Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên ở một số ô định vị nghiên cứu sinh thái tại khu vực nam trung bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NINH VĂN TỨ

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC RỪNG TỰ NHIÊN
Ở MỘT SỐ Ô ĐỊNH VỊ NGHIÊN CỨU SINH THÁI
TẠI KHU VỰC NAM TRUNG BỘ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Đồng Nai, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NINH VĂN TỨ

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC RỪNG TỰ NHIÊN
Ở MỘT SỐ Ô ĐỊNH VỊ NGHIÊN CỨU SINH THÁI
TẠI KHU VỰC NAM TRUNG BỘ

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.02.01



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VŨ TIẾN HINH

Đồng Nai, 2013


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau, rừng tự nhiên
nước ta ngày càng bị thu hẹp về diện tích, giảm về chất lượng, đặc biệt trong
giai đoạn từ năm 1980 – 1997, trung bình mỗi năm mất đi khoảng 80.000 ha.
Từ năm 1990 trở lại đây, diện tích và độ che phủ của rừng đã được tăng lên liên
tục thông qua các dự án, chương trình như: trồng mới 5 triệu ha rừng, 661 và
chương trình bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có; nhiều dự án của Chính phủ, của
các tổ chức nước ngoài, như PAM, SIDA…. Như vậy, từ cấp quốc gia cũng
như ngành lâm nghiệp đã chú trọng tới việc trồng mới và các biện pháp phục
hồi rừng tự nhiên.
Vùng sinh thái Nam Trung Bộ, rừng bị suy giảm nhanh chóng cả về số
lượng và chất lượng do nhiều nguyên nhân khác nhau đã gây ảnh hưởng
nghiêm trọng về phát triển kinh tế, phòng hộ, sinh thái môi trường và an ninh
quốc phòng. Do đó, cần có sự tác động của con người một cách tích cực chủ
động và hiệu quả nhằm nâng cao độ che phủ và chất lượng rừng. Vì vậy, việc
xác định các biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp nhằm sử dụng hợp lý tài
nguyên rừng trong vùng là nhiệm vụ rất quan trọng.
Thực tiễn đã chứng minh rằng các biện pháp phục hồi rừng, quản lý rừng
bền vững chỉ có thể giải quyết thỏa đáng khi có sự hiểu biết đầy đủ về bản chất

quy luật cấu trúc của hệ sinh thái rừng. Do đó, nghiên cứu cấu trúc rừng được
xem là cơ sở quan trọng nhất giúp các nhà lâm nghiệp có thể chủ động trong
việc xác lập các kế hoạch và các biện pháp kỹ thuật tác động chính xác vào rừng,
góp phần quản lý và kinh doanh rừng bền vững.
Xuất phát từ thực tiễn trên, luận văn: “Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc
rừng tự nhiên ở một số ô định vị nghiên cứu sinh thái tại vùng Nam Trung
Bộ” được thực hiện nhằm góp phần bổ sung những hiểu biết về đặc điểm quy
luật cấu trúc rừng tự nhiên vùng Nam Trung Bộ; làm cơ sở đề xuất các biện
pháp kỹ thuật lâm sinh góp phần quản lý tài nguyên rừng bền vững.


2

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Theo Husch, B. (1992) cấu trúc là sự phân bố kích thước của loài và cá
thể trên diện tích rừng. Cấu trúc lâm phần là kết quả của đặc tính sinh trưởng
loài cây, điều kiện môi trường và biện pháp tác động. Cấu trúc rừng vừa là kết
quả, vừa là sự thể hiện quan hệ đấu tranh là thích ứng lẫn nhau giữa các sinh
vật rừng với môi trường sinh thái và giữa các sinh vật rừng với nhau [15].
Việc hiểu biết về cấu trúc rừng sẽ đem lại nhiều ý nghĩa khác nhau.
Trước hết, đó là thông tin cơ bản để so sánh và phân loại các quần xã thực vật
với nhau. Thứ hai, cấu trúc quần xã thực vật là kết quả phản ánh mối quan hệ
qua lại phức tạp giữa các loài cây với nhau, giữa thực vật và các vật sống
khác, cũng như giữa thực vật và môi trường. Thông qua nghiên cứu cấu trúc
quần xã thực vật, nhà lâm nghiệp có thể hiểu được tính chất phức tạp của hệ
thực vật, các yếu tố và các quan hệ giữa các thành phần quần xã thực vật.
Ngoài ra, việc nghiên cứu cấu trúc rừng còn cho phép nhận được nhiều chỉ
dẫn tốt về sinh thái của quần xã thực vật.
Trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã

quan tâm đến vấn đề này nhằm xây dựng cơ sở khoa học phục vụ kinh doanh
rừng hợp lý, có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu kinh tế và môi trường sinh thái.
Theo quy luật tự nhiên, để tồn tại, cây rừng cần một diện tích dinh dưỡng nhất
định, số lượng cây quá nhiều làm gia tăng sự cạnh tranh, một bộ phận cây có
thể bị đào thải và tự tồn tại, sinh trưởng, phát triển và già cỗi, hiện tượng đó
chính là biểu hiện quy luật tự cân bằng cấu trúc sinh học của nó. Nhưng trong
thực tế, rừng bị chặt phá làm cho tài nguyên rừng có xu hướng giảm nghiêm
trọng, nguy cơ mất rừng đã và đang diễn ra hết sức khống liệt. Chính vì vậy,
các nhà lâm nghiệp tập trung nghiên cứu những đặc điểm cấu trúc lâm phần
nhằm đề xuất phương án quản lý rừng theo hướng bền vững.


