Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên ở một số ô định vị nghiên cứu sinh thái tại vùng Tây Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.68 KB, 67 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của con người, nó không
những cung cấp lâm sản cho nền kinh tế quốc dân mà còn có tác dụng phòng
hộ, bảo vệ đất, điều hòa nguồn nước, duy trì cân bằng sinh thái, bảo vệ môi
trường sống. Song nó là một hệ sinh thái phức tạp và nhạy cảm, bao gồm nhiều
thành phần với các quy luật sắp xếp khác nhau theo không gian và thời gian.
Trong quản lý rừng, tác động lâm sinh là biện pháp kỹ thuật then chốt
để cải thiện chất lượng rừng, làm cho rừng có cấu trúc phù hợp với mục đích
quản lý và đáp ứng được các yêu cầu đặt ra cho từng loại hình kinh doanh
rừng. Thực tiễn đã cho thấy, các giải pháp phục hồi rừng, quản lý rừng bền
vững chỉ có thể giải quyết thỏa đáng khi có sự hiểu biết đầy đủ về bản chất,
quy luật sống của hệ sinh thái rừng. Nghiên cứu đặc điểm quy luật cấu trúc và
tái sinh rừng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các nhà lâm
nghiệp. Nắm được các đặc điểm về cấu trúc và tái sinh rừng, chúng ta có thể
xây dựng cấu trúc tối ưu, là cơ sở đề xuất các biện pháp lâm sinh hợp lý “dẫn
dắt rừng” theo ý muốn của con người nhằm: “tận dụng tối đa tiềm năng của
điều kiện lập địa, có sự kết hợp hài hòa giữa các nhân tố cấu trúc để tạo ra
một quần thể rừng có số lượng và chất lượng cao, bảo đảm chức năng phòng
hộ cao nhất, đáp ứng mục tiêu kinh doanh” góp phần quản lý kinh doanh rừng
bền vững.
Vùng sinh thái Tây nguyên gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk,
Đăk Nông và Lâm Đồng, có diện tích rừng là 2,848 triệu ha, đạt độ che phủ
toàn khu vực là 51,3%. Trong đó, rừmg có trữ lượng gồm cả rừng tự nhiên và
rừng trồng thì độ che phủ chỉ đạt 32,4%, là vùng có diện tích rừng với độ che
phủ lớn nhất trong cả nước. Diện tích rừng tự nhiên lớn nhất cả nước chiếm
khoảng 25,38% diện tích rừng toàn quốc (theo số liệu công bố hiện trạng rừng
2
toàn quốc năm 2011). Trong những năm gần đây, diện tích rừng Tây Nguyên
bị suy giảm nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng do nhiều nguyên nhân
khác nhau, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng về phát triển kinh tế, phòng hộ


môi trường khu vực này.
Hiện nay, những nghiên cứu về cấu trúc và tái sinh còn hạn chế và
mang tính chung chung nên không thể áp dụng vào thực tiễn sản xuất cho
từng địa phương cụ thể. Xuất phát từ thực tiễn trên, luận văn: “Nghiên cứu
đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên ở một số ô định vị nghiên cứu sinh thái tại
vùng Tây Nguyên” được thực hiện nhằm góp phần bổ sung các đặc điểm về
quy luật cấu trúc rừng tự nhiên vùng Tây Nguyên; làm cơ sở đề xuất các giải
pháp quản lý tài nguyên rừng bền vững trên địa bàn.
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Cấu trúc rừng tự nhiên đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước
nghiên cứu từ những năm đầu của thế kỷ XX.Các nhà nghiên cứu đều quan
tâm đến xây dựng một cấu trúc tối ưu, tận dụng triệt để không gian dinh
dưỡng tạo điều kiện cho cây rừng sinh trưởng và phát triển tốt nhất. Dưới đây,
xin trích dẫn một số công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên trong và
ngoài nước.
1.1. Trên thế giới
- Nghiên cứu phân loại trạng thái rừng:
Phân loại trạng thái rừng là công việc hết sức cần thiết trong kinh
doanh rừng tự nhiên. Tùy theo điều kiện lập, hiện trạng thảm thực vật mà các
nhà khoa học trên thế giới đã phân thành các loại trạng thái khác nhau.
Richard P.W (1952) đã nghiên cứu cấu trúc rừng mưa nhiệt đới về mặt
hình thái.Theo tác giả, đặc điểm nổi bật của rừng mưa nhiệt đới là tuyệt đại
bộ phận thực vật đều thuộc thân gỗ. Ông đã chia rừng mưa nhiệt đới ở Nigeria
thành 6 tầng dựa trên các dạng sống, tầng phiến, tầng thứ … , tuy nhiên đây
thực chất chỉ là các lớp chiều cao [34].
(1) Nghiên cứu cấu trúc tầng cây cao
- Cơ sở sinh thái học của cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là hình thức biểu hiện bên ngoài của những mối quan hệ
qua lại bên trong giữa thực vật rừng với nhau và giữa chúng với môi trường

sống; “là một khái niệm dùng để chỉ quy luật sắp xếp, tổ hợp các thành phần
cấu tạo nên quần xã thực vật theo không gian và thời gian” (Phùng Ngọc Lan,
1986) [29]. Trên quan điểm sinh thái, cấu trúc chính là hình thức bên ngoài
phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái rừng.
4
Đã có rất nhiều nhà khoa học lâm nghiệp nghiên cứu về vấn đề này,
tiêu biểu là Baur.G.N (1964) và O.dum EP (1971). Qua đó, đã làm sáng tỏ
khái niệm hệ sinh thái rừng, đây là cơ sở nghiên cứu các nhân tố cấu trúc
đứng trên quan điểm sinh học [1].
- Cấu trúc mật độ và tổ thành tầng cây cao
* Cấu trúc mật độ:
Mật độ là chỉ tiêu phản ánh mức độ che phủ của tán cây trên diện tích
rừng (Every, TE., 1975) hoặc chỉ tiêu biểu thị mức độ lợi dụng lập địa của các
cây trong lâm phần (Hussch, B., 1982).
* Cấu trúc tổ thành:
Tổ thành là một nhân tố quan trọng, biểu thị mức độ xuất hiện của các
lòai cây khác nhau. Richard.P.W (1925) đã nghiên cứu cấu trúc tổ thành loài
cây của rừng mưa. Tổ thành càng phong phú càng thấy rõ được mức độ phức
tạp của cấu trúc rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên. Nhiều phương thức lâm sinh
ra đời và được thử nghiệm ở nhiều nơi trên thế giới, như phương thức chặt tái
sinh (RIF, 1992) phương thức rừng đều tuổi ở Malysia (MUS, 1945) [9].
- Cấu trúc tầng thứ
Cấu trúc tầng thứ và độ tàn che được nhiều tác giả nghiêm cứu, từ đó
làm cơ sở điều chỉnh mật độ và tầng thứ nhằm tận dụng tối đa không gian
dinh dưỡng, sức sản xuất của lập địa. Có nhiều ý kiến khác nhau về cấu trúc
tầng thứ, hầu hết các tác giả cho rằng rừng lá rộng thường xanh thường có từ
3-5 tầng ; tuy nhiên cũng có một số tác giả cho rằng ở kiểu rừng này chỉ có
một tầng cây gỗ mà thôi.
Richards ( 1939) đã phân chia rừng ở Nigeria thành 6 tầng với các giới
hạn chiều cao là: 6-12m, 24-30m, 30-36m, 36-42m. Sau này Richard phân

