Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

THỰC TRẠNG CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THÁI BÌNH DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.26 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Danh mục tài liệu tham khảo

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời từ tháng 7/2000. Trong những
năm đầu phát triển, quy mô thị trường chưa lớn, chưa phát triển. Doanh
nghiệp chưa coi đây là một thị trường tiềm năng để huy động vốn, nhà đầu tư
chưa đánh giá đây là môi trường đầu tư hấp dẫn vì vậy các công ty chứng
khoán mở ra trong thời điểm này cũng hoạt động cầm chừng, chưa có điều
kiện phát triển. Nguồn thu chủ yếu của các công ty chứng khoán trong khoảng
thời gian này (giai đoạn 2000 – 2003) là phát triển dịch vụ tư vấn cổ phần hoá
theo chính sách cổ phần hoá mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước của Chính
phủ, thu phí từ hoạt động môi giới – giao dịch.
Các công ty chứng khoán ra đời vào thời điểm này hầu hết dưới hình
thức Công ty TNHH một thành viên trực thuộc các Ngân hàng Thương Mại
quốc doanh lớn, được cấp 100% vốn, không chịu áp lực lợi nhuận và doanh
số. Tuy thị trường chứng khoán còn chưa phát triển, nghiệp vụ kinh doanh các
công ty chứng khoán còn đơn giản chưa phát triển song các công ty chứng
khoán vẫn tồn tại được vì áp lực cạnh tranh không cao, yêu cầu từ phía thị
trường giản đơn…
Ngày nay, qua một thời gian phát triển 7 năm, thị trường chứng khoán
Việt Nam đã lớn mạnh gấp hàng trăm lần cả về quy mô và sự phát triển và bên
cạnh đó các công ty chứng khoán hoạt động trong thị trường này chịu áp lực
2
cạnh tranh đào thải của gay gắt. Số lượng các công ty chứng khoán nhiều gấp
mười lần so với trước kia, yêu cầu đòi hỏi của thị trường tăng cao thêm vào đó
các ưu đãi của nhà nước dành cho ngành chứng khoán chứng khoán dần giảm
đi.
Đứng trước những thách thức thị trường và áp lực cạnh tranh to lớn,
khoảng hơn một năm trở lại đây, các công ty chứng khoán đã liên tục cho ra


những sản phẩm dịch vụ mới bổ trợ cho các nghiệp vụ truyền thống nhằm
phát triển hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ kinh
doanh cùng với đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, triển khai công nghệ (tin học hoá
sản phẩm dịch vụ tài chính) là những trăn trở của các công ty chứng khoán
trong quá trình tồn tại và phát triển.
Để tìm ra hướng đi đúng cho việc phát triển hoạt động kinh doanh của
công ty chứng khoán trong giai đoạn phát triển mới của thị trường, tôi chọn đề
tài: “Phát triển các nghiệp vụ kinh doanh tại Công ty cổ phần Chứng
khoán Thái Bình Dương”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn:
- Nghiên cứu lý luận về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán.
- Nghiên cứu thực trạng về nghiệp vụ kinh doanh tại Công ty cổ phần
Chứng khoán Thái Bình Dương.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ kinh doanh tại công ty
cổ phần chứng khoán Thái Bình Dương.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn họat động các nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán tại công ty chứng khoán Thái Bình Dương.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực tiễn hoạt động các nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán tại công ty chứng khoán Thái Bình Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
2
2
3
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp tư duy biện
chứng và duy vật lịch sử. Hệ thống lý thuyết kết hợp lý luận và thực tiễn để
phát triển, đánh giá, rút ra những kết luận và đề xuất chủ yếu.
6. Kết cấu đề tài
Bên cạnh phần giới thiệu chung, đề tài gồm 3 chương:

Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ kinh doanh
của công ty chứng khoán
Chương 2 : Thực trạng các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty
cổ phần chứng khoán Thái Bình Dương
Chương 3 : Giải pháp phát triển các nghiệp vụ kinh doanh
tại Công ty cổ phần Chứng khoán Thái Bình
Dương
.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ
KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế. Công ty
chứng khoán sử dụng các chức năng kinh doanh Môi giới chứng khoán, Tự
doanh chứng khoán, Bảo lãnh phát hành chứng khoán, Tư vấn chứng khoán…
để thực hiện kinh doanh thu lợi nhuận.
1.1.2. Chức năng của công ty chứng khoán
3
3
4
Công ty chứng khoán có ba chức năng chủ yếu trên thị trường tài chính:
- Một là: Tạo ra cơ chế huy động vốn bằng cách kết nối những người có
tiền (nhà đầu tư) với những người muốn huy động vốn đó là tổ chức phát hành
chứng khoán như Công ty cổ phần, Công ty TNHH hoặc là Chính phủ.
- Hai là: Cung cấp một cơ chế giá cả cho giá trị của các khoản đầu tư.
Các khoản đầu tư được đưa cho người sử dụng vốn có hiệu quả thì giá cả hiện
hữu của chúng trên thị trường có thể gấp nhiều lần so với giá trị của các khoản
đầu tư và ngược lại.
- Ba là: Cung cấp cơ chế chuyển ra tiền mặt cho các nhà đầu tư. Sau một
thời gian đầu tư khi không muốn nắm giữ khoản đầu tư đó nữa nhà đầu tư có