3

1.1. Tình hình nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên trên thế giới
Thuật ngữ cấu trúc đã được các nhà lâm nghiệp trên thế giới sử dụng và
xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau phục vụ cho mục tiêu nghiên
cứu nhất định nào đó. Assmann (1968) định nghĩa: “Một lâm phần hay rừng
cây là tổng thể các cây rừng cùng sinh trưởng, là tổng thể các cây cùng sinh
trưởng và phát triển trên một diện tích tạo thành một điều kiện hoàn cảnh nhất
định và có một cấu trúc bên ngoài cũng như bên trong, khác biệt với các diện
tích khác...”. Như vậy, một rừng cây hay một lâm phần trên một diện tích đất
sẽ được hình thành khi nó có đủ số lượng cá thể, tạo nên một tầng tán cũng
như một độ tàn che và những điều kiện hoàn cảnh rừng rất ổn định nào đó
[22].
1.1.1. Nghiên cứu về cấu trúc tầng cây cao
Richards (1968) cho rằng: “Một quần xã thực vật gồm những loài cây
có hình dạng khác nhau, dạng sống khác nhau nhưng tạo ra một hoàn cảnh
nhất định và được sắp xếp một cách tự nhiên và hợp lý trong không gian”
[32]. Theo ông, cách sắp xếp được xem xét theo hướng thẳng đứng và hướng

nằm ngang, cách sắp xếp này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phân biệt
với các quần xã thực vật khác và có thể mô tả bằng các biểu đồ. Các biểu đồ
mặt cắt có giá trị không những mô tả được cấu trúc tầng tán mà còn là những
chỉ dẫn cho các nhà lâm sinh lựa chọn các biện pháp kỹ thuật thích hợp tác
động vào rừng, nhằm giúp cho rừng có một cấu trúc bền vững, ổn định.
Theo Meyer (1852), Turnbull (1963), Rollet (1969), cấu trúc dùng để
xác định các quy luật phân bố số cây gỗ theo đường kính hay phân bố diện
tích tiết diện ngang thân cây theo cấp đường kính.
Wenk (1995) khi nghiên cứu xác định cấu trúc của một loại hình rừng
nhằm mục đích không những đánh giá được hiện trạng và động thái sinh
trưởng của rừng qua các quy luật phân bố số cây theo chiều cao vút ngọn Hvn,


4

theo đường kính ngang ngực D1.3, theo đường kính tán Dt, theo tổng tiết diện
ngang G, ... mà còn có thể xác định được chính xác kích thước bình quân của
lâm phần phục vụ cho công tác điều tra quy hoạch rừng [37].
Prodan (1952) nghiên cứu quy luật phân bố cây rừng, chủ yếu theo
đường kính có liên hệ với giai đoạn phát dục của rừng và các biện pháp kinh
doanh. Theo ông, sự phân bố số cây theo đường kính có giá trị đặc trưng nhất
cho rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên hỗn loài , nó phản ánh được các đặc điểm
lâm sinh của rừng. Những quy luật phân bố mà ông xác định được ở rừng tự
nhiên đã được kiểm chứng ở rất nhiều nơi trên thế giới. Đó là phân bố của
rừng tự nhiên có quy luật một đỉnh lệch trái, số cây tập trung rất nhiều ở các
cấp kính nhỏ do bởi có nhiều loài, nhiều thế hệ cùng tồn tại. Song ở các cỡ
kính lớn chỉ có một số loài nhất định do bởi đặc tính sinh học là cây gỗ lớn
hay do nhờ vị trí thuận lợi trong rừng chúng mới có khả năng tồn tại và phát
triển. Về phân bố chiều cao, rừng tự nhiên thường có quy luật nhiều đỉnh do
có nhiều thế hệ cùng tồn tại hay do khai thác chọn không đúng quy tắc và giới

hạn đường cong phân bố nhiều đỉnh là phân bố giảm đặc trưng cho chặt chọn
không đều tuổi.
Rutkowski Boleslaw (1963) đã nghiên cứu bằng phương pháp biểu đồ
sự phân bố số cây theo đường kính trên một hecta theo đại lượng tương đối.
Cách dùng đường biểu thị đường kính và số cây theo đơn vị đã cho phép so
sánh những lâm phần khác nhau.
Pierlot (1966) khi nghiên cứu về qui luật này đã đề xuất nên dùng hàm
Hyperbol để nắn phân bố thực nghiệm là tốt nhất.
Fekete xác định đường kính bình quân của cây ở vị trí 10%, 20% cho
những lâm phần có đường kính bình quân nhất định. Một số tác giả khác đã
nghiên cứu phạm vi biến động của đường kính.
Nhiều tác giả đã dùng phương pháp giải tích để tìm phương trình của


5

đường cong phân bố. Schiffel biểu thị đường cong phân bố % cộng dồn bằng
đa thức bậc 3.
1.1.2. Nghiên cứu về cấu trúc tái sinh rừng
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng
được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, chất lượng cây, đặc điểm phân
bố cây tái sinh.
Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây con và tầng cây gỗ
đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930 ; Richards, 1952 ;
Baur G.N, 1964 ; Rollet, 1969). Do tính phức tạp về tổ thành loài cây, trong
đó chỉ có một số loài cây có giá trị nên trong thực tiễn người ta chỉ khảo sát
những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Richards P.W (1952) đã tổng kết việc nghiên cứu tái sinh trên các ô
dạng bản và phân bố tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới, đã kết luận cây tái
sinh có dạng phân bố cụm, một số có dạng phân bố Poisson [32].