rừng ở Sarawk thành 3 tầng cây gỗ với giới hạn chiều cao là 8m, 18m và 34m
và tầng cây bụi, có hay không có tầng cỏ dưới tán rừng. Walton, Myatt Smith
5
(1955) đã phân chia rừng ở Malaysia thành 5 tầng: tầng trội, tầng chính, tầng
dưới tán, tầng cây bụi và tầng cỏ quyết với giới hạn chỉ rõ [34]. Taylor
(1960), Gerad (1960), Myatt Smith (1963) cũng chia rừng ở Kinshara –
Conggo, ở Malaisia thành 3-5 tầng với các chiều cao giới hạn chưa rõ.
Oltaman (1972) chia rừng thành 3 tầng: tầng cây bụi, tầng cây gỗ và tầng cây
gỗ lớn. Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu tầng thứ đều nhắc đến sự phân tầng
trong lâm phần nhưng mới dừng lại ở mức độ định tính, việc phân chia các
tầng chiều cao mang tính chất cơ giới, chưa phản ánh được sự phân tầng phức
tạp của rừng mưa nhiệt đới.
- Nghiên cứu các qui luật phân bố và tương quan
* Nghiên cứu về phân bố số cây theo đường kính
Phân bố số cây theo cỡ kính là quy luật cấu trúc cơ bản nhất của lâm
phần. Vì vậy, khi nghiên cứu cấu trúc lâm phần người ta không thể không
nghiên cứu quy luật này.
Meyer (1943) đã mô tả phân bố N/D bằng phương trình toán học có
dạng đường cong giảm liên tục và được gọi là phương trình Meyer hay hàm
Meyer. Nasnubd (1936) đã dùng dùng phương pháp giải tích để xác lập phân
bố Charlier kiểu A đối với phân bố N/D của các lâm phân thuần loài đều tuổi
[15].
Balley (1973) định lượng phân bố số cây theo đường kính bằng hàm
Weibull .
Ngoài ra, nhiều tác giả khác như: Prodan.M, Patatscase, Loesch, JLF
Batista, … đã sử dụng các hàm Hyperbol, Poisson, Logrit chuẩn, họ đường
cong pearson, … để mô tả phân bố N/D.
* Nghiên cứu về phân bố số cây theo chiều cao
Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về cấu trúc lâm phần theo chiều
thẳng đứng đều dựa vào phân bố số cây theo chiều cao (N/H). Trong đó,

6
phương pháp kinh điển là vẽ các trắc đồ đứng. Các trắc đồ đứng cho chúng ta
cái nhìn trực quan và khái quát về cấu trúc tầng tán, phân bố số cây theo chiều
thẳng đứng. P.W.Richards và Rollet là 2 tác giả điển hình trong việc ứng
dụng phương pháp này.
* Nghiên cứu về tương quan giữa chiều cao vút ngọn và đường kính ngang
ngực
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà lâm nghiệp trên thế giới, trong lâm
phần giữa H và D luôn tồn tại mối tương quan nhất định, tùy vào từng lâm
phần mà mức độ chặt chẽ của các tương quan khác nhau. Các công trình
nghiên cứu của các tác giả đã cho thấy: đường cong biểu thị tương quan H/D
có thể thay đổi hình dạng và luôn dịch lên phía trên khi tuổi lâm phần tăng lên.
Orlov.M và Chaustov nghiên cứu tương quan giữa đường kính và chiều
cao của loài Thông theo cấp đất và cấp tuổi bằng phương pháp biểu đồ. Một
số tác giả khác như Assmam.E (1936), Meyer.H.A (1952), Nasslund.M
(1929), đã dùng phương pháp giải tích và đã đề xuất nhiều dạng phương trình
khác nhau để mô tả quan hệ H/D[15].
* Nghiên cứu về tương quan giữa đường kính tán với đường kính ngang ngực
Tán cây là căn cứ quan trọng để xác định không gian dinh dưỡng, xác
định mật độ tối ưu, qua đó xác định hệ số khép tán và thời điểm tỉa thưa. Các
tác giả: Feree, Zieger, Willingham, Heinsdisk, … đều khẳng định giữa đường
kính tán và đường kính ngang ngực có mối quan hệ mật thiết với nhau,
thường theo kiểu tuyến tính.
* Nghiên cứu về tái sinh rừng:
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng
được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây,cấu trúc tuổi,chất lượng cây con,
đặc điểm phân bố.Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây con và
tầng cây gỗ đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre-ad,1930;
7
Richards,1952; Baur G.N, 1964; Rollet, 1969).Do tính phức tạp về tổ thành