thể thông qua cơ chế của Công ty chứng khoán để chuyển nhượng toàn bộ
hoặc một phần khoản đầu tư của mình sang nhà đầu tư khác.
Khi thực hiện các chức năng của mình, các Công ty chứng khoán cũng tạo
ra sản phẩm vì các Công ty này hoạt động với tư cách đại lý hay công ty uỷ
thác trong quá trình mua bán các chứng khoán được niêm yết và chưa niêm
yết đồng thời cung cấp các dịch vụ tư vấn đầu tư cho cá nhân đầu tư các công
ty cổ phần và cả Chính phủ.
1.1.3. Vai trò công ty chứng khoán
Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu…), không phải tự họ đi bán số chứng khoán
mà họ định phát hành. Doanh nghiệp không thể làm tốt công việc đớ bởi vì họ
không có bộ máy chuyên môn. Các nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán
và làm phát hành chứng khoán cho các doanh nghiệp là các Công ty chứng
khoán. Với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ
chức thích hợp, Công ty chứng khoán thực hiện vai trò trung gian môi giới
mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ
khác cho cả người đầu tư và tổ chức phát hành.
Các Công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ có các Công
ty chứng khoán mà cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp trong nền
4
4
5
kinh tế lưu thông buôn bán tấp nập trên thị trường chứng khoán. Qua đó, các
nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng được tập trung lại trở thành những nguồn
vốn lớn hơn được đưa vào đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp phát triển kinh tế.
1.1.3.1 Vai trò huy động vốn
Các ngân hàng, các công ty chứng khoán và các quỹ đầu tư đều là các
trung gian tài chính với vai trò huy động vốn. Các tổ chức này có vai trò làm

chiếc cầu nối đồng thời là các kênh dẫn vốn chảy từ một hoặc một số bộ phận
nào đó của nền kinh tế dư thừa vốn (vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của
nền kinh tế đang thiếu vốn (cần huy động vốn). Các công ty chứng khoán
thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động tư vấn phát hành đấu giá,
bảo lãnh phát hành hoặc môi giới chứng khoán.
1.1.3.2. Vai trò cung cấp một cơ chế giá cả
Ngành công nghiệp chứng khoán nói chung, công ty chứng khoán nói
riêng thông qua các trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giao dịch chứng
khoán và thị trường OTC có chức năng cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp
nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị các khoản
đầu tư của mình. Các sở giao dịch chứng khoán và trung tâm giao dịch chứng
khoán niêm yết giá cổ phiếu của các công ty niêm yết hàng ngày, các giao
dịch thường xuyên về chứng khoán của các công ty này tạo ra một giá cả thị
trường chuẩn mực.. Ngoài ra chứng khoán của nhiều công ty lớn (các công ty
đại chúng) chưa được niêm yết tại sở giao dịch hoặc trung tâm giao dịch
chứng khoán, giá cả của chúng cũng được công bố thường xuyên trên các
webside của các công ty chứng khoán, các công ty môi giới OTC hoặc các
báo tài chính hàng đầu của thị trường.
Công ty chứng khoán còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên
thị trường (market maker) góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định
của các nước, các công ty chứng khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ vốn và
chứng khoán nhất định để mua chứng khoán vào khi giá thị trường xuống thấp
và bán ra khi giá thị trường lên cao. Nghiệp vụ này mang tính chất điều tiết
5
5
6
nhằm giúp giá cả của chứng khoán ở mức tương đối ổn định trong một thời
gian nhất định và nhà đầu tư có đủ thời gian để phân tích nhận định.
1.1.3.3. Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển ra tiền mặt
Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng

khoán vì chứng khoán có giá và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn
định (nghĩa là tính lỏng của chứng khoán càng cao càng tốt, dễ dàng chuyển
chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại). Các công ty chứng khoán đảm
nhận được chức năng chuyển đổi này thông qua nghiệp vụ môi giới chứng
khoán. Chẳng hạn trong hầu hết các thương vụ đầu tư chứng khoán niêm yết
và OTC ngày nay một nhà đầu tư hàng ngày có thể chuyển đổi tiền mặt thành
chứng khoán và ngược lại.
1.1.3.4. Thực hiện tư vấn đầu tư:
Các công ty chứng khoán có đầy đủ dịch vụ không chỉ thực hiện các mệnh
lệnh đầu tư của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác
nhau thông qua việc nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho
các công ty, các quỹ đầu tư và cho các cá nhân đầu tư.
Ngày nay bộ phận tư vấn đầu tư có vai trò quan trọng trong các công ty
chứng khoán. Trên cơ sở dữ liệu cập nhật của mình bộ phận tư vấn đầu tư và
phòng phân tích của công ty chứng khoán phân tích tình hình doanh nghiệp và
diễn biến thị trường cung cấp miễn phí hoặc bán các thông tin này cho nhà
đầu tư để họ có thể ra quyết định mua bán dễ dàng hơn.
1.1.3.5. Tạo ra các sản phẩm mới:
Nhiều năm gần đây thị trường chứng khoán đã phát triển rất nhanh cả về số
lượng và chủng loại chứng khoán. Điều này do một số nguyên nhân trong đó
có yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường này càng lớn, nhận
thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính thêm vào đó là
sự nỗ lực trong việc tiếp thị của các công ty chứng khoán.
Ngoài cổ phiếu và trái phiếu đã được biết đến các công ty chứng khoán
thông qua nghiệp vụ đại lý phát hành hoặc bảo lãnh phát hành và môi giới còn
6
6
7
giao dịch trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu công ty hoặc trái phiếu chuyển
đổi, chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn và

