp phần đổi mới công nghệ, trình độ khoa học kĩ thuật trong sản
xuất sản phẩm của DN:
Với trình độ khoa học phát triển như vũ bão hiện nay thì việc đầu tư vào công
nghệ là điều cần thiết để tránh rơi vào tình trạng lạc hậu, nâng cao chất lượng
sản phẩm. Đầu tư cho khoa học công nghệ, kĩ thuật cũng góp phần cho sự
phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đầu tư góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
DN đầu tư vào nhiều hoạt động nhằm tạo sự phát triển cũng không thể quên
đàu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Bởi máy móc không thể thay thế con
người. Con người là chủ đạo. Con người tạo máy móc, công nghệ. Đầu tư cho
nguồn nhân lực là một trong những điều kiện đầu tiên cho sự phát triển của
DN.
III. Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp:
III.1. Nguồn vốn đầu tư phát triển.
11
Vốn đầu tư là một nhân tố quan trọng trong hoạt động đầu tư. Đứng trên góc
độ vĩ mô, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn
nước ngoài.
III.1.1. Nguồn vồn đầu tư trong nước :
Được hình thành từ nguồn tích lũy nội bộ của nền kinh tế. Nguồn vốn trong
nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn khu vực tư nhân.
a) Nguồn vốn nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn
vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh
nghiệp nhà nước. Đây là nguồn vốn chiếm tỉ trọng lớn và có nghĩa quan trọng
cho hoạt động đầu tư phát triển của Việt Nam trong thời gian qua.
- Nguồn vốn ngân sách nhà nước : đây là nguồn đầu tư chủ yếu, quyết định sự
phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội . Là nền tảng xây

dựng CNH-HĐH đất nước. Nhà nước của bất kì quốc gia nào cũng quan tâm
đến hoạt động đầu tư này. Đặc biệt là các nước đang phát triển như nước ta là
yếu tố vật chất có ý nghĩa quyết định để thực hiện tốt nhất các chủ trương
chính sách phát triển KTXH của đất nước . Ở Việt Nam, đây là điều kiện vật
chất để ổn định và củng cố chế độ chính trị , nâng cao chất lượng hiệu quả
quản lí nhà nước cũng như không ngừng cải thiện đời sống nhân dân.
Vốn ngân sách đầu tư hiện nay được chia làm 2 loại:
- Vốn ngân sách trung ương dùng để đầu tư xây dựng các dự án ( trồng rừng
đầu nguồn , rừng phòng hộ , các công trình chủ yếu của nền kinh tế…)
- Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các địa phương đầu tư vào những vấn đề
quan trọng của địa phương.
Trong những năm gần đây, quy mô vốn đầu tư nhà nước không ngừng gia
tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau.
Tuy nhiên nguồn vốn này có một số hạn chế như hiệu quả sử dụng thấp tỷ lệ
thất thoát cao, vốn dầu tư thường dàn trải , không trọng tâm trọng điểm, hệ
thống các cơ quan quản lí ngân sách chồng chéo , chức năng không rõ giữa
quản lí nhà nước và quản lí kinh doanh. Do vậy chúng ta cần có một số giải
pháp như làm thế nào để tăng trưởng nền kinh tế và liên tục, tận thu chống
12
thất thu thuế, phân bố NS cho chi đầu tư và chi thường xuyên cho hợp lí.
-Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển:
Tín dụng đầu tư là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước là người đi vay
để đảm bảo các khoản chi của ngân sách đồng thời nhà nước cũng là người
cho vay để đảm bảo các chức năng nhiệm vụ quản lí nhà nước. Nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm
đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị
sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu
tư là người vay vốn phải tính kĩ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển
từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các

dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Trên thực tế, giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của
nhà nước mới chiếm 5,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001-
2005 đã chiếm 14% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong những năm tiếp theo,
tín dụng đầu tư của nhà nước sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và
phương thức tài trợ nhưng tỉ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kể.
-Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: nguồn vốn này chủ yếu
bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà
nước. Theo bộ Kế hoạch và Đầu tư, thông thường nguồn vốn của doanh
nghiệp nhà nước đầu tư chiếm 14-15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội , chủ yếu
đầu tư chiều sâu , mở rộng sản xuất , đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền
sản xuất công nghệ của doanh nghiệp.
b) Nguồn vốn của dân cư và tư nhân:
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư , phần tích
luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh
chiếm bình quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham
gia đầu tư trực tiếp vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm
của dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5%
GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Trong giai đoạn 2001-2005 , vốn đầu tư
của dân cư và tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư xã hội . Trong giai
13
đoạn tiếp theo nguồn vốn này sẽ tiếp tục gia tăng về quy mô và tỷ trọng.
Trải qua 20 năm thực hiện đổi mới , nhà nước liên tục hoàn thiện các chính
sách nhằm tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế hộ gia
đình mạnh dạn bỏ vốn đầu tư và thúc đẩy sự đan xen , hỗn hợp các hình thức
sở hữu trong nền kinh tế . Với khoảng vài trăm ngàn doanh nghiệp dân doanh
( doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty cổ phần, hợp
tác xã) đã, đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích lũy của các doanh nghiệp
này cũng sẽ dóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội . Bên

cạnh đó, nhiều hộ gia đình cũng đã trở thành các đơn vị kinh tế năng động
trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp. Ở mức độ nhất định , các hộ gia đình cũng sẽ là một
trong số những nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh
tế.
Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ
gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào : trình độ phát triển
của đất nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và
tỷ lệ tiết kiệm thấp ) ; tập quán tiêu dùng của dân cư, chính sách động viên
của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp của
xã hội.
III.1.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài :
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân, các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động
vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là
dòng lưu chuyển vốn quốc tế . Dòng vốn này diến ra dưới nhiều hình thức.
Mỗi hình thức có đặc điểm , mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng , không
hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất luân chuyển vốn, có thể phân loại các
nguồn vốn nước ngoài chính như sau:
- Tài trợ phát triển chính thức ( ODF) : Nguồn này bao gồm Viện trợ Phát triển
chính thức và các hình thức tài trợ khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ
yếu trong nguồn ODF .
14
- Nguồn tín dụng từ các ngân hang thương mại quốc tế
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
a) Nguồn vốn ODA: là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính
phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So
với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi về lãi suất thời hạn cho

vay dài, khối lượng vốn cho vay lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố
không hoàn lại đạt ít nhất 25%.
Trong thời gian qua , việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc
tế đang có rất nhiều thuận lợi. Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay, Việt
Nam đã có trên 45 đối tác hợp tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức
quốc tế phi chính phủ đang hoạt động.
Trong số vốn ODA cam kết nói trên bao gồm cả viện trợ không hoàn lại
chiếm khoảng 15-20% và phần chủ yếu còn lại là vay ưu đãi. Số vốn ODA
cam kết này được sử dụng trong nhiều năm, tùy thuộc vào thời hạn của các
chương trình và dự án cụ thể. Căn cứ vào chính sách ưu tiên sử dụng ODA ,
chính phủ Việt Nam đã định hướng nguồn vốn ODA ưu tiên cho các lĩnh vực
giao thông vận tải , phát triển hệ thống nguồn điện, phát triển nông nghiệp và
nông thôn bao gồm cả thủy lợi, thủy sản, lâm nghiệp kết hợp xóa đói giảm
nghèo, cấp thoát nước va bảo vệ môi trường, y tê, giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ , tăng cường năng lực và thể chế.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong thời kì 2006-2010,
Chính phủ Việt Nam tiếp tục chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong đó
nguồn vốn ODA vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng. Tổng nguồn vốn ODA
thực hiện dự kiến khoảng 11-12 tỷ USD trong 5 năm 2006-2010 chiếm
khoảng 80% tổng ODA cam kết.
Khi xem xét vốn trên góc độ nguồn vốn đầu tư , ODA là một trong những
nguồn vốn nước ngoài. Tuy nhiên, trong quản lí và sử dụng nguồn vốn này ,
một phần vốn ODA có thể đưa vào ngân sách đáp ứng mục tiêu chi đầu tư
phát triển của nhà nước , một phần có thể đưa vào các chương trình tín dụng
15
ưu đãi của nhà nước và một phàn có thể đưa vào các chương trình tín dụng ưu
đãi đầu tư của nhà nước và một phần có thể vận hành theo các dự án độc lập.
Theo ước tính phần chuyển vào ngân sách nhà nước chiếm khoảng 15% tổng
vốn đầu tư của ngân sách nhà nước.

b) Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI :
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các
nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư
nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là
việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận vốn.
Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận
thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có
thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới , đặc biệt là những ngành đòi hỏi kĩ
thuật cao, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng
cực kì to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa , chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước tiếp nhận đầu tư.
Đối với Việt Nam , sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa,
nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã từng bước góp phần bổ sung vốn quan trọng
cho đầu tư phát triển , tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả
sử dụng nguồn lực trong nước như dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông…
Tính từ năm 1988 đến giữa năm 2007 , trên phạm vi cả nước đã có hang
nghìn dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng kí là hơn 75 tỷ triệu USD .
Trong giai đoạn 2001-2006 , vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm trung bình
khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút
khoảng 70 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới vào đầu tư dưới các hình thức
khác nhau.
Ngoài ra, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt
tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Hằng năm, khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài đạt doanh thu khoảng hàng chục tỷ USD ( chưa kể
dầu thô) , trong đó , giá trị xuất khẩu chiếm khoảng 35% kim ngạch xuất khẩu
cả nước. Đóng góp cho ngân sách nhà nước của khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài cũng rất đáng kể. Đặc biệt, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã góp
phần hoàn thiện ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao
16

thông vận tải và bưu chính viễn thông… Bước đàu hình thành các khu CN,
khu chế xuất, khu công nghệ cao, góp phần thực hiện CNH-HĐH các khu vực
phát triển, hình thành các khu dân cư mới, tạo việc làm cho hàng vạn lao động
tại các địa phương. Cho đến nay, khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài cũng đã
thu hút khoảng 87 vạn lao động góp phần đáng kể cho việc tạo công ăn việc
làm cho nền kinh tế. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO , chắc chắn môi trường
đầu tư được cải thiện theo thông lệ quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ là
một nguồn vốn quan trọng và có tỉ trọng đáng kể trong tổng các nguồn vốn
đầu tư của Việt Nam.
c) Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hang thương mại quốc tế :
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn
vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các
ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này
thường là tương đối khắt khe , thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao
là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong
kinh doanh ngân hang ( tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu
hướng lãi suất quốc tế ), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại
thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường
là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư để
phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền
kinh tế là lâu dài , đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng
sủa. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận đối với nguồn vốn này vẫn còn khá hạn
chế.
d) Thị trường vốn quốc tế:
Với xu hướng toàn cầu hóa, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường
vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các
nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên
phạm vi toàn cầu. Tính từ đầu những năm 1970 đến cuối những năm 1990 của
thế kỉ XX , vốn đầu tư trực tiếp của các nước nhóm G7 chỉ tăng 30 lần , trong