loài cây, trong đó chỉ có một số loài cây có giá trị nên trong thực tiễn người ta
chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Richards P.W (1952) [34] qua tổng kết nghiên cứu tái sinh trên các ô
dạng bản và phân bố tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới, đã kết luận cây tái
sinh có dạng phân bố cụm, một số có dạng phân bố Poisson.
Vansteens.J(1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến ở rừng
mưa nhiệt đới: Tái sinh phân tán liên tục của loài cây chịu bóng và tái sinh vệt
của loài cây ưa sáng[29].
Lamprecht.H (1969) căn cứ vào nhu cầu ánh sáng của các loài cây
trong suốt quá trình sống để phân chia cây rừng nhiệt đới thành các nhóm cây
ưa sáng, nhóm cây bán chịu bóng và nhóm cây chịu bóng.
Như vậy, trên thế giới có nhiều công trình và phương pháp nghiên
cứu tái sinh khác nhau, nhưng tất cả đều dựa trên cơ sở thu thập số liệu cây
tái sinh trên ô dạng bản để phân tích, đánh giá. Các tác giả đều cho rằng phải
dùng cả ba chỉ tiêu: mật độ, sức sống, khả năng sinh trưởng của cây con để
đánh giá.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu về phân loại trạng thái rừng
Dựa trên hệ thống phân loại của Loetschau, Viện Điều tra quy hoạch
rừng đã cải tiến cho phù hợp với đặc điểm rừng nước ta và hiện nay vẫn áp
dụng hệ thống phân loại này vào việc phân loại trạng thái rừng, phục vụ cho
công tác điều tra quy hoạch rừng, thiết kế kinh doanh rừng tự nhiên ở Việt
Nam – Qui phạm thiết kế, kinh doanh rừng (1984) trong văn bản tiêu chuẩn
kỹ thuật lâm sinh.
Thái Văn Trừng (1978) xây dựng hệ thống phân loại thảm thực vật
rừng trên quan điểm sinh thái. Ông đã chia rừng tự nhiên nước ta thành 14
8
kiểu thảm thực vật [43]. Vũ Đình Huề (1984) đã lấy kiểu rừng làm đơn vị
phân loại trên cơ sở 2 chỉ tiêu là trạng thái và loại hình xã hợp thực vật [12].
Vũ Đình Phương (1985-1988) dựa vào 5 nhóm nhân tố (nhóm nhân tố sinh

thái tự nhiên, các giai đoạn phát triển và suy thoái rừng, khả năng tái tạo của
rừng bằng con đường tái sinh tự nhiên, đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng) để
phân chia các lô khác nhau, phục vụ công tác điều chế rừng [31]. Các nghiên
cứu này rất quan trọng và có ý nghĩa nhất định trong phân chia trạng thái rừng
ở Việt Nam.
1.2.2. Nghiên cứu cấu trúc tầng cây cao
- Nghiên cứu cấu trúc tầng thứ
Thái Văn Trừng (1963, 1970, 1978) đã mô tả cấu trúc tầng thứ rừng kín
thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở Việt Nam với tầng vượt tán (A1), tầng ưu
thế sinh thái (A2), tầng dưới tán (A3), tầng cây bụi (B) và tầng cỏ quyết [43].
Nguyễn Văn Trương (1983) khi nghiên cứu cấu trúc rừng hỗn loài đã
xem xét định lượng, phân tầng theo cấp chiều cao một cách cơ giới. Còn theo
Vũ Đình Phương (1988) rừng lá rộng thường xanh ở miền Bắc nước ta ở giai
đoạn ổn định có 3 tầng [32].
- Nghiên cứu các qui luật phân bố và tương quan trong lâm phần
* Nghiên cứu về phân bố số cây theo đường kính
Thống kê các công trình nghiên cứu về rừng tự nhiên ở Việt Nam cho
thấy phân bố N/D của tầng cây cao có các dạng chính sau:
- Dạng phân bố giảm liên tục và có nhiều đỉnh răng cưa
- Dạng một đỉnh hình chữ J
Từ kết quả nghiên cứu rừng tự nhiên của Đồng Sỹ Hiền (1974) cho
thấy dạng tổng quát của phân bố N/D là phân bố giảm, nhưng do quá trình
khai thác chọn thô không theo quy tắc nên đường thực nghiệm có dạng hình
răng cưa và ông đã sử dụng hàm Meyer để mô phỏng quy luật cấu trúc đường
9
kính cây rừng. Nguyễn Hải Tuất (1986) sử dụng phân bố khoảng cách mô tả
phân bố thực nghiệm dạng một đỉnh ở ngay sát cỡ kính bắt đầu đo. Bảo huy
(1993) cho rằng phân bố khoảng cách thích hợp hơn các dang phân bố khác.
Trần Văn Con (1999), Trần Xuân Thiệp (1995), Lê Sáu (1996), Trần Cẩm Tú
(1999) thì lại cho rằng hàm Weibull thích hợp hơn cả. Đào Công Khanh

(1996) cho rằng dạng tần số tích lũy thích hợp vì biến động của đường thực
nghiệm này nhỏ hơn rất nhiều so với biến động số cây hay phần trăm số cây ở
các cỡ kính. Việc nghiên cứu phân bố N/D trong thời gian gần đây không chỉ
dừng lại ở mục đích phục vụ công tác điều tra, như xác định tổng tiết diện
ngang , trữ lượng mà còn xây dựng cơ sở khoa học cho các giải pháp kỹ thuật
lâm sinh trong nuôi dưỡng rừng, làm giàu rừng.
* Nghiên cứu về phân bố số cây theo chiều cao
Theo nghiên cứu của Đồng Sỹ Hiền (1974), phân bố số cây theo chiều
cao ở các lâm phần tự nhiên hay trong từng loài cây thường có nhiều đỉnh,
phản ánh kết cấu phức tạp của rừng chặt chọn [10]. Các tác giả: Bảo Huy
(1993), Đào Công Khanh (1996), Lê Sáu (1996), Trần Cẩm Tú (1999) đều có
nhận xét chung là phân bố N/H có dạng đường cong một đỉnh, nhiều đỉnh
răng cưa và mô tả thích hợp nhất bằng hàm Weibull [35].
* Nghiên cứu về tương quan giữa chiều cao vút ngọn với đường kính ngang
ngực
Giữa chiều cao và đường kính ngang ngực của các cây trong lâm phần
tồn tại mối liên hệ chặt chẽ. Mối liên hệ này không chỉ giới hạn trong một lâm
phần mà tồn tại ngẫu nhiên trong nhiều lâm phần, trong nhiều loài cây. Khi
nghiên cứu nó không cần xét đến điều kiện lập địa và tuổi. Nếu sắp xếp các
cây trong lâm phần vào đồng thời vào các cỡ kính và cỡ chiều cao chúng ta sẽ
thu được bảng tương quan H-D; khi biểu thị bảng tương quan này lên biểu đồ
10
sẽ được một đường zíc zắc. Đó là cơ sở để xác định đường cong chiều cao
lâm phần.
Đồng Sỹ Hiền (1974) đã thử nghiệm 5 phương trình:
(1) h = a + b.d + c.d
2
(2) h = a + b.d + cd
2
+ c.d