các sản phẩm lai tạo đa dạng khác phù hợp với thay đổi của thị trường và nền
kinh tế. Cung cấp cho khách hàng các dịch vụ luân chuyển vốn nhanh như
ứng trước tiền bán chứng khoán hoặc nâng số vốn đầu tư qua hình thức repo
chứng khoán hoặc cầm cố chứng khoán cho khách hàng thông qua việc liên
kết với các tổ chức trung gian tài chính khác như ngân hàng thương mại.
1.1.4. Mô hình công ty chứng khoán
Hoạt động công ty chứng khoán rất đa dạng và phức tạp,khác hẳn với với
các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường vì công ty chứng
khoán là một loại hình định chế tài chính đặc biệt. Mô hình tổ chức kinh
doanh của công ty chứng khoán ở mỗi nước đều có những đặc điểm riêng tuỳ
theo đặc điểm của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của những người
làm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên có thể khái quát thành hai mô hình
cơ bản hiện nay là:
1.1.4.1 Mô hình kinh doanh đa năng chứng khoán và tiền tệ
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ
thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này
chia thành hai loại:
- Loại đa năng một phần: Các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty độc lập tách rời.
Hiện nay ở Việt Nam các Ngân hàng thương mại quốc doanh thường theo
mô hình này. Họ thành lập các công ty chứng khoán trách nhiệm hữu hạn một
thành viên 100% vốn của ngân hàng. Điển hình là có Công ty TNHH Chứng
khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam, Công ty TNHH chứng khoán Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Công ty TNHH Chứng
khoán Ngân hàng Đầu tư Việt Nam…
- Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ.
7
7
8

Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực
kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả
năng chịu đựng các biến động của thị trường chứng khoán. Mặt khác, ngân
hàng sẽ tận dụng được thế mạnh chuyên môn và vốn để kinh doanh chứng
khoán.
Nhược điểm: không phát triển được thị trường cổ phiếu vì các ngân hàng
có xu hướng bảo thủ và thích hoạt động cho vay hơn là bảo lãnh phát hành cổ
phiếu, trái phiếu. Đồng thời, các ngân hàng cũng rất dễ gây lũng đoạn thị
trường và các biến động trên thị trường chứng khoán, nếu có, sẽ ảnh hưởng
mạnh tới hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng do không tách bạch giữa
hai loại hình kinh doanh này.
Do nhược điểm lớn như vậy trên thế giới hiện nay chỉ có Đức thực hiện
theo mô hình ngân hàng đa năng hoàn toàn, hầu hết các nước còn lại đều thực
hiện mô hình ngân hàng đa năng một phần hoặc chuyên doanh hoạt động kinh
doanh ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán.
1.1.4.2. Mô hình chuyên doanh chứng khoán
Theo mô hình này hoạt động chuyên doanh chứng khoán sẽ do các công ty
độc lập chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng
không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là:
- Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng
- Tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển.
Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước, đáng chú ý là Mỹ, Nhật Bản,
Canada, Hàn Quốc…
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các nước này có xu hướng xoá bỏ dần
rào cản ngăn cách giữa hai loại hình kinh doanh (tiền tệ và chứng khoán).
Ngày nay, các công ty chứng khoán lớn đã mở rộng kinh doanh cả trong lĩnh
vực bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ.
1.1.4.3. Tổ chức của công ty chứng khoán:
8

8
9
Các loại hình tổ chức công ty chứng khoán cơ bản là công ty hợp danh,
công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Công ty chứng khoán lại hình Công ty hợp danh
- Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên
- Thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định quản lý được gọi là
thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn,
tức là phải chịu trách nhiệm với những khoản nợ của công ty hợp danh bằng
toàn bộ tài sản của mình. Ngược lại, các thành viên không tham gia điều hành
công ty gọi là các thành viên góp vốn, họ chỉ chịu trách nhiệm với những
khoản nợ của công ty giới hạn trong số vốn góp của họ.
- Thông thường khả năng huy động vốn của công hợp danh bị giới hạn
trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp.
Hiện nay tại Việt Nam không có công ty chứng khoán nào được thành lập
theo kiểu công ty hợp danh. Trong Luật Doanh nghiệp có quy định rõ công ty
chứng khoán được thành lập dưới hai hình thức là công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc công ty cổ phần.
Công ty chứng khoán loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn:
- Đây là loại hình công ty đòi hỏi trách nhiệm của những thành viên giới
hạn trong số vốn mà họ đã góp. Vì thế điều này gây tâm lý nhẹ nhàng cho các
nhà đầu tư
- Mặt khác về phương diện huy động vốn cũng đơn giản và linh hoạt hơn
so với công ty hợp danh. Đồng thời, vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng năng
động hơn không bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh.
Vì những lý do đó rất nhiều công ty chứng khoán hiện nay hoạt động dưới
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
Tuy nhiên loại hình công ty này cũng có những hạn chế nhất định như số
thành viên góp vốn không thể gia tăng quá lớn (do không thể phát hành cổ
phiếu) do đó sẽ gặp phải khó khăn khi cần tăng vốn lớn khi các thành viên có