Để giảm sai số trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard (1955) đã
đề nghị một phương pháp "điều tra chẩn đoán" mà theo đó kích thước ô đo
đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, trong các ô dạng bản, thế hệ cây tái sinh có tổ thành
giống hoặc khác biệt tổ thành cây mẹ.
Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây
gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbread, 1930;
Richards, 1933; 1939; Aubresville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert,
1954; Jones, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969). Do tính
chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên
trong thực tiễn Lâm sinh người ta chỉ tập trung khảo sát những loài cây có ý
nghĩa nhất định.
Van steens. J (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến ở


6

rừng mưa nhiệt đới: Tái sinh phân tán liên tục của loài cây chịu bóng và tái
sinh vệt của loài cây ưa sáng.
Baur G. N. (1964) cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến
phát triển của cây con, còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm
ảnh hưởng này thường không rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng
đến sinh trưởng của cây tái sinh [1]. Ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và
cây bụi kém phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh.
Nhìn chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá
lớn nhưng số lượng loài cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và
được chú ý hơn, còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp thường ít được
nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở các trạng thái rừng phục hồi sau
nương rẫy.
1.2. Nghiên cứu cấu rừng ở Việt Nam

Cấu trúc hệ sinh thái rừng nhiệt đới phức tạp, bao gồm sự phối trí của
các quần xã sinh vật trong không gian và theo thời gian với mối quan hệ qua
lại giữa chúng. Theo Phùng Ngọc Lan, cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ
hợp các thành phần cấu tạo nên quần thể thực vật rừng theo không gian và
thời gian [27]. Cấu trúc rừng bao gồm các nội dung cả về sinh thái lẫn hình
thái thể thực vật. Nghiên cứu cấu trúc rừng là một trong những nội dung quan
trọng để phục vụ cho việc áp dụng các biện pháp lâm sinh, lập kế hoạch kinh
doanh rừng lâu dài.
Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu đặc điểm cấu trúc về rừng đã được
nhiều tác giả nghiên cứu trong từ những năm đầu thế kỷ 20. Theo Thái Văn
Trừng (1970-1978), trước năm 1945 hầu như chỉ có người Pháp thực hiện các
ngiên cứu về Đông Dương, trong số đó đáng kể nhất là nghiên cứu của
Maurand (1943) tác giả cuốn “Lâm nghiệp Đông Dương”; Roller, Lý Văn


7

Hội, Neang Sam Oil (1952) tác giả cuốn “Những quần thể thực vật Nam
Đông Dương”.
Sau năm 1945, rừng nước ta được nhiều nhà nghiên cứu Lâm nghiệp
trong và ngoài nước rất quan tâm, nhưng các công trình nghiên cứu về các chỉ
tiêu định lượng đối với cấu trúc rừng nước ta vẫn còn ít. Sau đây sẽ điểm lại
một số công trình nghiên cứu:
1.2.1. Nghiên cứu về cấu trúc tầng cây cao
Năm 1965, Trần Ngũ Phương và cộng tác viên công bố tập “Bước đầu
nghiên cứu rừng miền Bắc Việt Nam” trên cơ sở nghiên cứu và phân tích các
nhân tố sinh thái phát sinh cũng như những vùng địa lý khác nhau, tác giả
cũng đi đến kết luận và phân tích các kiểu rừng ở miền Bắc Việt Nam cũng
như Việt Nam [30].
Đồng Sỹ Hiền (1974) khi lập biểu thể tích cây đứng rừng tự nhiên miền

Bắc Việt Nam, đã nghiên cứu nhiều lâm phần trên các địa phương khác nhau
và đi đến kết luận chung là: phân bố N-D là dạng phân bố giảm, nhưng trong
quá trình khai thác chọn thô không theo quy chuẩn, đường phân bố thực
nghiệm thường có dạng hình răng cưa [10]. Với kiểu phân bố thực nghiệm
như vậy, tác giả đã dùng hàm Meyer và họ đường cong Pearson để mô phỏng
quy luật cấu trúc đường kính cây rừng.
Nguyễn Hải Tuất (1986) đã sử dụng hàm phân bố giảm, phân bố
khoảng cách để biểu diễn cấu trúc rừng thứ sinh và vận dụng Poisson vào
nghiên cứu cấu trúc quần thể rừng [46].
Nguyễn Ngọc Lung và Đào Công Khanh (1999) đã nghiên cứu đặc
điểm cấu trúc của rừng thông ba lá ở Lâm Đồng. Các tác giả đã dùng hàm
Pearson mô tả quy luật phân bố số cây theo cỡ kính với kiểu rừng kín thường
xanh có kết cấu phức tạp như: thảm thực vật có cấu trúc về loài phong phú và
phân bố nhiều tầng. Ngoài hai hay ba tầng cây gỗ lớn còn có những tầng cây


8

bụi thấp, gồm những cây mọc rải rác, trong đó có những cây con, cây mạ và
cả những loài mọc trong bóng râm dưới tán rừng.
Thời gian gần đây, khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng, việc mô
hình hóa quy luật phân bố số cây theo đường kính và chiều cao đã được các
tác giả chú ý nhiều hơn. Đây là các quy luật được xem là cơ bản nhất trong
các quy luật kết cấu lâm phần. Biết được các quy luật phân bố, có thể xác
định được số cây tương ứng từng cỡ kính hay từng cỡ chiều cao, làm cơ sở
xác định trữ lượng lâm phần.
Trần Văn Con (2001) đã sử dụng mô hình Weibull để mô phỏng cấu
trúc số cây theo cấp đường kính của rừng khộp và cho rằng khi rừng còn non
thì có dạng phân bố giảm, khi rừng càng lớn thì có xu hướng chuyển sang
phân bố một đỉnh và lệch dần từ trái sang phải. Đó là sự biến thiên về lập địa

có lợi hay không có lợi cho quá trình tái sinh.
Nguyễn Văn Trương (1983) với tác phẩm “Quy luật cấu trúc rừng hỗn
loài”, tác giả đã nghiên cứu đặc điểm lâm học của rừng, tập trung làm rõ
những vấn đề vê thành phần loài cây, tìm hiểu cấu trúc của từng loài như: cấu
trúc đứng, cấu trúc đường kính của rừng, phân bố số cây và tổng tiết diện
ngang thân cây trên mặt đất rừng, tái sinh và diễn thế các thế hệ của rừng, ...
từ đó đưa ra những kết luận hợp lý và đề xuất các biện pháp xử lý rừng có
hiệu quả, vừa cung cấp gỗ củi, vừa nuôi dưỡng và tái sinh được rừng, là cơ sở
khoa học góp phần giải quyết chiến lược nghề rừng nước ta. Ông đã sử dụng
các OTC có diện tích từ 0,25 ha -1ha, trong đó các cây D  1cm trở lên được
đo đếm về D, Hvn, Dt, ... cự ly cấp kính là 4cm, chiều cao là 2m, cấp tiết diện
ngang là 0,025m2. Tác giả dùng phương pháp toán học để tiếp cận vấn đề và
định lượng hóa qui luật phân bố bằng các mô hình toán học cụ thể, sau đó xây
dựng rừng có cấu trúc chuẩn [42].