3
(3) h = a + b.d + c. logd
(4) h = a + b.logd
(5) logh = a+ b.logd
Vũ Nhâm (1988) và Ngọc Giao (1995) dùng phương trình logarit một
chiều xác lập tương quan H-D cho các lâm phần thông đuôi ngựa.
Bảo Huy (1993) khi nghiên cứu tương quan H/D của một số loài cây ưu
thế như bằng lăng, cẩm xe, Kháo, … ở rừng rụng lá và nửa rụng lá vùng tây
nguyên đã thử nghiệm 4 phương trình:
(1’) h = a + b.d
(2’) h = a + logd
(3’) logh = a + b.logd
(4’) logh = a + b.d
Trong đó, phương trình (2’) là phương trình thích hợp nhất. Như vậy,
việc nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên ở nước ta có những phát triển nhanh
chóng và có nhiều đóng góp nhằm nâng cao hiểu biết về rừng, nâng cao hiệu
quả trong nghiên cứu cũng như sản xuất kinh doanh, quản lý rừng.
* Nghiên cứu về tương quan giữa đường kính tán và đường kính ngang ngực
Đường kính tán là chỉ tiêu quan trọng trong việc xác định mật độ tối ưu
và các chỉ tiêu khác, nhưng đường kính tán là đại lượng khó đo đếm. Vì vậy,
đã có những công trình nghiên cứu trong nước về tương quan Dt với các đại
lượng khác. Vũ Đình Phương đã khẳng định mối quan hệ mật thiết của Dt và
D của cây rừng tồn tại ở dạng đường thẳng, tác giả đã thiết lập quan hệ này
11
cho một số loài cây lá rộng như: Ràng ràng, Vạng trứng, Lim xanh, Chò chỉ,
… trong lâm phần hỗn giao khác tuổi để phục vụ công tác điều chế rừng [31].
1.2.3. Nghiên cứu tái sinh rừng
Trần Ngũ Phương (1965) khi nghiên cứu rừng nhiệt đới ở Việt
Nam đã nhấn mạnh, rừng tự nhiên có nhiều tầng, khi một tầng nào đó của
rừng bắt đầu già cỗi thì nó đã chuẩn bị cho bản thân một lớp cây con tái

sinh để sau này sẽ thay thế khi nó bị tiêu vong [32].
Phùng Ngọc Lan (1964) đã nêu kết quả tra dặm hạt Lim xanh dưới
tán rừng ở lâm trường Hữu Lũng, Lạng Sơn. Ngay từ giai đoạn nảy mầm,
bọ xít là nhân tố gây ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ nảy mầm [29].
Thái Văn Trừng (1978) [43] khi nghiên cứu về “Thảm thực vật rừng
Việt Nam” đã kết luận: Ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và điều khiển
quá trình tái sinh tự nhiên trong rừng. Khi các điều kiện của môi trường như
đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng chưa thay đổi thì các loài cây tái sinh
không có những biến đổi lớn và cũng không diễn thế một cách tuần
hoàn trong không gian và theo thời gian mà diễn thế theo những phương
thức tái sinh có quy luật nhân quả giữa sinh vật và môi trường.
Vũ Tiến Hinh (1991) [17] khi nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên
tại Hữu Lũng (Lạng Sơn) và vùng Ba Chẽ (Quảng Ninh) đã nhận thấy rằng,
hệ số tổ thành tính theo % số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có liên
quan chặt chẽ với nhau. Các loài có hệ số tổ thành ở tầng cây cao càng lớn thì
hệ số tổ thành ở tầng tái sinh cũng vậy.
Ở nước ta, nhiều khu vực vẫn phải dựa vào tái sinh tự nhiên còn tái sinh
nhân tạo mới chỉ được triển khai trên quy mô hạn chế. Vì vậy, những nghiên
cứu đầy đủ về tái sinh tự nhiên cho từng đối tượng rừng cụ thể là hết sức cần
thiết để từ đó có thể đề xuất những biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp.
12
1.3. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý:
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía
đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tây giáp với
các tỉnh Attapeu (Lào) và Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia). Trong khi
Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk
Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm

Đồng không có đường biên giới quốc tế. Nếu xét diện tích Tây Nguyên bằng
tổng diện tích của 5 tỉnh ở đây, thì vùng Tây Nguyên rộng 54.641,0 km².
* Địa hình:
Vùng Tây Nguyên là một bình nguyên nằm trên cao nhưng nó không
phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các
cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên
Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800 m, cao nguyên M'Drăk cao khoảng 500
m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800–
1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao
khoảng 900–1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía
Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam).
* Khí hậu thủy văn:
Tây Nguyên có khí hậu cận xích đạo nóng ẩm quanh năm, khí hậu ở đây
được chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ
tháng 11 đến tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô
nhất. Do ảnh hưởng của độ cao nên trong khi ở các cao nguyên cao 400–500 m
khí hậu tương đối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m (như
Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm, đặc điểm của khí hậu núi cao.
13
Tây Nguyên là đầu nguồn của nhiều dòng sông dài, Sông ở Tây Nguyên
thường có lưu vực lớn và mạng lưới nhánh dày đặc, chảy qua những địa hình
phức tạp, tạo nên nhiều thác gềnh. Có 4 hệ thống sông chính: Thượng Xêxan,
Thượng Srêpok, Thượng sông Ba, sông Đồng Nai. Tổng lượng nước mặt hàng
năm trung bình 50 tỉ m
3
.
* Tài nguyên:
+ Tài nguyên đất:
Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600m so
với mặt biển (1,4 triệu ha, chiếm 2/3 diện tích đất đỏ của cả nước, có tầng phân