tiềm lực tài chính không đủ mạnh.
9
9
10
Ở Việt Nam có rất nhiều các công ty chứng khoán là TNHH một thành
viên với 100% vốn góp từ các ngân hàng thương mại có tiềm lực tài chính
hùng mạnh dồi dào. Ngày nay cũng đang có xu thế chuyển dịch dần cổ phần
hóa chuyển thành các công ty chứng khoán cổ phần.
Công ty chứng khoán loại hình Công ty cổ phần
- Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với các chủ sở hữu là các cổ
đông.
- Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị. Hội đồng quản
trị sẽ định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức
danh quản lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề
ra.
- Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện một món nợ của công ty, mà
thể hiện quyền lợi của người sở hữu nó đối với tài sản công ty.
- Công ty vẫn tồn tại khi quyền sở hữu của công ty bị thay đổi.
Các ưu điểm của công ty cổ phần:
- Đây là một loại hình công ty tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc
thay đổi cổ đông hoặc cổ đông nghỉ hưu hay qua đời.
- Rủi ro chủ sở hữu công ty phải chịu được hạn chế ở mức nhất định. Nếu
công ty bị thua lỗ và phá sản, cổ đông chỉ thiệt hại ở mức vốn đã đầu tư vào
công ty.
- Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua – bán cổ
phiếu.
- Ngoài ra, đối với công ty chứng khoán, nếu được tổ chức theo hình thức
công ty cổ phần và được niêm yết tại sở giao dịch thì coi như họ được quảng
cáo miễn phí.
- Hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và công bố thông tin tốt hơn

hai hình thức trên.
10
10
11
Do các ưu điểm nêu trên, ngày nay công ty chứng khoán chủ yếu tồn tại
dưới hình thức công ty cổ phần, thậm trí nhiều nước còn quy định công ty
chứng khoán bắt buộc phải là công ty cổ phần.
Các công ty chứng khoán cũng là một loại hình công ty nhưng do họat
động nghiệp vụ của nó đặc biệt khác với các công ty sản xuất hay thương mại
nói chung nên về mặt tổ chức của chúng cũng có nhiều khác biệt. Các công ty
chứng khoán ở các nước hay trong cùng một nước vẫn được tổ chức khác
nhau tùy thuộc vào tính chất công việc của mỗi công ty hay mức độ phát triển
của thị trường. Tuy nhiên, chúng vấn còn có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Chuyên môn hóa và phân cấp quản lý
Các công ty chứng khoán chuyên môn hóa ở mức cao trong từng bộ phận,
từng phòng ban, từng đơn vị kinh doanh nhỏ.
Do chuyên môn hóa cao độ dẫn đến phân cấp quản lý và làm nảy sinh có
quyền tự quyết.
Một số bộ phận trong công ty chứng khoán nhiều khi không quá phụ thuộc
lẫn nhau như bộ phận môi giới - bộ phận tự doanh hay bảo lãnh phát hành.
- Nhân tố con người:
Nói chung, trong công ty chứng khoán, quan hệ với khách hàng có tầm
quan trọng số một. Sản phẩm càng trừu tượng thì con người càng quan trọng.
Khác với các công ty sản xuất, trong công ty chứng khoán,việc thăng tiến
cất nhắc lên vị trí cao hơn không quá quan trọng.
Các chức vụ quản lý hay giám đốc công ty chứng khoán còn có thể nhận
được thù lao ít hơn so với một số nhân viên cấp dưới. Ví dụ các chuyên gia
phân tích kinh tế, phân tích thị trường…
- Ảnh hưởng của thị trường tài chính:
Thị trường tài chính nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh

hưởng lớn tới chuyên môn, sản phẩm dịch vụ và khả năng thu lợi nhuận của
các công ty chứng khoán. Thị trường chứng khoán càng phát triển thì càng có
11
11
12
khả năng tạo thêm các công cụ tài chính và đa dạng hóa dịch vụ, qua đó có
thêm các cơ hội thu lợi nhuận. Với mức độ phát triển khác nhau của thị
trường, cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán cũng khác nhau để đáp ứng
những nhu cầu riêng. Công ty chứng khoán ở một số nước như Mỹ, Nhật bản
có xu hướng rất phức tạp, trong khi cơ cấu tổ chức công ty chứng khoán ở một
số nước mới có thị trường chứng khoán như Đông Âu và Trung Quốc đơn
giản hơn nhiều.
- Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán:
Cơ cấu tổ chức công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ
chứng khoán mà công ty thực hiện cũng như quy mô họat động kinh doanh
chứng khoán của nó. Tuy nhiên, chúng đều có những đặc điểm chung là hệ
thống phòng ban chức năng được chia ra làm hai khối tương ứng với hai khối
công việc mà công ty chứng khoán đảm nhận
Khối I (front office): Do một phó giám đốc trực tiếp phụ trách, thực hiện
các giao dịch mua bán kinh doanh chứng khoán, nói chung là có liên hệ với
khách hàng. Khối này đem lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng nhu
cầu của khách hàng và tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu đó.
Trong khối này, ứng với một nghiệp vụ chứng khoán cụ thể, công ty có thể
tổ chức một phòng để thực hiện. Vì vậy công ty thực hiện bao nhiêu nghiệp vụ
sẽ có thể có từng ấy phòng và nếu công ty chứng khoán chỉ thực hiện một
nghiệp vụ, có thể sẽ chỉ có một phòng trực thuộc khối này. Riêng phòng thanh
toán và lưu trữ chứng khoán thì mọi công ty chứng khoán phải có và có thể ở
khối I do nó trực tiếp liên hệ với khách hàng. Sơ đồ sau:
Phó giám đốc điều hành khối 1
Phòng Môi giới

Phòng Tự doanh
(kinh doanh)
Phòng Bảo lãnh phát hành
Phòng tư vấn đầu tư
12
12
13
Phòng Quản lý quỹ đầu tư
Phòng tư vấn tài chính công ty
Phòng thanh toán và lưu giữ chứng khoán
Phòng quản lý thu nhập chứng khoán
Phòng ủy quyền
Phòng cho vay chứng khoán

Tuy vậy, tùy theo từng quy mô nghiệp vụ mà mức độ chú trọng vào các
nghiệp vụ khác nhau mà công ty có lợi thế, công ty chứng khoán có thể kết
hợp một số nghiệp vụ vào một phòng (ví dụ phòng nghiên cứu phân tích với
phòng tư vấn hay bảo lãnh phát hành); hoặc có thể chia nhỏ các phòng ra
thành nhiều tổ do khâu đoạn phức tạp (như phòng giao dịch có thể tách thành
tổ marketting và tổ thực hiện lệnh).
Khối II (back office): cũng do một phó giám đốc phụ trách thực hiện các
công việc yểm trợ cho khối I.
Phó giám đốc điều hành khối 2
Phòng hành chính và tổ chức
Phòng thông tin và phân tích chứng khoán
Phòng ngân quỹ
Phòng Kế toán
Phòng ký quỹ (quản lý tài sản vay mua)
Phòng hoạch toán tín dụng
Phòng Kế hoạch kinh doanh

Phòng phát triển sản phẩm mới
Phòng tin học – công nghệ thông tin
Phòng pháp chế
Phòng nghiên cứu và phát triển
Nói chung, bất kỳ một nghiệp vụ nào ở khối I cũng cần có sự trợ giúp của
các phòng ban thuộc khối II. Sơ đồ
13
13
14
Ngoài sự phân biệt rõ ràng hai khối như vậy, công ty chứng khoán còn có
thể có thêm một số phòng ban khác như phòng cấp vốn, phòng tín dụng… nếu
công ty này được thực hiện các nghiệp vụ mang tính chất ngân hàng.
Đối với các công ty chứng khoán lớn, còn có thêm chi nhánh văn phòng ở
các địa phương hoặc các nước khác nhau hoặc có thêm phòng quan hệ quốc
tế.
Để thuận tiện cho việc quan hệ khách hàng, mạng lưới chi nhánh của một
công ty chứng khoán thường gồm văn phòng trung tâm và các chi nhánh hoặc
văn phòng đại diện tại các địa phương, khu cần thiết. Cũng có thể công ty
chứng khoán ủy thác cho một ngân hàng thương mại ở địa phương hướng dẫn
và nhận các lệnh đặt hàng mua bán chứng khoán của khách hàng.
Mạng lưới tổ chức một công ty chứng khoán
Nhà đầu tư
Quỹ đầu tư
Quỹ bảo hiểm
Quỹ xã hội
Doanh nghiệp
Chính phủ và chính quyền địa phương
Chi nhánh cty chứng khoán
Phòng giao dịch
Văn phòng đại diện ctychứng khoán