9

1.2.2. Nghiên cứu về cấu trúc tái sinh rừng
Rừng Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của rừng thứ sinh phục
hồi nên những quy luật tái sinh ít nhiều đã bị xáo trộn.
Trần Ngũ Phương (1965) khi nghiên cứu rừng nhiệt đới ở Việt
Nam đã nhấn mạnh, rừng tự nhiên có nhiều tầng, khi một tầng nào đó của
rừng bắt đầu già cỗi thì nó đã chuẩn bị cho bản thân một lớp cây con tái
sinh để sau này sẽ thay thế khi nó bị tiêu vong [31].
Phùng Ngọc Lan (1964) đã nêu kết quả tra dặm hạt Lim xanh dưới
tán rừng ở lâm trường Hữu Lũng, Lạng Sơn. Ngay từ giai đoạn nảy mầm,
bọ xít là nhân tố gây ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ nảy mầm.
Thái Văn Trừng (1978) [41] khi nghiên cứu về “Thảm thực vật rừng
Việt Nam” đã kết luận: Ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và điều khiển

quá trình tái sinh tự nhiên trong rừng. Khi các điều kiện của môi trường như
đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng chưa thay đổi thì các loài cây tái sinh
không có những biến đổi lớn và cũng không diễn thế một cách tuần
hoàn trong không gian và theo thời gian mà diễn thế theo những phương
thức tái sinh có quy luật nhân quả giữa sinh vật và môi trường.
Viện Điều tra Quy hoạch rừng tiến hành điều tra tái sinh tự nhiên ở
rừng thứ sinh Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng
Sơn (1969).
Vũ Đình Huề (1969) đã phân chia khả năng tái sinh rừng thành 5 cấp,
rất tốt, tốt, trung bình, xấu và rất xấu [12]. Nhìn chung nghiên cứu này mới chỉ
chú trọng đến số lượng mà chưa đề cập đến chất lượng cây tái sinh.
Nguyễn Duy Chuyên (1985) khi nghiên cứu về tái sinh rừng tự nhiên ở ba
vùng (Sông Hiếu, Yên Bái và Lạng Sơn) đã khái quát đặc điểm phân bố của nhiều
loài cây có giá trị kinh doanh và biểu diễn bằng các hàm lý thuyết. Từ đó làm cơ
sở định hướng các biện pháp Lâm sinh cho các vùng sản xuất nguyên liệu


10

Nguyễn Văn Trương (1983) đã đề cập trong công trình nghiên cứu
của mình về mối quan hệ giữa cấu trúc rừng với lớp cây tái sinh tự nhiên
trong rừng hỗn. Theo tác giả, cần phải thay đổi cách khai thác rừng cho hợp
lý vừa cung cấp được gỗ, vừa nuôi dưỡng và tái sinh được rừng. Muốn đảm
bảo cho rừng phát triển liên tục trong điều kiện quy luật đào thải tự nhiên hoạt
động thì rõ ràng là lớp cây dưới phải nhiều hơn lớp cây kế tiếp nó ở phía trên.
Điều kiện này không thực hiện được trong rừng tự nhiên ổn định mà chỉ có
trong rừng chuẩn có hiện tượng tái sinh liên tục đã được sự điều tiết của con
người.
Vũ Tiến Hinh (1991) khi nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên tại
Hữu Lũng (Lạng Sơn) và vùng Ba Chẽ (Quảng Ninh) đã nhận thấy rằng, hệ

số tổ thành tính theo % số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có liên
quan chặt chẽ với nhau. Các loài có hệ số tổ thành ở tầng cây cao càng lớn thì
hệ số tổ thành ở tầng tái sinh cũng vậy [16].
Khi nghiên cứu về tái sinh tự nhiên ở rừng Khộp vùng Easup Đắc Lắc, Đinh Quang Diệp (1993) đã kết luận: Độ tàn che, thảm mục, độ
dày tầng thảm mục, điều kiện lập địa,… là những nhân tố ảnh hưởng đến số
lượng và chất lượng cây con tái sinh dưới tán rừng [7].
Trần Xuân Thiệp (1995) đã cho rằng rừng phục hồi vùng Đông Bắc
chiếm trên 30% diện tích rừng hiện có, lớn nhất so với các vùng khác. Khả
năng phục hồi hình thành các vườn rừng, trang trại rừng đang phát triển ở
các tỉnh trong vùng [38].
Nói tóm lại, rừng tự nhiên lá rộng thường xanh ở Việt Nam có diện
tích lớn, bị tác động bởi nhiều yếu tố ngoại cảnh, nhất là tác động của con
người. Quá trình phục hồi trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, hình thành
nên các hệ sinh thái rừng khác nhau. Muốn đề xuất được các biện pháp kỹ
thuật lâm sinh phù hợp, đòi hỏi phải dựa trên kết quả nghiên cứu cấu trúc


11

rừng đứng trên quan điểm tổng hợp về sinh thái học, lâm học và sản lượng
rừng.
Các công trình nghiên cứu về rừng tự nhiên trên thế giới cũng như ở
Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Với xu hướng nghiên cứu hiện nay là
chuyển từ định tính sang định lượng bằng các mô hình toán học. Phần lớn
các tác giả chú ý đến việc lựa chọn mô hình lý thuyết thích hợp để mô tả
các đặc điểm cấu trúc rừng. Trong đó, cấu trúc N/D 1.3 được quan tâm hàng
đầu, sau đó đến cấu trúc N/H vn, N/G, M/D1.3 ,… Từ mô hình lý thuyết thích
hợp, bằng những phương pháp khác nhau, các tác giả đã xây dựng mô hình
cấu trúc mẫu làm cơ sở đề xuất biện pháp lâm sinh phù hợp cho từng mục
tiêu kinh doanh cụ thể.

