Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Thực trạng báo cáo tài chính và tình hình tài chính của công ty tnhh xuyên thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.81 KB, 89 trang )


Ch ương 1
Lý luận chung về báo cáo tài chính và phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp
1.1. Lý luận chung về báo cáo tài chính.
1.1.1.Khái niệm, phân loại báo cáo tài chính
1.1.1.1.Khái niệm
Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản,nguồn
vốn chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết qủa kinh doanh trong
kì của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, báo cáo tài chính cũng là phương tiện
trình bày khả năng sinh lời và thực trạng tài chính của doanh nghiệp cho những
người quan tâm như: chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, người cho vay, cơ quan thuế,
và các cơ quan chức năng…..
1.1.1.2. Phân loại báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính có nhiều loại, tuy nhiên để cho việc lập, quản lý và sử dụng
báo cáo tài chính được thuận tiện và mang tính khoa học có thể chia thành 2 loại:
-Báo cáo tài chính bắt buộc: Báo cáo bắt buộc là những báo cáo mà mọi doanh
nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu va quy mô doanh nghiệp đều phải lập và
gửi theo định kì. -Theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp phải lập 3 báo cáo
bắt buộc sau:
+Bảng cân đối kế toán.
+Báo cáo kết quả kinh doanh
+Thuyết minh báo cáo tài chính
-Báo cáo hướng dẫn: Báo cáo hướng dẫn là những báo cáo không mang tính bắt
buộc mà chỉ mang tính hướng dẫn. Theo quy định hiện hành các doanh nghiệp có
lập một báo cáo mang tính hướng dẫn là “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ”. Từng
1

doanh nghiệp tuỳ thuộc vào nhu cầu thông tin, trình độ quản lý và trình độ kế toán
của mình để quyết định việc lập hay không lập những báo cáo này.
1.1.2. Ý nghĩa, mục đích của việc lập báo cáo tài chính


1.1.2.1.ý nghĩa của việc lập báo cáo tài chính
Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của công cụ quản lý kinh
tế tài chính, đồng thời có vai trò tích cực trong việc điều hành và kiểm tra các hoạt
động kinh tế. Báo cáo tài chính là một trong những sản phẩm tiêu biểu thể hiện tầm
quan trọng của hệ thống kế toán. Báo cáo tài chính là thông tin cần thiết cho ban
lãnh đạo doanh nghiệp, cho người vay, cơ quan thuế và các cơ quan chức năng , cụ
thể:
a) Đối với doanh nghiệp:
Cơ chế thị trường ra đời đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại thì phải bắt
nguồn từ thị trường, các quyết định sản xuất kinh doanh đều phải căn cứ vào sự
biến động của thị trường, đồng thời phải tuân theơ những quy luật tất yếu của nó.
Cùng với sự nhận thức, lãnh đạo doanh nghiệp phải biết điều chỉnh hoạt động sản
xuất dựa trên những năng lực của mình sao cho phù hợp với cơ chế mới. Báo cáo
tài chính là cơ sở để doanh nghiệp hiện có và tìm ra những tiềm năng có thể phát
huy vào kì kinh doanh tới.
b) Đối với nhà đầu tư:
Nhà đầu tư là người quan tâm trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp mà cụ
thể là lợi nhuận. Thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính mà nhà đầu tư nhận
thấy thực trạng tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở các chỉ số sinh lời để từ đó ra
quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp đó hay không.
2

c) Đối với người cho vay:
Giống như nhà đầu tư, những người cho vay cũng cần thông tin cần thiết về
doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho việc hoàn trả vốn của người được vay. Chính vì
vậy trước khi kí kết một hợp đồng cho vay thì ngân hàng hay các tổ chức tín
dụng… đều phải xem xét các chỉ số đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Báo
cáo tài chính là căn cứ quan trọng để người cho vay ra quyết định phù hợp.
d) Đối với cơ quan thuế và các cơ quan chức năng:
Đối với cơ quan thuế và các cơ quan chức năng thì báo cáo tài chính là 1 bức