khi đầu tư chứng khoán tăng khoảng 200 lần. Riêng trong thập kỉ 1990, giá trị
cổ phiếu mà các nước công nghiệp phát triển đã phát hành trên thị trường vốn
17
quốc tế đã tăng 6 lần đạt khoảng 4 ngàn tỷ USD. Trong những năm gần đây
dòng vốn này đã và đang có xu hướng tiếp tục gia tăng. Ngay tại các nước
đang phát triển , dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng
mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những năm 1990 , có sự xuất hiện của một
cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến năm 1999, khối lượng giao dịch tại
các thị trường mới nổi vẫn rất đáng kể.
Đối với Việt Nam, để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhằm
mục tiêu CNH-HĐH , nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn
trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sẩn xuất, tạo công ăn việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn huy động qua thị trường vốn cũng
được chính phủ quan tâm. Các đề án về phát hành trái phiếu chính phủ và trái
phiếu doanh nghiệp ra nước ngoài cũng đã và đang được triển khai. Năm
2005, chính phủ Việt Nam đã phát hành đợt trái phiếu đầu tiên trên thị trường
trái phiếu Hoa Kì với kết quả đánh giá khá thành công. Tuy nhiên đây là một
hình thức huy động vốn rất mới mẻ đối với Việt Nam. Việc phát hành trái
phiếu ra thị trường quốc tế vừa có thuận lợi nhưng cũng có những hạn chế
nhất định .
Bởi vậy, để phát hành ra thị trường vốn quốc tế Việt Nam phải nghiên cứu ,
xem xét kỹ lưỡng. Lựa chọn cẩn thận loại hình trái phiếu phát hành , thời gian
đáo hạn , thị trường phát hành và nhà bao tiêu phù hợp với điều kiện của Việt
Nam. Hơn nữa, cũng cần cân nhắc thận trọng giữa việc huy động vốn qua
phát hành trái phiếu với các hình thức huy động vốn khác như đầu tư trực tiếp
và vay nợ qua hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, bên cạnh việc xây dựng đề án
cho việc phát hành trái phiếu, Việt Nam cũng cần phải xây dựng một kế hoạch
chi tiết việc sử dụng vốn huy động có hiệu quả.
III.2. Đầu tư xây dựng cơ bản ( đầu tư vào tài sản cố định):
Tài sản của công ty bao gồm: tài sản cố định (tài sản cố định hữu hình, tài

sản cố định vô hình, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, chi phí xây dựng cơ
bản dở dang và các khoản ký cược, ký quỹ dài hạn); tài sản lưu động (tiền,
các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho, tài sản
lưu động khác và chi sự nghiệp) mà công ty có quyền chiếm hữu sử dụng và
định đoạt theo quy định của pháp luật.
18
Hoạt động đầu tư vào tài sản cố định bao gồm: xây lắp và mua sắm máy móc
thiết bị. trong doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, để
các hoạt động diễn ra bình thường đều cần xây dựng nhà xưởng, kho tàng, các
công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc thiết bị... Hoạt
động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiểm tỉ trọng cao trong tổng vốn đầu tư
phát triển của đơn vị.
III.2.1. Đầu tư vào tài sản cố định vô hình :
- Bằng phát minh sáng chế;
- Bản quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích;
- Phần mềm máy vi tính;
Đầu tư vào tài sản vô hình là hành động bỏ vốn để nâng cao năng lực, giá trị
vai trò của tài sản vô hình đối với công ty như thương hiệu, các mối quan hệ,
những công nghệ, bí quyết mới bằng cách quảng cáo, mở rộng phạm vi ảnh
hưởng, mua lại bản quyền hay tự nghiên cứu, sáng chế
Đầu tư vào phần mềm,bí quyết, công nghệ, bản quyền để trực tiếp làm tăng
năng suất lao động của công nhân, hiệu suất của máy móc. Khi đầu tư theo
hướng phát triển các yếu tố như phần mềm, bí quyết, công nghệ...công ty đã
chủ động làm tăng năng suất cũng như hiệu suất của công ty. Và lợi ích thu
được từ việc đầu tư theo hướng nâng cao nội lực này không chỉ dừng lại ở
các việc trực tiếp đẩy mạnh quá trình sản xuất tài sản hữu hình mà còn gián
tiếp tăng lên về mặt tài sản vô hình.
III.2.2. Đầu tư vào tài sản cố định hữu hình:
a) Nhà cửa, vật kiến trúc:
Nhà: Nhà làm việc, nhà kho, nhà hội trường, nhà câu lạc bộ nhà văn hoá, nhà