Theo hướng đó, đề tài tập trung nghiên cứu cấu trúc tầng cây cao,
cấu trúc tầng tái sinh của rừng, thử nghiệm mô phỏng phân bố N/D, N/Hvn
bằng các hàm lý thuyết khác nhau để tìm ra hàm phù hợp nhất để mô tả các
quy luật cấu trúc lâm phần. Đây là cơ sở cho việc xây dựng hệ thống các
biện pháp lâm sinh góp phần quản lý bảo vệ rừng phòng hộ tại khu vực
nghiên cứu.
1.3. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khu vực Nam Trung Bộ
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý:
Vùng sinh thái Duyên hải Nam Trung bộ (DHNTB) kéo dài từ 10020/
đến 16005/ vĩ độ Bắc, từ thành phố Đà Nẵng đến tỉnh Bình Thuận. Phía bắc
giáp vùng kinh tế Bắc Trung Bộ, phía tây và tây bắc giáp vùng Tây Nguyên
và nước Campuchia, phía nam giáp vùng kinh tế Đông Nam Bộ, phía đông
giáp biển Đông.


12

Diện tích tự nhiên 44.360,5 km2, gồm có: có 8 tỉnh, thành phố gồm Đà
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh
Thuận, Bình Thuận.
* Địa hình:
Địa hình mang tính chất của địa hình đồng bằng duyên hải, được chia
thành 3 dạng chủ yếu là khu vực núi trung bình - cao > 1.000 m, núi thấp
<1.000 m và đồng bằng. Các tỉnh đều giáp biển. Phía Tây là núi, gò đồi ăn ra
sát biển. Phía Đông là đồng bằng nhỏ, hẹp bị chia cắt. Bờ biển khúc khuỷu, có
nhiều vũng vịnh, đáy biển sâu, thềm lục địa hẹp...
* Khí hậu thủy văn:
Khí hậu của Vùng mang đậm nét khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, nhiệt độ
trung bình từ 24 - 270C, nhiệt độ tối thấp từ 20 - 210C, nhiệt độ tối cao từ 31 320C, biên độ nhiệt hằng năm nhỏ hơn 90C. Khí hậu có 2 mùa khô và mưa rõ

rệt, thời gian mùa khô kéo dài tùy thuộc vào các tiểu vùng sinh thái nông
nghiệp, lượng mưa biến động từ 500 - 2.500 mm, độ ẩm không khí bình quân
70 - 80%.
Hệ thống sông ngòi lưu vực của khu vực Nam Trung Bộ trừ sông Ba (có
diện tích 12.800 km2) còn lại đều là những sông có lưu vực không lớn, trong
đó có các sông đáng kể như Cái Nha Trang (Khánh Hòa), sông Cái Phan
Rang (Ninh Thuận), sông Lũy (Bình Thuận), ngoài ra còn hàng chục sông
nhỏ khác.
* Tài nguyên:
+ Tài nguyên đất:
Tổng diện tích đất tự nhiên toàn vùng là 4.425.642 ha, trong đó: đất nông
nghiệp chiếm 18,7%, đất lâm nghiệp chiếm 39,4%, đất hoang hoá chưa sử
dụng và sông suối là 35,1%. Trong vùng có 9 nhóm đất chính, trong đó 3


13

nhóm: đất xám bạc màu (Arisolols - AC), đất cồn cát và đất cát biển (Arenosols
- AR) chiếm đa số.
+ Tài nguyên rừng:
Diện tích (ha)
Đất lâm nghiệp có rừng

Cơ cấu (%)

1166365

35.27

981012


29.67

Rừng sản xuất

284386

8.60

Rừng phòng hộ

584798

17.69

Rừng đặc dụng

111828

3.38

185331

5.60

Rừng sản xuất

132228

4.00


Rừng phòng hộ

46897

1.42

Rừng đặc dụng

6206

0.19

22

0.00

Rừng tự nhiên

Rừng trồng

Đất ươm cây giống

(theo Cục Thống kê, năm 2000)
+ Tài nguyên biển:
Tài nguyên lớn nhất của vùng là kinh tế biển. Vận tải biển trong nước và
quốc tế. Chùm cảng nước sâu đảm bảo tàu có trọng tải lớn vào được, có sẵn
cơ sở hạ tầng và nhiều đất xây dựng để xây dựng các khu công nghiệp tập
trung gắn với các cảng nước sâu và với vị trí địa lý của mình có thể chọn làm
cửa ngõ ra biển cho đường “xuyên Á”. Có triển vọng về dầu khí ở thềm lục

địa.
+ Tài nguyên khoáng sản
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ nằm trong khu vực có tiềm năng về
khoáng sản của nước ta, đáng chú ý là sa khoáng nặng, cát trắng (cho phép
vùng trở thành trung tâm phát triển công nghiệp thuỷ tinh, kính quang học),
đá ốp lát, nước khoáng, vàng...