tranh toàn cảnh về doanh nghiệp mà mình quản lí. Từ đó thấy được nghĩa vụ và
trách nhiệm của doanh nghiệp đối với Nhà nước như thế nào, đồng thời giúp các cơ
quan quản lí đưa ra các chính sách hợp lí nhằm phát triển doanh nghiệp.
Như vậy, thông qua các phân tích trên, báo cáo tài chính là 1 tài liệu vô cùng
quan trọng không chỉ đối với nhà quản trị doanh nghiệp và các đối tượng khác mà
nó còn làm cho hoạt động tài chính ngày càng phát triển.
1.1.2.2.Mục đích của việc lập báo cáo tài chính, thời hạn lập báo cáo tài chính.
a) Mục đích của việc lập báo cáo tài chính:
- Tổng hợp và trình bày 1 cách tổng quát toàn diện tình hình tài sản nguồn vốn,
công nợ, tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trong một kì kế toán.
- Cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu cho việc đánh giá tình hình và
kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá thực trạng tài chính của doanh
nghiệp trong kì hoạt động đã qua và dự đoán trong tương lai. Thông tin của báo
cáo tài chính là căn cứ quan trọng trong việc ra quyết định về quản lý điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào doanh nghiệp của các chủ doanh
nghiệp, chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh
nghiệp.
3

b) Thời hạn lập báo cáo tài chính:
Để giúp các cơ quan chức năng Nhà nước quản lý sự hoạt động của doanh
nghiệp hiệu quản hơn, Bộ tài chính đã ra quyết định về thời hạn lập và gửi báo cáo
tài chính:
Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp phải lập vào cuối quý cuối năm tài chính
cho các cơ quan quản lý Nhà nước và cho doanh nghiệp cấp trên theo quy định.
Trường hợp có công ty con thì phải gửi kèm theo bản sao tài chính cùng quý, cùng
năm của công ty con. Thời hạn lập và gửi báo cáo tài chính giữa các doanh nghiệp
hạch toán độc lập, các công ty con thuộc tổng công ty và các tổng công ty có sự
khác biệt nhau. Chẳng hạn, đối với báo cáo tài chính quý thì thời hạn gửi chậm

nhất là 20 ngày áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập và các
công ty con thuộc tổng công ty, là 45 ngày đối với tổng công ty kể từ ngày kết thúc
quý. Đối với báo cáo tài chính năm thì thời hạn gửi chậm nhất áp dụng cho các
doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập và các công ty con thuộc tổng công ty,
các daonh nghiệp tư nhân và các công ty hợp danh là 30 ngày kể từ khi kết thúc
năm tài chính và thời hạn 90 ngày được áp dụng cho các công ty TNHH, các công
ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các loại hình hợp tác xã và các
tổng công ty.
Trong trường hợp các doanh nghiệp có năm tài chính không kết thúc vào ngày
31/12 hàng năm thì phải gửi báo cáo tài chính quý kết thúc vào ngày 31/12 và số
luỹ kế từ đầu năm tài chính đến hết ngày 31/12.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi loại hình doanh nghiệp mà có sự khác nhau về
nơi nhận báo cáo, cụ thể, các doanh nghiệp nhà nước phải gửi báo cáo tài chính cho
5 cơ quan quản lý Nhà nước là: cơ quan tài chính, cơ quan thuế, cục thống kê,
doanh nghiệp cấp trên và các cơ quan đăng kí kinh doanh, còn các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài không phải gửi cho các doanh nghiệp cấp trên, trong khi đó
các loại hình doanh nghiệp khác thì phải thì phải gửi cho cơ quan đăng ký kinh
doanh.
4

Tất cả các doanh nghiệp phải lập và gửi báo cáo tài chính theo đúng quy định
này. Riêng báo cáo lưu chuyển tiền tệ tạm thời chưa quy định là báo cáo bắt buộc
phải lập và gửi nhưng khuyến khích các doanh nghiệp lập và sử dụng để nâng cao
hiệu quả hoạt động tài chính.
1.1.3. Nội dung các báo cáo tài chính chủ yếu trong doanh nghiệp.
1.1.3.1. Bảng cân đối kế toán ( Mẫu B01-DN)
a) Khái niệm, mục đích của bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ tài
sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại 1 thời điểm nhất
định. Về bản chất, bảng cân đối kế toán là 1 bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với

nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Bảng cân đối kế toán là 1 tài liệu quan trọng cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có
của doanh nghiệp theo cơ cấu tài sản, nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn hình thành
tài sản đó. Căn cứ vào bảng cân đối kế toán có thể đánh giá khái quát tình hình, kết
quả kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế,tài chính của
doanh nghiệp.
b) Kết cấu và nội dung của bảng cân đối kế toán.
Bảng cân đối kế toán được chia làm 2 phần: Phần tài sản và phần nguồn vốn.
Phần tài sản: Các chỉ tiêu ở phần này phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có
của doanh nghiệptại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong
quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phần chia như sau:
A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn:
Phản ánh tổng giá trị TSLĐ và các khoản đầu tư ngắn hạn có đến thời điểm lập
báo cáo bao gồm vốn bằng tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu và
5