hóa sâu, tơi xốp, giàu chất dinh dưỡng). Phân bố tập trung thành những mặt
bằng rộng lớn thuận lợi cho việc thành lập các nông trường và vùng chuyên
canh có quy mô lớn.
+ Tài nguyên rừng:
Tây Nguyên có tổng diện tích tự nhiên là 5,46 triệu ha, trong đó có 1,99
triệu ha đất sản xuất nông nghiệp và 2,8 triệu ha đất lâm nghiệp (có 2,6 triệu ha
rừng tự nhiên). Năm 2011, theo thống kê diện tích rừng Tây Nguyên còn 2,81
triệu ha, độ che phủ 51,34%. Một phần không nhỏ trong số đó là rừng cây bụi
hỗn giao, rừng tre nứa nghèo kiệt, rừng tái sinh sau nương rẫy và rừng trồng
phân tán. Trữ lượng rừng chỉ còn khoảng 250 triệu m3 gỗ và 2,7 tỷ cây tre nứa.
+ Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản ở Tây Nguyên khá đa dạng. Một số loại đã được điều
tra có trữ lượng lớn như: than bùn, than nâu, sét cao lanh, puzơlan. Đặc biệt là
bô-xít có trữ lượng rất lớn (dự báo khoảng 4,5 tỷ tấn) chiếm 91% trữ lượng bô-
xít của cả nước, phân bố chủ yếu ở các tỉnh Đắk Nông, Lâm Đồng. Tây
Nguyên có khoảng 21 điểm có vàng (khoảng 8,82 tấn vàng gốc) phân bố ở tỉnh
Komtum, Gia Lai. …
1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
14
* Cơ sở hạ tầng:
+ Giao thông:
Hệ thống giao thông đã và đang hình thành rộng khắp, vừa liên kết 5 tỉnh trong
vùng, vừa nối Tây Nguyên với các vùng khác trên tuyến hành lang Đông-Tây.
Trong đó, có 10 tuyến quốc lộ với tổng chiều dài gần 2.000km, 59 tuyến tỉnh
lộ đã được nhựa hóa và cứng hóa. Toàn tuyến biên giới có năm cửa khẩu chính
đi sang hai nước Lào, Campuchia (Bờ Y, Lệ Thanh, Bu Prăng, Đăk Peur và
Đăk Ruê). Có 3 sân bay đang hoạt động (Buôn Ma Thuột, Gia Lai, Liên
Khương) được đầu tư, nâng cấp, có thể tiếp nhận máy bay tầm trung (Airbus
A320, A321) nối với các trung tâm kinh tế lớn của đất nước là Hà Nội, Đà
Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Năng lượng điện:
Tây Nguyên được coi là trung tâm thủy điện lớn nhất cả nước. Trên các hệ
thống sông chính của 5 tỉnh trong khu vực đã có 11 nhà máy thủy điện lớn
đang vận hành, điển hình như nhà máy thủy điện Đa Nhim (160.000 kW),
Đray H'inh (12.000 kW), Yaly (700.000 kW) đưa điện lên lưới từ năm 2000 và
đang có dự kiến xây dựng các công trình thủy điện khác như Đức Xuyên,
TuaSrah, Ku Ốp, ĐrâyHơLinh, Srêpok 3, Srêpok 4, … và hàng trăm nhà máy
thủy điện nhỏ khác.
+ Thủy lợi:
Tây Nguyên có các hồ thủy lợi lớn như: Hồ Ea Súp thượng (Đăk
Lăk), hồ Ayun Hạ (tỉnh Gia Lai) đã đưa vào sử dụng, đang xây dựng các hồ
Krông Buk Hạ, Krông Pách Thượng, Ia Mơ, Ia Thul, … Tổng lượng nước mặt
hàng năm trung bình 50 tỉ m
3
. Tuy nhiên chế độ dòng chảy của sông ngòi chịu
tác động của khí hậu và khó khăn lớn nhất của Tây Nguyên là thiếu nước vào
mùa khô.
* Dân số, văn hóa, y tế, giáo dục
15
+ Dân số: Hiện nay, dân số toàn vùng đã lên đến 5.107.437 người, đồng
bào Kinh chiếm 66,9%, đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ chỉ còn chiếm 25,5%
(chủ yếu là người Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Cơ-ho, Xơ-đăng, Mnông, …; các đồng
bào dân tộc thiểu số nơi khác đến chiếm 7,6% (gồm Tày, Nùng, Thái, Dao,
Mông ). Mật độ dân cư thưa thớt (9 người/km2, 2006).
+ Văn hóa: Không gian văn hóa của vùng là văn hóa cồng chiêng, với
nhà sàn, nhà rông, mang đậm nét văn hóa đặc trưng của văn hóa miền núi.
+ Y tế, giáo dục:
Đến nay, toàn tỉnh có 100% xã, phường, thị trấn đã chuẩn về phổ cập Tiểu học
và chống mù chữ. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng có nhiều tiến
bộ đáng kể. Đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao.

Nhận xét:
a. Thuận lợi
* Tự nhiên:
- Là vùng duy nhất không giáp biển, nằm sát Duyên hải NTB, lại giáp
Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia nên vùng có vị trí đặc biệt quan trọng về mặt
quốc phòng & xây dựng kinh tế.
- Là nơi có nhiều đất đỏ badan với tầng phong hoá sâu, giàu chất dinh
dưỡng, phân bố thành những mặt bằng rộng lớn thuận lợi cho việc hình thành
các vùng chuyên canh quy mô lớn.
- Khí hậu cận xích đạo, có mùa khô kéo dài thuận lợi phơi sấy, bảo quản
sản phẩm. Lên cao 400-500m khí hậu khô nóng, độ cao 1000m lại mát mẽ có
thể trồng các loại cây công nghiệp nhiệt đới & cận nhiệt.
- Thuỷ năng khá lớn trên sông Đồng Nai, Xê Xan, Xrêpôk…
- Vùng có nhiều đồng cỏ có thế chăn nuôi gia súc lớn.
- Diện tích rừng & trữ lượng gỗ đứng đầu cả nước, chiếm 36% diện tích
16
đất có rừng và 52% sản lượng gỗ có thế khai thác được trong cả nước. Rừng có
nhiều loại gỗ, chim, thú quý.
- Có nhiều tiềm năng về du lịch.
- Khoáng sản giàu bô xít, trữ lượng hàng tỷ tấn Được sự quan tâm của
các cấp chính quyền, thể hiện qua các chính sách và chương trình hỗ trợ sản
xuất nông lâm nghiệp,…
* Kinh tế - xã hội:
- Là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc, có truyền thống văn hóa, tập quán
sản xuất độc đáo.
- Được Đảng & Nhà nước quan tâm đầu tư phát triển…
- Cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu được đầu tư tạo điều kiện thu hút đầu
tư nước ngoài.
b. Hạn chế:
* Tự nhiên:

- Mùa khô mực nước ngầm hạ thấp nên việc làm thuỷ lợi vừa khó khăn
vừa tốn kém.
- Nghèo khoáng sản.
* Kinh tế - xã hội:
- Thiếu lao động lành nghề.
- Mức sống người dân thấp, giáo dục, y tế chậm phát triển.
- Cơ sở hạ tầng kém phát triển, đầu tư tốn kém nhất là giao thông vận tải,
các trung tâm công nghiệp quy mô nhỏ.
Việc khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhân lực sẵn có và
nâng cao hiệu quả kinh tế trên đơn vị đất canh tác là định hướng nghiên cứu cơ
bản trong lĩnh vực nông lâm nghiệp của vùng.
17
CHƯƠNG 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG,
PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài được thực hiện sẽ góp thêm sự hiểu biết về cấu trúc rừng tự
nhiên ở Việt Nam; làm cơ sở đề xuất các biện pháp kỹ thuật phục vụ cho nuôi
dưỡng và quản lý rừng bền vững tại khu vực nghiên cứu.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
Đối với mỗi trạng thái nghiên cứu:
+ Xác định được một số đặc điểm cấu trúc tầng cây cao;
+ Xác định được một số đặc điểm cấu trúc tái sinh rừng;
+ Đề xuất được một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh cho từng trạng thái.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Rừng tự nhiên, kín ẩm, hỗn loài, lá rộng thường xanh.
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở số liệu 5 ÔĐVNCST, chu kỳ điều tra IV
(2006-2010) do Phân viện Điều tra quy hoạch rừng Nam Trung Bộ và Tây

Nguyên cung cấp.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc tầng cây cao
2.3.1.1. Xác định công thức tổ thành
2.3.1.2. Nghiên cứu quy luật cấu trúc đường kính
- Phân bố số cây theo đường kính
- Phân bố số loài theo đường kính
2.3.1.3. Nghiên cứu quy luật tương quan chiều cao với đường kính
2.3.2. Nghiên cứu đặc điểm tái sinh rừng
18
2.3.2.1. Tổ thành cây tái sinh
2.3.2.2. Nguồn gốc, số lượng, chất lượng cây tái sinh
2.3.2.3. Phân bố cây tái sinh theo chiều cao
2.3.2.4. Xác định mật độ và phân bố cây tái sinh có triển vọng theo chiều cao
2.3.2.5. Phân bố hình thái cây tái sinh trên mặt đất
2.3.3. Đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh góp phần quản lý tài nguyên
rừng bền vững.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp luận tổng quát
Từ số liệu thu thập trên các ÔĐVNCST vùng Tây Nguyên, sử dụng các
phương pháp thống kê toán học để xử lý, phân tích, tổng hợp tài liệu và tính
toán đảm bảo độ chính xác cần thiết trong nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng
được mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu phục vụ đề tài được kế thừa từ nguồn số liệu điều tra trên các ô
định vị nghiên cứu sinh thái (ÔĐVNCST) ở vùng Tây Nguyên của Phân Viện
Điều traQuy hoạch rừng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Dưới đây xin trình
bày sơ lược biện pháp kỹ thuật điều tra trên ÔĐVNCST.
* Lập OĐVNCST và ô điều tra cơ bản (OĐTCB)
Lập ÔĐVNCST trên diện tích rừng thuộc phạm vi nghiên cứu. Diện

tích ÔĐVNCST là 100ha (1000x1000m). Lấy 1/4 diện tích ÔĐVNCST phía
Đông Bắc (diện tích 25ha) làm ÔĐTCB, ranh giới ô được đo đạc bằng địa bàn
3 chân (Hình 2.1). Trên ÔĐTCB tiến hành thiết lập mạng lưới ô vuông
(50x50m) để phân chia các ô trạng thái rừng (Hình 2.2).
* Chia lô trạng thái trong ÔĐTCB
Trong diện tích 25 ha của ÔĐTCB, tiến hành khoanh vẽ chính xác ranh
giới các lô trạng thái của cùng một kiểu rừng để xây dựng bản đồ lô trạng thái
19
rừng tỷ lệ 1:1.000, nhằm phục vụ cho việc theo dõi đánh giá diễn biến của
rừng và đất đai cũng như các nội dung nghiên cứu khảo nghiệm liên quan
khác. Việc chia lô và xây dựng bản đồ lô tiến hành theo các quy định sau:
Trong ÔĐTCB, thiết lập một hệ thống mạng lưới ô vuông 50m x 50m,
tại các điểm giao nhau của lưới (đỉnh các ô vuông) đóng các mốc tròn bằng
gỗ tốt, có ký hiệu Mô, có đường kính 5cm, cao từ 40 ÷ 50cm, chôn sâu 30 cm.
Xác định vị trí mốc tương ứng lên bản đồ của ÔĐT.
Trên cơ sở xác định thống nhất các chỉ tiêu định tính và định lượng phù
hợp của các trạng thái rừng, điều tra viên sẽ đi trên lưới ô vuông và dựa vào hệ
thống cọc mốc trên thực địa và tìm mốc tương ứng trên bản đồ để khoanh vẽ
các trạng thái rừng và cácloại đất đai lên bản đồ tỷ lệ 1:1.000. Diện tích tối
thiểu trên thực địa được khoanh vẽ lên bản đồ: đối với các trạng thái rừng là
0,25 ha, đối với đất không có rừng là 0,05 ha.
Đóng mốc tại các điểm chuyển hướng của ranh giới lô, mốc có ký hiệu
M
TT
(trong đó chữ TT sẽ được thay bằng ký hiệu cụ thể của trạng thái rừng),
mặt ghi ký hiệu của mốc phải hướng về phía trạng thái rừng tương ứng. Mốc
lô trạng thái bằng gỗ tròn, đường kính 5cm, cao 60cm, chôn sâu 20÷30cm.
500 m
5
0