14

1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
* Cơ sở hạ tầng:
+ Giao thông: Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có vị trí địa lý kinh tế rất thuận
lợi, nằm trên trục các đường giao thông bộ, sắt, hàng không và biển. Vùng
gần thành phố Hồ Chí Minh và khu tam giác kinh tế trọng điểm miền Đông
Nam Bộ; là cửa ngõ của Tây Nguyên, của đường xuyên Á ra biển nối với
đường hàng hải quốc tế. Nam Trung bộ có sân bay Đà Nẵng là một trong 3
cảng hàng không quốc tế lớn của Việt Nam. Vùng còn có nhiều sân bay nội
địa như Phú Cát (Bình Định), Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hoà)… cùng
hàng ngàn km đường bộ, đường sắt. Về đường biển, vùng có nhiều cảng biển
quan trọng như cảng Đà Nẵng, Tiên Sa, Liên Chiểu (Đà Nẵng), Kỳ Hà
(Quảng Nam)… tạo nên hệ thống cảng biển phục vụ cho phát triển kinh tế
vùng và tạo thành con đường huyết mạch trên biển thông thương với khu vực
và thế giới. Vùng có nhiều khu kinh tế mở như Chu Lai (Quảng Nam), Dung
Quất (Quảng Ngãi), Nhơn Hội (Bình Định) với cơ sở hạ tầng tương đối hoàn
thiện.
+ Năng lượng điện:
Cơ sở năng lượng (điện) chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển cũng
như các hoạt động kinh tế khác của vùng. Vấn đề này đang được giải quyết
theo hướng sử dụng điện của nhà máy điện Hoà Bình qua đường dây 500 kV,

xây dựng ở Nam Trung Bộ một số nhà máy thuỷ điện với quy mô trung bình
như Sông Hinh (Phú Yên), Vĩnh Sơn (Bình Định), hoặc tương đối lớn như
Hàm Thuận – Đa Mi (Bình Thuận).
+ Thủy lợi:
Hiện hệ thống thủy lợi ở Nam Trung Bộ (trong đó có Quảng Nam) chỉ
đảm bảo nước tưới cho khoảng 60-65% diện tích cây lương thực và 30% diện
tích cây công nghiệp. Vì vậy nâng cấp hệ thống thủy lợi là điều cấp thiết.


15

Khu vực Nam Trung Bộ chia ra làm 5 vùng dựa theo nhóm lưu vực các
con sông lớn. Vùng 1, bao gồm lưu vực sống Vu Gia – Thu Bồn ảnh hưởng
việc tưới tiêu và lũ lụt của Quảng Nam và Đà Nẵng. Toàn vùng có 933 công
trình thủy lợi các loại, trong đó có 86 hồ chứa, 607 đập dâng tổng năng lực
tưới tiêu theo thiết kế cho 73 ngàn ha nhưng thực tế chỉ phục vụ được trên 46
ngàn ha.
* Dân số, văn hóa, y tế, giáo dục
+ Dân số: dân số toàn vùng là 8.186.871 người, mật độ trung bình 214
người/km2 (số liệu thống kê năm 2010). Phần lớn dân cư trong vùng sinh
sống chủ yếu ở vùng đồng bằng ven biển. Vùng miền núi ở phía tây của vùng
là nơi sinh sống của các tộc người thiểu số như: Katu, Cor, Cadong, Raglai,
Xêđăng, Giẻ - Triêng, Hrê, Bana, Chăm,… với mật độ dân cư thưa thớt hơn.
Tỷ lệ hộ nghèo chiếm tới 16,9% (Cục thống kê, 2000).
+ Văn hóa: không gian văn hóa của vùng bao hợp cả không gian văn hóa biển
đảo, văn hóa duyên hải, văn hóa nông thôn đồng bằng và văn hóa miền núi trung du.
+ Y tế, giáo dục:
Đến nay, toàn tỉnh có 100% xã, phường, thị trấn đã chuẩn về phổ cập
Tiểu học và chống mù chữ. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng có
nhiều tiến bộ đáng kể. Đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng

cao.
Nhận xét:
+ Tiềm năng
- Tổng lượng nhiệt trong năm lớn và lượng mưa trung bình năm tương
đối cao thuận lợi cho phát triển sản xuất các loại cây trồng nhiệt đới có giá trị
kinh tế cao. Ngoài ra, cường độ bức xạ cũng là nhân tố thuận lợi cho việc
nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cây trồng, vật nuôi của vùng;


16

- Tiểu vùng khí hậu núi cao có điều kiện thích hợp cho các đối tượng cây
trồng á nhiệt đới và ôn đới phát triển;
- Đất đai còn dồi dào sẽ thuận lợi trong việc quy hoạch vùng sản xuất
nông, lâm nghiệp tập trung theo hướng hàng hóa và thị trường;
- Nguồn tài nguyên đa dạng sinh học dồi dào, phong phú và đa dạng;
- Tỷ lệ dân số và lực lượng trong độ tuổi lao động ở khu vực nông thôn
chiếm > 65% là nguồn nhân lực dồi dào cho sản xuất nông lâm nghiệp và công
nghiệp hóa nông thôn của vùng;
- Truyền thống và tập quán cần cù, chịu khó của người nông dân trong
sản xuất nông nghiệp;
- Được sự quan tâm của các cấp chính quyền, thể hiện qua các chính
sách và chương trình hỗ trợ sản xuất nông lâm nghiệp,…
+ Hạn chế:
- Độ phì đất kém, đất thường chua và khả năng giữ nước, giữ dinh dưỡng
không cao, đất đang bị thoái hóa và hoang mạc hóa;
- Mưa tập trung không phân bổ đều giữa các tháng trong năm, cường độ
bốc thoát hơi nước trong mùa hạn cao nên dễ xảy ra hạn cục bộ hoặc trên diện
rộng khi kết thúc mùa mưa;
- Địa hình dốc và hệ thống giữ nước chưa nhiều nên chưa đáp ứng đủ

nhu cầu nước tưới cho diện tích đất nông nghiệp hiện có. Ngoài ra, hệ
thống nước ngầm không phân bổ đều, đặc biệt, đối với vùng trung du và
núi cao, nên nước tưới cho cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả hầu
như chưa được quan tâm;


17

- Còn thiếu các tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông lâm
nghiệp, đặc biệt là các công nghệ về sử dụng đất, nước theo hướng hiệu quả
và bền vững;
- Trình độ canh tác và vốn của người nông dân chưa đáp ứng với tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Do đó, việc khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhân lực sẵn
có và nâng cao hiệu quả kinh tế trên đơn vị đất canh tác là định hướng nghiên
cứu cơ bản trong lĩnh vực nông lâm nghiệp của vùng.
.