tập và thi đấu thể thao, nhà bảo tồn bảo tàng, nhà trẻ nhà mẫu giáo, nhà
xưởng, trường học, giảng đường, ký túc xá, bệnh viện, trạm xá, nhà an dưỡng,
nhà khách, nhà ở, nhà công vụ, nhà công thự, nhà khác, .....
Vật kiến trúc: Giếng khoan, giếng đào, sân chơi, sân phơi, cầu cống, hệ thống
cấp thoát nước, đê, đập,đường sá (do đơn vị đầu tư xây dựng), sân vận động,
bể bơi, trường bắn, các lăng tẩm, tượng đài, tường rào bao quanh,...
19
Mục đích đầu tư: tạo ra không gian sản xuất, vận hành quản lý và lưu trữ
hàng hoá hoặc nguyên vật liệu. Là tài sản cố định có thời gian khấu hao khá
dài, có thể lên đến 30, 50 năm
Do đặc điểm được sử dụng trong một thời gian dài nên tầm quan trọng của hệ
thống nhà xưởng lại càng lớn, cần phải tính toán một cách kỹ lưỡng để tránh
gây ra những hậu quả lâu dài.Một khi hệ thống nhà xưởng, văn phòng và vật
kiến trúc không đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động
quản lý, sẽ gây ra một sự cản trở rất lớn tới sự thành công của doanh nghiệp
b) Máy móc, thiết bị:
Máy móc, thiết bị văn phòng: Máy vi tính, máy in, máy photocopy, máy
chiếu, máy huỷ tài liệu, máy đun nước, thiết bị lọc nước, máy hút ẩm, máy hút
bụi, máy điều hoà không khí, tủ lạnh, tủ đá, máy giặt, thiết bị nghe nhìn, thiết
bị lưu trữ thông tin dữ liệu, thiết bị phòng cháy chữa cháy, bộ bàn ghế, tủ, két
sắt,...
Máy móc thiết bị dùng cho công tác chuyên môn: Máy công cụ, máy móc
thiết bị đo lường phân tích, máy móc thiết bị thí nghiệm,...
Đầu tư vào máy móc thiết bị công nghệ có hàm lượng khoa học công nghệ
cao và có sự đổi mới nhanh chóng. Hiện nay những dây chuyền hiện đại được
khấu hao chỉ trong vòng từ 2 đến 4 năm. Hoạt động này cần chú ý hàng đầu.
Nhất là trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và thay đổi
nhanh chóng như hiện nay. Một dây chuyền công nghệ sản xuất thích hợp với
các công nghệ mới đạt được các hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp đạt được sản
lượng lớn với giá thành thấp và chiếm lĩnh được thị trường.

c) Phương tiện vận tải, truyền dẫn:
Phương tiện vận tải đường bộ (xe ô tô, xe mô tô, xe gắn máy, phương tiện
vận tải đường bộ khác); phương tiện vận tải đường thuỷ (ca nô, xuồng máy
các loại; tàu thuỷ các loại; ghe thuyền các loại, phương tiện vận tải đường
thuỷ khác); Phương tiện vận tải đường không (máy bay các loại),...
Phương tiện truyền dẫn: Hệ thống dây điện thoại, tổng đài điện thoại, phương
tiện truyền dẫn điện,...
Ngoài chi phí ban đầu chi phí vận hành, chi phí nhiên liệu xăng dầu chiếm
một tỷ trọng đáng kể và cần được tính đến trong quá trình vận hành.
20
Hệ thống phương tiện vận tải đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong rất nhiều doanh nghiệp,
nó quyết định đến doanh số bán hàng, khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu
thị trường, đặc biệt với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Do đó các
doanh nghiệp không những cần thiết phải chú trọng hoạt động đầu tư cho hệ
thống phương tiện giao thông vận tải mà còn phải chú trọng vấn đề bảo hiểm
tài sản, đặc biệt đối với cả các loại hình phương tiện vận tải đường thuỷ như
tàu thuỷ xà lam cũng như đối với các phương tiện cơ giới đường bộ thường
xuyên phải đối mặt với các rủi ro khác.
d) Thiết bị, dụng cụ quản lý, thiết bị đo lường và kiểm định: Bàn,ghế, tủ, giá kệ
đựng tài liệu,...
Đây là các máy móc có giá trị không lớn nhưng được khấu hao trong thời
gian dài. Các máy móc văn phòng như máy vi tính, máy in... đã giúp làm tăng
năng xuất và hiệu quả quản lý. Đồng thời một hệ thống đo lường và kiểm
định hiện đại và chính xác sẽ giúp doanh nghiệp tạo nên những sản phẩm có
chất lượng và độ tin cậy cao.
e) Tài sản đặc biệt: Hiện vật bảo tàng, cổ vật, tác phẩm nghệ thuật, sách, lăng
tẩm, di tích lịch sử,...
III.2.3. Tài sản cố định khác:
Ngoài ra TSCĐ trong doanh nghiệp còn tồn tại ở một trong những dạng sau :