Công ty chứng khoán
Tổng hợp lệnh đặt hàng
Môi giới sàn giao dịch
14
14
15
1.2. CÁC NGHIỆP VỤ CHỦ YẾU CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
Ngày nay các công ty chứng khoán phát triển rất nhiều các sản phẩm dịch
vụ phù hợp với sự phát triển của thị trường và nền kinh tế. Tựu chung lại các
sản phẩm dịch vụ này đều được phát triển từ các nghiệp vụ cơ bản của công ty
chứng khoán đó là:
- Nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
- Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán.
- Nghiệp vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp.
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán.
- Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán.
1.2.1. Khái niệm, chức năng và những nét đặc trưng các nghiệp vụ chủ
yếu của công ty chứng khoán:
1.2.1.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng
khoán cho khách hàng để hưởng phí. Theo đó, CTCK đại diện cho khách hàng
tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường
OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của
mình.
15
15
16
Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng sản
phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với
nhà đầu tư mua chứng khoán và trong những trường hợp nhất định, hoạt động

môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa
ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư giúp nhà đầu tư có những
quyết định tỉnh táo.
Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất
đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và với thái độ công tâm, cung cấp
cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Người hành nghề kinh doanh chứng
khoán không được xúi giục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm phí
hoa hồng, mà nên đưa ra những lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp
nhất về thiệt hại cho khách hàng.
* Tư vấn đầu tư chứng khoán
Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn chứng khoán là việc Công ty
chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân
tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác có liên
quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính có khách hàng.
Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau:
- Theo hình thức của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gỡ
khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại) và tư vấn gián tiếp
(thông qua các ấn phẩm, sách báo) để tư vấn cho khách hàng.
- Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho khách
hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và
tư vấn uỷ quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, uỷ quyền thực
hiện của khách hàng).
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn:
Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, để kinh doanh
nhằm đem lại lợi nhuận (hiệu quả) cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi hết sức
thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời
16
16
17
khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá

sản, còn người tư vấn thu về cho mình khuản thu phí về dịch vụ tư vấn (bất kể
tư vấn đó thành công hay không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi phải tuân thủ một
số nguyên tắc cơ bản sau:
- Không đảm bảo chắc chắn về giá trị CK: giá trị CK không phải là một số
cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn
của thị trường.
- Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên cơ sở
phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có thể là
không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng trong
việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu
trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra.
- Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại CK nào
đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá
trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu.
1.2.1.2. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán
cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện
thông qua cơ chế giao dịch trên SGDCK hoặc thị trường OTC. Tại một số thị
trường vận hành theo cơ chế khớp giá hoạt động tự doanh của CTCK được
thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này CTCK đóng vai trò
quan trọng là một nhà tạo lập thị trường nắm giữ một số lượng chứng khoán
nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với
các khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Mục đích của hoạt động nghiệp vụ tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho
chính công ty thông qua hành vi mua bán chứng khoán với khách hàng.
Nghiệp vụ này hoạt động song song với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh
giao dịch cho khách hàng, đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy
trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao
dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước
17

17
18
đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, CTCK
phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình.
Thậm chí ở một số nước còn quy định có hai loại hình CTCK là công ty môi
giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và công ty chứng khoán có chức
năng tự doanh.
Khác với nghiệp vụ môi giới, CTCK chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho
khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh công ty chứng
khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy CTCK đòi hỏi
phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả
năng phân tích và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong
trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
Yêu cầu đối với Công ty chứng khoán :
- Cần phải tách biệt quản lý giữa nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh
bạch rõ ràng trong hoạt động, sự tách bạch này bao gồm tách bạch về yếu tố
con người, quy trình nghiệp vụ, vốn tài sản của khách hàng và tài sản của
công ty.
- Ưu tiên khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh, có nghĩa là lệnh
giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty.
Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong quá trình giao
dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ
động trên thị trường nên các CTCK có thể sẽ dự đoán được diễn biến của thị
trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc
trên.
- Góp phần bình ổn thị trường, Các CTCK hoạt động tự doanh nhằm mục
đích ổn định giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh
được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các nước đều quy định các
CTCK phải dành một tỷ lệ phần trăm nhất định các giao dịch của mình cho
hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó các CTCK có nghĩa vụ mua vào khi giá

chứng khoán bị giảm và bán ra khi giá chứng khoán lên nhằm mục đích giữ
giá chứng khoán ổn định.
18
18
19
- Hoạt động tạo lập thị trường, Khi được phát hành, các chứng khoán mới
chưa có thị trường giao dịch. Để tạo thị trường cho các chứng khoán này các
CTCK thực hiện tự doanh thông qua mua và bán chứng khoán, tạo tính thanh
khoản trên thị trường cấp hai. Trên những thị trường chứng khoán phát triển,
các nhà tạo lập thị trường sử dụng nghiệp vụ mua bán chứng khoán trên thị
trường OTC để tạo thị trường. Theo đó họ liên tục có những báo giá để mua
hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như vậy họ
sẽ duy trì một thị trường liên tục đối với chứng khoán mà họ kinh doanh.
Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh.
Giao dịch gián tiếp: CTCK đặt các lệnh mua và bán chứng khoán trên
SGDCK, lệnh của họ có thể được thực hiện với bất kỳ khách hàng nào không
được xác định trước.
Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch tay đôi giữa hai công ty chứng khoán hay
giữa CTCK với một khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của các
giao dịch trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao dịch ở thị trường
OTC.
1.2.1.3. Nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng, đòi
hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các công ty chứng khoán tư vấn cho đợt
phát hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây
chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán và là
nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của công ty
chứng khoán.
Như vậy, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc công ty chứng khoán có
chức năng bảo lãnh (sau đây gọi tắt là tổ chức bảo lãnh - TCBL) giúp tổ chức

phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc
phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu
sau khi phát hành. Trên thị trường chứng khoán, tổ chức bảo lãnh phát hành
không chỉ có công ty chứng khoán mà còn bao gồm các định chế tài chính
khác như ngân hàng đầu tư, nhưng thông thường việc công ty chứng khoán
19
19
20
nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn
các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập
tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các
công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên khác.
Khi một tổ chức muốn phát hành Chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu bảo
lãnh phát hành đến Công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán có thể sẽ ký
một hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng
khoán cần phát hành, số lượng chứng khoán cần phát hành, định giá chứng
khoán và phương thức phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư thích hợp.
Để được phép bảo lãnh phát hành, Công ty chứng khoán phải đệ trình một
phương án bán và cam kết bảo lãnh lên Uỷ ban Chứng khoán. Khi các nội
dung cơ bản của phương án phát hành được Uỷ ban Chứng khoán thông qua.
Công ty chứng khoán có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh hoặc thành lập
nghiệp đoàn bảo lãnh để ký hợp đồng giữa nghiệp đoàn và tổ chức phát hành.
Khi Uỷ ban Chứng khoán cho phép phát hành Chứng khoán và đến thời
hạn giấy phép phát hành có hiệu lực, Công ty chứng khoán (hoặc nghiệp đoàn
bảo lãnh) thực hiện phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối Chứng
khoán chủ yếu là:
- Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm,
quỹ hưu trí.
- Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ
với tổ chức phát hành.

- Bán rộng rãi ra công chúng.
Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền
bán Chứng khoán cho tổ chức phát hành. Số tiền phải thanh toán là giá trị
chứng khoán phát hành trừ đi chi phí bảo lãnh.
1.2.1.4. Nghiệp vụ Tư vấn tài chính Doanh nghiệp
20
20
21
Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình tài chính doanh nghiệp để đề xuất
các giải pháp tối ưu làm lành mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính
của doanh nghiệp.
Tiện ích:
Lành mạnh hóa tình hình tài chính doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp.
Tư vấn cổ phần hóa:
Tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện quá trình cổ phần hóa.
Tiện ích:
Đảm bảo cho quá trình cổ phần hóa của doanh nghiệp triển khai thực
hiện đồng bộ, hiệu quả khách quan, minh bạch, phù hợp với quy định, chỉ
đạo của các bộ, ban ngành.
Tiết kiệm thời gian thực hiện.
Chi phí cổ phần hóa hợp lý.
Tư vấn phát hành:
Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng phương án phát hành, thực hiện các thủ
tục phát hành cổ phiếu, trái phiếu theo quy định của pháp luật.
Tiện ích:
Huy động vốn cho hoạt động đầu tư phát triển của doanh nghiệp
Lựa chọn phương án phát hành tối ưu nhất.
Tư vấn niêm yết:
Hỗ trợ doanh nghiệp các thực hiện các thủ tục để niêm yết cổ phiếu tại

Sở giao dịch và Trung tâm giao dịch.
Tiện ích:
Nâng cao vị thế của doanh nghiệp.
Tạo tính thanh khoản cho cổ phiểu của công ty.
21
21
22
Tư vấn chuyển đổi mô hình hoạt động của doanh nghiệp:
Cung cấp dịch vụ tư vấn chuyển đổi mô hình hoạt động doanh nghiệp
bao gồm xây dựng lộ trình chuyển đổi, thực hiện các tác nghiệp liên quan
đến thủ tục chuyển đổi theo quy định của Pháp luật.
Tư vấn chia tách, sáp nhập doanh nghiệp:
Cung cấp dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sáp
nhập, mua bán doanh nghiệp. Với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm và
chuyên nghiệp, chúng tôi sẽ cùng với các doanh nghiệp hoàn thiện việc mua
bán và sáp nhập một cách thành công, hiệu quả và nhanh chóng
Tư vấn tìm kiếm đối tác chiến lược và đàm phán ký kết hợp đồng:
Tìm kiếm và lựa chọn các đối tác phù hợp với nhu cầu và định hướng
phát triển của khách hàng. Hỗ trợ khách hàng đàm phán các điều kiện, điều
khoản của hợp đồng nhằm mang lại hiệu quả tối ưu nhất trong công việc.
Tư vấn đầu tư tài chính:
Cung cấp thông tin và các phân tích mang tính chuyên nghiệp các cổ
phiếu niêm yết, các cổ phiểu OTC, các lĩnh vực ngành nghề… là cơ sở để
khách hàng lựa chọn danh mục đầu tư tối ưu.
Tiện ích:
Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư.
Tiết kiệm thời gian và chi phí nghiên cứu.
Tư vấn thẩm định dự án:
Đánh giá tính khả thi của dự án đầu tư gồm các vấn đề về pháp lý, nguồn
nhân lực, nguồn vốn, cơ cấu vốn, vận hành hoạt động, phân tích hiệu quả tài