18

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Xác định được đặc điểm cấu trúc làm cơ sở đề xuất một số biện pháp
quản lý và nuôi dưỡng rừng tự nhiên thuộc đối tượng nghiên cứu.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được đặc điểm cấu trúc của tầng cây cao;

- Xác định được đặc điểm cấu trúc tầng cây tái sinh;
- Đề xuất được một số biện pháp quản lý và nuôi dưỡng rừng tự nhiên
thuộc đối tượng nghiên cứu.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là rừng tự nhiên lá rộng thường xanh trên cơ sở
kế thừa số liệu 4 ÔĐVNCST của Viện Điều tra - Quy hoạch rừng ở khu vực
Nam Trung Bộ, chu kỳ điều tra IV (2006-2010).
2.3. Nội dung nghiên cứu
Căn cứ vào đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, mục tiêu, phạm vi và
giới hạn của đề tài, nội dung nghiên cứu được xác định như sau:
2.3.1. Phân chia các trạng thái rừng
2.3.2. Nghiên cứu quy luật cấu trúc tầng cây cao
- Nghiên cứu quy luật cấu cấu trúc tổ thành
- Nghiên cứu một số quy luật phân bố:
+ Phân bố số cây theo đường kính ngang ngực
+ Phân bố số cây theo chiều cao vút ngọn
- Nghiên cứu quy luật tương quan giữa chiều vút ngọn với đường kính
- Phân bố trữ lượng theo đường kính ngang ngực


19

2.3.3. Nghiên cứu đặc điểm tái sinh
- Xác định tổ thành loài cây tái sinh;
- Xác định mật độ, chất lượng, nguồn gốc tái sinh;
- Xác định mật độ tái sinh triển vọng;
- Xác định phân bố cây tái sinh theo chiều cao;
- Xác định kiểu phân bố cây tái sinh trên mặt đất.
2.3.4. Đề xuất biện pháp kỹ thuật lâm sinh
2.4. Phương pháp nghiên cứu

2.4.1. Ngoại nghiệp
Dưới đây trình bày sơ lược biện pháp kỹ thuật điều tra trên ÔĐVNCST
với đối tượng là tầng cây cao để nghiên cứu cấu trúc và đa dạng loài.
* Lập ô định vị nghiên cứu sinh thái, ô điều tra cơ bản:
Lập ÔĐVNCST trên diện tích rừng thuộc phạm vi nghiên cứu. Diện
tích ÔĐVNCST là 100 ha (1000 x 1000m). Lấy ¼ diện tích ÔĐVNCST phía
Đông Bắc (diện tích 25 ha) làm ô điều tra cơ bản (ÔĐTCB), ranh giới ô được
đo đạc bằng địa bàn 3 chân (hình 2.1). Trên đó, tiến hành thiết lập mạng lưới
ô vuông (50 x 50m) để phân chia các lô trạng thái rừng (hình 2.2).
500 m

1000 m

(2)

1 – IIIA
10.5

25 ha

(4)

(3)

3 – IVA
6.4

50 m
50 m


Hình 2.1.Sơ đồ lập ÔĐVNCST

Hình 2.2.Sơ đồ lập ÔĐTCB

500 m

1000 m

2 – IIIB
8.1


20

* Lập ô đo đếm
Sau khi phân chia trạng thái rừng ở ÔĐTCB, tiến hành lập ô đo đếm
(ÔĐĐ), số lượng là 3 ô, diện tích mỗi ô là 1 ha (100m x 100m), ranh giới ô
được đo bằng địa bàn 3 chân, sai số khép kín cho phép là 1/200.
Trong mỗi ÔĐĐ phân thành 25 phân ô, được đánh số từ 1 đến 25 (theo
nguyên tắc từ trái sang phải, từ trên xuống dưới), mỗi Phân ô có diện tích
400m2 (20m x 20m):

* Thu thập số liệu trên hệ thống ô đo đếm
Trên các ô đo đếm, tiến hành đo đếm các chỉ tiêu sau:
Điều tra tầng cây cao:
- Đánh số thứ tự, xác định tên loài cây.
- Đo đường kính ngang ngực (D1.3): tất cả những cây có D1.3  6cm
trong ÔĐĐ bằng thước kẹp kính tại vị trí cách cổ rễ 1,3m; đo 2 chiều: Đông –
Tây và Nam – Bắc rồi lấy giá trị trung bình.
- Đo chiều cao vút ngọn (Hvn), chiều cao dưới cành (Hdc) bằng thước

Blumeleiss tất cả những cây trong Phân ÔĐĐ mang số hiệu lẻ.


21

- Đo đường kính tán (Dt) bằng thước dây theo 2 chiều vuông góc với
nhau dựa vào hình chiếu của mép tán lá của tất cả những cây trong Phân ÔĐĐ
mang số hiệu lẻ.
- Đánh giá chất lượng cây thông qua hình thái thân cây, tán cây, sinh
trưởng, vật hậu, … Cụ thể:
+ Chất lượng A: là những cây sinh trưởng tốt, thân thẳng, không
bị sâu bệnh.
+ Chất lượng B: là những cây có phẩm chất trung gian giữa chất
lượng A và C.
+ Chất lượng C: là những cây sinh trưởng kém, cong queo, sâu
bệnh, lệch tán, cụt ngọn, …
Phương pháp đo đếm và những yêu cầu kỹ thuật tuân theo quy trình
điều tra trong công tác điều tra quy hoạch rừng hiện hành.
Điều tra cây tái sinh:
Trên mỗi phân ô đo đếm mang số hiệu lẻ, lập 1 ô dạng bản diện tích
16m2 (4mx4m) ở góc phía Tây Bắc của phân ô đo đếm. Trong mỗi ODB tiến
hành đo đếm các nội dung cây tái sinh: xác định tên cây tái sinh; chiều cao
chia cây tái sinh thành 7 cấp (<0,5m; 0,6-1m; 1,1- 1,5m; 1,6-2,0m; 2,1-3m;
3,1-5m; >5m); đánh giá phẩm chất: khỏe, yếu, trung bình; phân chia theo
nguồn gốc tái sinh (chồi, hạt).
2.4.2. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
2.4.2.1. Phân chia trạng thái rừng
Theo quy phạm thiết kế kinh doanh rừng năm 1984 (QPN6-84) các
trạng thái rừng chính được phân chia theo hệ thống phân loại của Loeschau
2