- Tài sản cố định thuê tài chính: là những tài sản mà DN thuê của Cty cho thuê
tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển lựa chọn mua lại
tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp
đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng
thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm
ký hợp đồng. Mọi hợp đồng thuê tài sản cố định nếu không thoả mãn các quy
định về thuê tài chính đều là tài sản cố định thuê hoạt động.
Ngoài ra, những khoản ký quỹ, ký cược dài hạn mà doanh nghiệp thực hiện
cũng được xếp vào TSCĐ.
Như vậy có thể thấy tài sản cố định hữu hình là một trong những tài sản quan
trọng bậc nhất của doanh nghiệp. Là một trong những cơ sở đầu tiên được
hình thành trong quá trình từ thời điểm doanh nghiệp bắt đầu đi vào sản xuất
21
kinh doanh. Hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiểm tỉ trọng cao trong
tổng vốn đầu tư phát triển của đơn vị..
III.3. Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ:
Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm
và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp. tùy theo loại hình
doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ cũng khác nhau.
Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thể thiếu của doanh
nghiệp sản xuất .
Hàng tồn trữ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các tài sản lưu động của các
doanh nghiệp. Để quản lý tốt hàng tồn kho cần phải phân loại, sắp xếp hàng
tồn kho theo những nhóm và theo tiêu thức nhất định. Tiêu thức phân loại
thông dụng nhất là phân loại theo công dụng của hàng tồn kho.Trên thực tế
để nghiên cứu kĩ về vấn đề này cần phải tiếp cận nó ở những góc độ khác
nhau và đặt trong những mối quan hệ cụ thể.
Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp: là toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm
và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp.
Tùy theo loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ

khác nhau là khác nhau. Hàng tồn trữ mang đậm tính chất ngành nghề .Tỷ
trọng đầu tư vào hàng tồn trữ trong tổng vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp thương mại thường cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác.
Đầu tư bổ sung nguyên vật liệu tồn trữ trong doanh nghiệp.
Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thể thiếu của doanh
nghiệp sản xuất nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại dịch vụ .
Đầu tư bổ sung nguyên vật liệu đem tồn trữ là cần thiết khi mà nguyên vật
liệu đầu vào có tính chất không ổn định về số lượng hay chất lượng ở mỗi
thời kỳ hoặc mùa vụ. Doanh nghiệp dự trữ các nguyên vật liệu cần thiết để
duy trì hoạt động sản xuất. Đối với những doanh nghiệp dựa vào mùa vụ, cần
đầu vào ổn định, muốn tranh thủ cơ hội từ khan hiếm hàng hóa thì việc đầu
tư hàng tồn trữ tối ưu cho doanh nghiệp lại càng cần thiết .
Ta có thể dựa vào tính toán để xác định chi phí đầu tư vào dự trữ nguyên vật
liệu từ đó xác định quy mô đầu tư hợp lý nhất: Giá tồn kho nguyên vật liệu
(hàng phải mua) = giá mua trên hóa đơn + chi phí mua hàng (chi phí vận
chuyển, bảo quản, bốc dỡ, lưu kho, bảo hiểm, hao hụt, công tác phí, dịch vụ
22
phí...) + thuế - chiết khấu thương mại, giảm giá.
Mặt khác để khai thác tính kinh tế nhờ quy mô. Nếu không có hàng tồn kho,
doanh nghiệp sẽ cần tăng cường hoạt động nhận hay giao hàng. Điều này
khiến cho chi phí tăng lên. Vì thế, doanh nghiệp có thể muốn trữ hàng đợi đến
một lượng nhất định thì mới giao hàng nhằm giảm chi phí.
Để xác định giá trị hàng tồn kho, ngoài việc chỉ xác định giá vốn, giá thị
trường, giá trị thực tế của hàng tồn, doanh nghiệp phải tính cả chi phí tồn
kho để từ đó xác định được thực tế nên đầu tư bổ sung hàng tồn trữ như thế
nào là hợp lý.
Giá tồn kho thành phẩm (hàng sản xuất) = giá nguyên vật liệu + chi phí lao
động + chi phí sản xuất.
Chi phí tồn kho = chi phí tồn trữ (chi phí bảo quản, chi phí vốn, chi phí khấu
hao...) + chi phí đặt hàng.

Trong đó, chi phí tồn trữ = lượng dự trữ bình quân x chi phí dự trữ bình
quân; chi phí đặt hàng = số lần đặt hàng trong năm x chi phí mỗi lần đặt
hàng.
-Tuy nhiên lượng tồn kho nhiều quá thì doanh nghiệp sẽ tốn chi phí để lưu
hàng và chậm thu hồi vốn. Vì vậy phải quy định số lượng từng loại hàng dự
trữ ở những thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp,và
quá trình quản lý với từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh nên phải
đảm bảo quá trình quản lý chặt chẽ và có hiệu quả .
Vậy: Hàng dự trữ và khống chế hàng dự trữ trong việc quay vòng vốn, tiết
kiệm chi phí, ổn định sản xuất là đáp ứng nhu cầu luôn biến đổi của khách
hàng..
III.4. Đầu tư phát triển nhân lực :
Phát triển nguồn nhân lực (theo nghĩa rộng) là tổng thể các hoạt động học
tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để
nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một bộ phận của đầu tư phát triển, nó
là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm nâng
cao và khuyến khích đóng góp tốt hơn kiến thức, thể lực của người lao
động, để đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất.
23
Nguồn nhân lực có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo giành thắng lợi trong cạnh
tranh vì vậy đầu tư nâng cao chất lượng là rất cần thiết. Đầu tư phát triển
nguồn nhân lực bao gồm đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động, đầu
tư cho công tác chăm sóc sức khỏe, y tế, cải thiện môi trường, điều kiện làm
việc của người lao động... Và trả lương đúng và đủ cho người lao động cũng
được xem là hoạt động đầu tư phát triển.
Đầu tư đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy: Một chương trình đào
tạo giáo dục có hiệu quả, chất lượng tốt cần có sự phối hợp giữa người dạy và
người học, người dạy tốt sẽ có học trò giỏi. Các doanh nghiệp có thể tổ chức