0

m
50 m
5
0

m
Hình 2.2.Sơ đồ lập ÔĐTCB
1000 m
1
0
0
0

m
25 ha
Hình 2.1.Sơ đồ lập ÔĐVNCST
(2)
(4) (3)
1 – IIIA
10.5
2 – IIIB
8.01
3 – IVA
6.4
20
Ở Hình 2.2, ÔĐTCB được phân chia thành 4 trạng thái rừng (IIIA2,
IIIA3, IIIB ), ranh giới giữa các trạng thái là các đường nét đứt. Ở sơ đồ
này, sự phân chia trạng thái rừng chỉ mang tính chất minh họa.Trong thực tế,

trên 1 ÔĐTCB có thể thuộc cùng một trạng thái.
* Thiết lập ô đo đếm (ÔĐĐ)
Ranh giới ÔĐĐ phải được đo đạc bằng địa bàn ba chân và xác định rõ
ràng trên thực địa để phân biệt cây trong và ngoài ô, sai số khép kín cho phép
< 1/200.
Trên thực địa bốn góc ÔĐĐ mỗi ô được đóng các mốc kiên cố bằng bê
tông có lõi sắt, kích thước mốc 80 cm x 8 cm x 8cm, chôn sâu 40 cm, mặt
mốc hướng về ô, ghi các thông tin: ký hiệu mốc, ký hiệu trạng thái rừng, ô đo
đếm số, số thứ tự mốc từ 1 đến 4 cho mỗi ô đo đếm.
Trong mỗi ÔĐĐ sẽ phân thành 25 phân lô liên tục nhau với số hiệu từ 1
đến 25 (được đánh số theo nguyên tắc từ trái sang phải, từ trên xuống dưới),
mỗi phân ÔĐĐ có diện tích 400m
2
(kích thước 20mx20m), (Hình 2.3).
20m
20m
Hình 2.3.Sơ đồ Phân ô trên ÔĐĐ
Các điểm giao nhau của ranh giới các phân ô đo đếm sẽ cắm các cọc
tiêu để có thể nhận biết được ranh giới phân ô trong quá trình điều tra thu thập
số liệu, ranh giới các phân ô được phát hoặc dùng dây ly lông để xác định.
1 2 3 4 5
6 7 8 9 10
11 12 13 14 15
16 17 18 19 20
21 22 23 24 25
21
* Thu thập số liệu trên hệ thống ÔĐVNCST
Việc thu thập số liệu trong OĐVNCST được tiến hành trên các OĐĐ (3
ô); đo đường kính D
1,3

của tất cả các cây gỗ có D
1,3
từ 6 cm trở lên trong toàn
bộ ÔĐĐ, ghi phân biệt theo số hiệu cây (số hiệu cây trong ô được đánh theo
trình tự từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, như Hình 2.3), theo mẫu biểu
sau:
Biểu điều tra cây gỗ
Số hiệu ô ĐVNCST: ………………… Độ tàn che:………………………
Số hiệu OĐĐ: …………… …… Kiểu rừng:………………………
Tiểu khu: ……………………………. Ngày điều tra:……………………
Địa điểm: …………………………… Người điều tra:…………………
Trạng thái rừng: …………………… Vị trí điều tra:……………………
TT
Tên
cây
D
1.3
H
vn
H
dc
D
t
Phẩm
chất
Ghi
chú
C.vi
ĐT NB DT NB
* Điều tra cây tái sinh trên ô dạng bản

Trong mỗi phân ÔĐĐ gỗ mang số hiệu lẻ, mở một ô dạng bản diện tích
16m
2
(4m x 4m) ở góc phía Tây Bắc của phân ÔĐĐ. Trong ô dạng bản sẽ
điều tra thu thập các nội dung:
Điều tra cây tái sinh: Xác định tên loài cây tái sinh theo 7 cấp chiều cao
(<0,5m; 0,6÷1m; 1,1÷1,5m; 1,6÷2,0m; 2,1÷3,0m; 3,1÷5,0m; > 5,0m); các loài
được phân theo chất lượng (khoẻ, yếu, trung bình); phân theo nguồn gốc
(chồi, hạt) cho từng loài, ghi theo cách bỏ phiếu, hàng tổng ghi bằng chữ số ả
rập. Kết quả đo đếm ghi vào mẫu biểu sau:
22
Biểu điều tra cây tái sinh
Số hiệu ÔĐVNCST: ………………………………….…….… …
Kiểu rừng: ………………………………………….………………
Số hiệu ô đo đếm: …………………………………….……………
Trạng thái rừng: …………………………………….……………
TT
Loài
Cây
TS
Chất
Lượng
Tổng
Cấp chiều cao (m)
≤ 0.5 0.6-1.0 1.1-1.5 1.6-2.0 2.1-3.0 3.1-5.0 >5.0
Nguồn
gốc
Nguồn
gốc
Nguồn

gốc
Nguồn
gốc
Nguồn
gốc
Nguồn
gốc
Nguồn
gốc
H Ch H Ch H Ch H Ch H Ch H Ch H Ch
2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu
2.4.3.1. Phân loại các trạng thái rừng
Phân loại các trạng thái rừng nhằm kiểm chứng sự phân chia trạng thái
rừng ngoài thực địa. Để phân loại trạng thái rừng, đề tài sử dụng phương pháp
phân loại của Loeschau (1960) được Viện Điều tra-Quy hoạch rừng nghiên
cứu và bổ sung. Căn cứ vào tổng tiết diện ngang, trữ lượng và một số thông
tin điều tra ngoài thực địa, tiến hành phân chia trạng thái cho từng ô đo đếm.
Cụ thể tiêu chuẩn phân chia các trạng thái rừng như sau:
Toàn bộ rừng gỗ lá rộng thường xanh được chia làm 4 nhóm:
Nhóm 1: Nhóm chưa có rừng
Nhóm 2: Nhóm rừng phục hồi
Nhóm 3: Rừng thứ sinh, rừng đã bị tác động
Nhóm 4: Nhóm rừng nguyên sinh, rừng ổn định
23
* Nhóm kiểu 1: Nhóm không có rừng hoặc hiện tại chưa thành rừng, chỉ có
cỏ, cây bụi hoặc cây gỗ, tre mọc rải rác, có độ che phủ dưới 0,3. Tùy theo
hiện trạng, nhóm này được chia thành:
+ Kiểu I
A
: Kiểu này được đặc trưng bởi lớp thực bì cỏ, lau lách hoặc