(1962), căn cứ vào tổng tiết diện ngang (  G  m / ha ), trữ lượng

3
(  M  m / ha ), độ tàn che (P) và một số thông tin điều tra ngoài thực địa,


22

tiến hành phân chia trạng thái cho từng ô đo đếm. Cụ thể tiêu chuẩn phân chia
các trạng thái rừng như sau:
Toàn bộ rừng gỗ lá rộng thường xanh được chia làm 4 nhóm:
Nhóm 1: Nhóm chưa có rừng
Nhóm 2: Nhóm rừng phục hồi
Nhóm 3: Rừng thứ sinh, rừng đã bị tác động
Nhóm 4: Nhóm rừng nguyên sinh, rừng ổn định
* Nhóm kiểu 1: Nhóm không có rừng hoặc hiện tại chưa thành rừng,
chỉ có cỏ, cây bụi hoặc cây gỗ, tre mọc rải rác, có độ che phủ dưới 0,3. Tùy
theo hiện trạng, nhóm này được chia thành:
+ Kiểu IA: Kiểu này được đặc trưng bởi lớp thực bì cỏ, lau lách
hoặc chuối rừng.
+ Kiểu IB: Kiểu này được đặc trưng bởi lớp thực bì cây bụi, cũng
có thể có một số cây gỗ, tre mọc rải rác.
+ Kiểu IC: Kiểu này được đặc trưng bởi cây thân gỗ tái sinh với
số lượng đáng kể nằm trong hai kiểu trên. Chỉ được xếp vào kiểu IC khi số
lượng cây tái sinh có chiều cao trên 1m, đạt từ 1000 cây/ha trở lên.
* Nhóm kiểu 2: Kiểu rừng phục hồi cây tiên phong có đường kính nhỏ.
Tùy theo hiện trạng và nguồn gốc mà chia ra:
+ Kiểu IIA: Rừng phục hồi sau nương rẫy, đặc trưng bởi lớp cây tiên
phong ưa sáng, mọc nhanh, đều tuổi, 1 tầng, đường kính D < 10 cm, G < 10
m2/ha, rừng có trữ lượng nhỏ. Thuộc đối tượng nuôi dưỡng.

+ Kiểu IIB: Rừng phục hồi sau khai thác kiệt, phần lớn kiểu này bao
gồm những quần thụ non với những loài cây tương đối ưa sáng, thành phần
loài phức tạp, không đều tuổi, độ ưu thế không rõ ràng. Đường kính cây cao
phổ biến bình quân D > 10 cm, G < 10 m2/ha.Thuộc đối tượng nuôi dưỡng.


23

Vượt lên khỏi tán rừng kiểu này có thể còn sót lại một số cây của quần
thụ cũ nhưng trữ lượng không đáng kể.
Chỉ được xếp vào kiểu này những quần thụ mà đường kính phổ biến
không vượt quá 20cm.
* Nhóm kiểu 3: Kiểu rừng thứ sinh đã bị tác động.
Các quần thụ rừng đã chịu tác động khai phá của con người ở nhiều mức
độ khác nhau làm cho kết cấu ổn định của rừng ít nhiều đã có sự thay đổi.
Tùy theo mức độ tác động và khả năng cung cấp sản phẩm mà nhóm
này được chia làm 2 kiểu:
+ Kiểu IIIA: Được đặc trưng bởi những quần thụ đã bị khai thác nhiều,
khả năng khai thác hiện tại hạn chết. Cấu trúc ổn định của rừng bị phá vỡ
hoàn toàn hoặc thay đổi về cơ bản. Kiểu này được chia làm 3 kiểu phụ:
- Kiểu phụ IIIA1: rừng đã bị khai thác kiệt quệ, tán rừng bị phá vỡ
từng mảng lớn. Tầng trên có thể còn sót lại một số cây cao, to nhưng phẩm
chất xấu, nhiều dây leo bụi rậm, tre nứa xâm lấn. Độ tàn che S < 0,3, ∑G < 10
m2/ha, ∑GD > 40< 2 m2/ha, trữ lượng < 80 m3/ha.
Tùy theo tình hình tái sinh mà chia ra: IIIA1.1 – Thiếu tái sinh; IIIA1.2 Đủ tái sinh.
- Kiểu phụ IIIA2: Rừng đã bị khai thác quá mức nhưng đã có thời
gian phục hồi tốt. Đặc trưng cho kiểu này là đã hình thành tầng giữa vươn lên
chiếm ưu thế sinh thái với lớp cây đại bộ phận có đường kính 20 – 30 cm.
Rừng có 2 tầng trở lên, tầng trên tán không liên tục được hình thành chủ yếu
từ những cây của tầng giữa trước đây, rải rác còn có một số cây to khỏe vượt

tán của tầng rừng cũ để lại. Độ tàn che của rừng S = 0,3 – 0,5, ∑G = 10 – 15
m2/ha, ∑GD > 40 < 2 m2/ha, trữ lượng từ 80 – 120 m3/ha.
Tùy theo thành phần cây mục đích của tầng giữa và tình hình tái sinh
mà chia ra: IIIA2.1 – Thiếu tái sinh; IIIA2.2 - Đủ tái sinh.


×