các lớp huấn luyện ngắn ngày cho đội ngũ cán bộ dưới sự hướng dẫn trực tiếp
của nhân viên trong doanh nghiệp, nhằm có phương pháp truyền đạt gần gũi
nhất đối với người lao động. Bên cạnh đó có thể tổ chức các khóa học nâng
cao tay nghề cho người lao động với việc thuê các giảng viên hoặc người có
trình độ cao để tiếp thu các phương pháp mới.
III.4.1. Đầu tư y tế và chăm sóc sức khỏe :
Đầu tư cơ sở vật chất (bệnh viện): mỗi doanh nghiệp có thể đầu tư vào cơ sở
chăm sóc sức khoẻ riêng của mình, từ đó đảm bảo cho việc khám chữa bệnh
tại chỗ cho người lao động. Mặt khác giúp người lao động có thể an tâm hơn
trong quá trình làm việc.
Đầu tư trang thiết bị y tế, chăm sóc sức khỏe, cán bộ y tế có tay nghề: Trang
thiết bị y tế bao gồm các loại thiết bị, dụng cụ, vật tư, phương tiện vận
chuyển chuyên dụng phục vụ cho hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khỏe
CBCNV.
Đầu tư vào an sinh xã hội trong doanh nghiệp: cấp thẻ bảo hiểm khám chữa
bệnh cho các nhân viên, có chính sách phụ cấp rõ ràng. Đối với các đối tượng
thuộc dạng chính sách hoặc ưu đãi thì cần được hỗ trợ hoặc ưu tiên. Bồi
dưỡng thêm cho công nhân trong dịp lễ hoặc nghỉ tết giúp người công nhân
củng cố điều kiện sinh hoạt đồng thời nâng cao đời sống đảm bảo sức khoẻ,
để có thể đáp ứng các yêu cầu của công viêc.
III.4.2. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của người lao động
Đầu tư tăng cường điều kiện lao động: bên cạnh việc tổ chức xây dựng nhà
xưởng cần kết hợp đảm bảo an toàn cho người lao động, đầu tư mua sắm các
24
trang thiết bị bảo hộ, giúp người lao động yên tâm trong quá trình làm việc
Đầu tư tăng cường bảo hộ lao động: doanh nghiệp trích quỹ từ ngân sách
đầu tư vào chương trình bảo hộ lao động, tăng cường công tác giám sát lao
động, Nâng cao ý thức người lao động, giúp họ tự bảo vệ mình v à bảo vệ,
gìn giữ tài sản của công ty. Thường xuyên phát động tuần lễ an toàn lao
động, phòng chống cháy nổ để nâng cao ý thức người lao động.

Đầu tư giảm tai nạn lao động: cần tăng cường các biện pháp phòng ngừa, tập
trung khắc phục các nguy cơ gây tai nạn lao động, cháy nổ, bệnh nghề nghiệp,
giúp người lao động được làm việc trong điều kiện an toàn hơn, góp phần bảo
vệ tính mạng và sức khỏe của người lao động.
Đầu tư cho bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội: đ ầu tư cho bảo hiệm xã hội là
hết sức cần thiết, nó đem lại quyền lợi khám chữa bệnh cho người lao động.
Người lao động có thể yên tâm làm việc, phòng tránh rủi ro. Bảo hiểm xã hội
còn giúp người lao động khi họ nằm viện, khám chữa bệnh, nghỉ mất sức.
Doanh nghi ệp cần hoàn thành nghĩa vụ mua và cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ
và kịp thời cho người lao động.
III.4.3. Đầu tư cho tiền lương:
Để có được cơ chế trả lương xứng đáng cho người lao động cũng như phù
hợp với từng doanh nghiệp thì cần có nhiều sự điều chỉnh xuyên suốt từ các
cấp cao đến từng cấp ngành cơ sở, địa phương.
III.5. Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học, công nghệ :
Đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển KHKT là hình thức của ĐTPT nhằm
hiện đại hoá dây chuyền công nghệ và trang thiết bị cũng như trình độ nhân
lực, tăng năng lực sản xuất kinh doanh cũng như cải tiến đổi mới sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ, đây cũng là hoạt động đầu tư vào lĩnh vực phần mềm của
công nghệ như thông tin, thương hiệu và thể chế doanh nghiệp.
Phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần đầu tư cho
các hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ. Đầu tư nghiên cứu
hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao. Hiện nay khả năng đầu
tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ của doanh
nghiệp của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng với đà phát triển
của kinh tế đất nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động
đầu tư này ngày sẽ càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh
nghiệp.
25

×