chính… và tiến tới thu xếp vốn cho hoạt động đầu tư của dự án.
Tiện ích:
Đánh giá cơ hội đầu tư của doanh nghiệp.
Có quyết định đúng đắn nhất với dự án của mình.
22
22
23
Cơ hội tìm kiếm được nguồn vốn đầu tư với chi phí thấp.
Tư vấn khác:
Các dịch vụ tư vấn khác liên quan đến phạm vi hoạt động của công ty.
1.2.1.5. Nghiệp vụ Lưu ký chứng khoán
Lưu ký CK là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông
qua các tài khoản lưu ký CK. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch CK,
bởi vì giao dịch CK trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ,
khách hàng phải mở tài khoản lưu ký CK tại các công ty chứng khoán hoặc ký
gửi các chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách
hàng, công ty chứng khoán sẽ nhận được các khoản phí lưu ký chứng khoán,
phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán.
Quản lý thu nhập của khách hàng
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng
khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm
dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của
khách hàng.
Hoạt động tín dụng
Đối với các thị trường chứng khoán phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, công ty chứng khoán còn
triển khai hoạt động cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch
bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ
mua ký quỹ.
Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho

khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó
làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số
còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thỏa
thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số vốn gốc vay cùng với lãi cho công ty
chứng khoán. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, thì công ty sẽ phát
mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ.
23
23
24
Hoạt động quản lý quỹ
Ở một số thị trường chứng khoán, pháp luật chứng khoán về thị trường
chứng khoán còn cho phép công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ
quản lý quỹ đầu tư. Theo đó công ty chứng khoán cử đại diện của mình để
quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng
khoán. Công ty chứng khoán được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
1.3. PHÁT TRIỂN CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CK
1.3.1. Quan niệm phát triển các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty chứng
khoán
Trên quan điểm phát triển, phát triển kinh doanh trong công ty chứng
khoán cũng đi vào hai hướng chính là phát triển chiều rộng và chiều sâu của
các nghiệp vụ kinh doanh chính đó là Môi giới, đầu tư, tư vấn, bảo lãnh phát
hành.
Phát triển chiều rộng là triển khai các nghiệp vụ kinh doanh mới đem lại
nguồn thu riêng biệt (doanh số mới) cho công ty chứng khoán.
Phát triển chiều sâu là hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh đã có, triển
khai thêm các dịch vụ mới có thể gia tăng doanh số cho nghiệp vụ kinh doanh.
Công ty chứng khoán là một loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực tài chính trong đó có khá nhiều sản phẩm kinh doanh mang tính chất dịch
vụ vì thế một trong những quan niệm phát triển kinh doanh có xu hướng tìm
kiếm những ý tưởng mới, sản phẩm dịch vụ mới chuyên nghiệp hơn, thay thế

hoặc bổ trợ tốt hơn cho sản phẩm cũ.
Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư - tự doanh là một nghiệp vụ khá đặc biệt và
không mang tính dịch vụ duy nhất trong công ty chứng khoán. Một công ty
chứng khoán phát triển tốt được nghiệp vụ đầu tư là tạo dựng được một danh
mục đầu tư hiệu quả có thể sinh ra đột phá cho doanh nghiệp trong tương lai.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển các nghiệp vụ kinh doanh của
công ty chứng khoán
24
24
25
Các công ty chứng khoán phát triển rất nhiều các sản phẩm dịch vụ. Các
sản phẩm dịch vụ này đều được phát triển từ các nghiệp vụ cơ bản của công ty
chứng khoán đó là:
- Nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
- Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
- Nghiệp vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp.
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán.
1.3.2.1. Chỉ tiêu phát triển số lượng dịch vụ trong các nghiệp vụ kinh doanh
1.3.2.1.1. Chỉ tiêu phát triển số lượng dịch vụ trong Nghiệp vụ môi giới
1/ Giao dịch tại sàn: Công ty chứng khoán làm trung gian giúp khách
hàng mua – bán các loại chứng khoán đang niêm yết ở trung tâm giao dịch
Đây là dịch vụ cơ bản của nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
2/ Giao dịch từ xa: Có 3 loại hình giao dịch từ xa chính đó là:
+ Giao dịch và tra cứu dịch vụ qua Internet
+ Giao dịch và tra cứu dịch vụ qua điện thoại.
+ Giao dịch và tra cứu thông tin qua tin nhắn SMS…
3/ Đại lý đấu giá cấp 2: Công ty chứng khoán làm đại lý đấu giá cấp 2
cho trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch Chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh.
4/ Tổ chức đấu giá: Công ty chứng khoán tổ chức đấu giá cho Doanh

nghiệp cổ phần hóa, bán bớt phần vốn nhà nước hoặc đấu giá phát hành ra bên
ngoài…
5/ Cầm cố cổ phiếu: Công ty chứng khoán kết hợp với tổ chức trung
gian tài chính thực hiện cầm cố các cổ phiếu niêm yết của khách hàng.
6/ REPO cổ phiếu: Công ty chứng khoán mua các chứng khoán chưa
niêm yết với cam kết sẽ bán lại chứng khoán đó cho khách hàng trong tương
25
25

×