chuối rừng.
+ Kiểu I
B
: Kiểu này được đặc trưng bởi lớp thực bì cây bụi, cũng có thể
có một số cây gỗ, tre mọc rải rác.
+ Kiểu I
C
: Kiểu này được đặc trưng bởi cây thân gỗ tái sinh với số
lượng đáng kể nằm trong hai kiểu trên. Chỉ được xếp vào kiểu I
C
khi số lượng
cây tái sinh có chiều cao trên 1m, đạt từ 1000 cây/ha trở lên.
* Nhóm kiểu 2: Kiểu rừng phục hồi cây tiên phong có đường kính nhỏ. Tùy
theo hiện trạng và nguồn gốc mà chia ra:
+ Kiểu II
A
: Rừng phục hồi sau nương rẫy, đặc trưng bởi lớp cây tiên
phong ưa sáng, mọc nhanh, đều tuổi, 1 tầng.
+ Kiểu II
B
: Rừng phục hồi sau khai thác kiệt, phần lớn kiểu này bao
gồm những quần thụ non với những loài cây tương đối ưa sáng, thành phần
loài phức tạp, không đều tuổi, độ ưu thế không rõ ràng.
Vượt lên khỏi tán rừng kiểu này có thể còn sót lại một số cây của quần
thụ cũ nhưng trữ lượng không đáng kể.
Chỉ được xếp vào kiểu này những quần thụ mà đường kính phổ biến
không vượt quá 20cm.
* Nhóm kiểu 3: Kiểu rừng thứ sinh đã bị tác động.
Các quần thụ rừng đã chịu tác động khai phá của con người ở nhiều
mức độ khác nhau làm cho kết cấu ổn định của rừng ít nhiều đã có sự thay

đổi.
Tùy theo mức độ tác động và khả năng cung cấp sản phẩm mà nhóm
này được chia làm 2 kiểu:
24
+ Kiểu III
A
: Được đặc trưng bởi những quần thụ đã bị khai thác nhiều,
khả năng khai thác hiện tại hạn chết. Cấu trúc ổn định của rừng bị phá vỡ
hoàn toàn hoặc thay đổi về cơ bản. Kiểu này được chia làm 3 kiểu phụ:
- Kiểu phụ III
A1
: rừng đã bị khai thác kiệt quệ, tán rừng bị phá vỡ
từng mảng lớn. Tầng trên có thể còn sót lại một số cây cao, to nhưng phẩm
chất xấu, nhiều dây leo bụi rậm, tre nứa xâm lấn. Tùy theo tình hình tái sinh
mà chia ra: III
A1.1
–Thiếu tái sinh; III
A1.2
- Đủ tái sinh.
- Kiểu phụ III
A2
: Rừng đã bị khai thác quá mức nhưng đã có thời
gian phục hồi tốt. Đặc trưng cho kiểu này là đã hình thành tầng giữa vươn lên
chiếm ưu thế sinh thái với lớp cây đại bộ phận có đường kính 20 – 30 cm.
Rừng có 2 tầng trở lên, tầng trên tán không liên tục được hình thành chủ yếu
từ những cây của tầng giữa trước đây, rải rác còn có một số cây to khỏe vượt
táncủa tầng rừng cũ để lại. Tùy theo thành phần cây mục đích của tầng giữa
và tình hình tái sinh mà chia ra: III
A2.1
– Thiếu tái sinh; III

A2.2
- Đủ tái sinh.
- Kiểu phụ III
A3
: Rừng đã bị khai thác vừa phải hoặc phát triển từ
III
A2
lên. Quần thục tương đối khép kín với 2 hoặc nhiều tầng.Đặc trưng của
kiểu này khác với III
A2
ở chỗ số lượng cây nhiều hơn và đã có một số cây có
đường kính lớn (trên 35cm) có thể khai thác sử dụng gỗ lớn.
+ Kiểu III
B
: Đặc trưng bởi những quần thụ đã bị chặt lấy ra một ít gỗ
quý, gỗ tốt nhưng chưa làm thay đổi đáng kể về kết cấu ổn định của rừng, khả
năng cung cấp của rừng còn nhiều, rừng giàu về trữ lượng với thành phần gỗ
lớn cao (gỗ xẻ).
* Nhóm kiểu IV: Rừng nguyên sinh hoặc thứ sinh thành thục cho đến nay
chưa được khai thác sử dụng. Rừng có cấu trúc ổn định, nhiều tầng, nhiều cấp
kính, nhưng đôi khi thiếu tầng giữa và tầng dưới. Nhóm này có 2 kiểu
+ Kiểu phụ IV
A
: Rừng nguyên sinh
25
+ Kiểu phụ IV
B
: Rừng thứ sinh phục hồi đã phát triển đến giai đoạn ổn
định.
2.4.3.2. Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc tầng cây cao

a. Xác định công thức tổ thành
Tổ thành là nhân tố biểu thị tỷ trọng của mỗi loài cây hay nhóm loài
cây nào đó chiếm trong lâm phần. Lâm phần chỉ có 1 loài duy nhất được gọi
là lâm phần thuần loài, lâm phần có 2 loài trở lên gọi là lâm phần hỗn giao.
Việc xác định công thức tổ thành rất cần thiết trong nghiên cứu cấu trúc lâm
phần, biết được loài nào chiếm chủ yếu, loài mục đích chiếm tỉ lệ bao nhiêu,
từ đó đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý tác động vào rừng.
Công thức biểu thị hệ số tổ thành của các loài cây được gọi là công
thức tổ thành. Nó bao gồm các chữ cái viết tên loài cây và hệ số phần 10 của
trữ lượng hoặc tiết diện ngang của các loài cây trong lâm phần. Trong đề tài,
hệ số tổ thành được xác định theo công thức:
2
%%
%
GiNi
IV
+
=
Trong đó:
+ IV%: hệ số tổ thành
+ Ni%: tỉ lệ % số cây của loài i trong OTC
+ Gi%: tỉ lệ % tổng tiết diện ngang của loài i trong OTC
Theo Daniel Marmill, những loài cây có IV>5% là những loài có ý
nghĩa về mặt sinh thái. Theo Thái Văn Trừng (1978), trong một lâm phần
nhóm loài cây nào đó chiếm từ 40-50% tổng cá thể của tầng cây cao thì loài
hay nhóm loài đó được coi là nhóm loài ưu thế.
b. Quy luật cấu trúc đường kính
Có nhiều phương pháp khác nhau để mô tả quy luật cấu trúc, phương
pháp mô tả bằng thực nghiệm và phương pháp mô hình hoá. Phương pháp mô
tả bằng thực nghiệm đơn giản dễ thực hiện đã sử dụng rộng rãi trong nghiên

×