giá trị tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh, chi phí sự nghiệp đã chi
nhưng chưa quyết toán. Cụ thể:
I. Tiền: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ số tiền hiện có của doanh nghiệp
bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Số liệu để ghi vào các chỉ
tiêu này là số dư của các tài sản tương ứng( Tk: 111, 112, 113) trên Sổ cái.
II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị các
khoản đầu tư tài chính ngắn hạn (sau khi đã trừ đi dự phòng giảm giá) bao gồm đầu
tư chứng khoán, cho vay ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn khác. Các khoản đầu tư ngắn
hạn được phản ánh trong mục này là các khoản đầu tư có thời hạn thu hồi vốn dưới
1 năm hoặc trong 1 chu kỳ kinh doanh. Số liệu để ghi vào các chỉ tiêu này là số dư
nợ của các tài khoản 121, 128 trên Sổ cái. Riêng chỉ tiêu dự phong giảm giá đầu tư
ngắn hạn được lấy từ số dư có của Tài khoản 129 trên sổ cái và được ghi bằng số
âm dưới hình thức ghi trong dấu ngoặc đơn.
III. Các khoản phải thu: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị của các

khoản phải thu từ khách hàng,các khoản trả trước cho người bán, thuế GTGT được
khấu trừ, phải thu nội bộ, các khoản phải thu khác và dự phòng các khoản phải thu
khó đòi. Số liệu để ghi vào các chỉ tiêu này lần lượt là số dư Nợ của các tài khoản
131(mở theo từng khách hàng trên sổ kế toán chi tiết Tk 131), 331(chi tiết theo
từng đối tượng), 133, 1361, 1368, 338( mở chi tiết theo từng đối tượng phải thu
trên sổ kế toán). Riêng số liệu của chỉ tiêu dự phòng các khoản phải thu khó đòi
được lấy từ số dư Có của Tk 139 trên sổ cái và được ghi bằng số âm.
IV. Hàng tồn kho: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị các loại hàng tồn
kho dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp(sau khi đã trừ dự
phòng giảm giá hàng tồn kho) đến thời điểm báo cáo. Số liệu ghi vào các chỉ tiêu
trong mục hàng tồn kho căn cứ vào số dư Nợ của các tài khoản: 151, 152, 153, 154,
155, 156, 157 trên các Sổ cái tương ứng. Riêng số liệu chỉ tiêu dự phòng giảm giá
hàng tồn kho được lấy từ số dư Có tài khoản 159 trên Sổ cái và được ghi dưới dạng
số âm.
6

V.Tài sản lưu động khác: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị các loại TSLĐ
khác chưa được phản ánh ở các chỉ tiêu trên, bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí
trích trước, chi phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý và các tài khoản cầm cố,
ký quỹ, ký cược ngắn hạn. Sô liệu ghi vào các chỉ tiêu này lần lượt là số dư Nợ của
các tài khoản 141, 1421, 1422, 1381, 144 trên Sổ cái.
VI. Chi sự nghiệp: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tổng số dư bằng nguồn kinh phí
sự nghiệp và bằng nguồn kinh phí dự án chưa được quyết toán tại thời điểm lập báo
cáo tài chính, bao gồm chi sự nghiệp năm trước và chi sự nghiệp năm nay. Số liệu
của các chỉ tiêu này căn cứ vào số dư Nợ các tài khoản:1611, 1612 trên Sổ cái.
B.Tài sản cố định và đầu tư dài hạn:
Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị còn lại của TSCĐ, các khoản đầu tư
tài chính dài hạn, chi phí xây dựng cơ bản dở dang và các khoản ký quỹ, ký cược
của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Cụ thể:
I. Tài sản cố định: La chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ còn lại của các loại

TSCĐ tại thời điểm lập báo cáo, bao gốmTSCĐ hữu hình, TSCĐ thuê tài chính và
TSCĐ vô hình. Số liệu ghi vào chỉ tiêu bày căn cứ vào tổng số nguyên giá
TSCĐ( lấy từ số dư Nợ của các tài khoản: 211, 212, 213,trên Sổ cái) và các giá trị
hao mòn luỹ kế của tài khoản đó(được lấy từ số dư có của các tài khoản: 2141,
2142, 2143 trên Sổ cái và được ghi dưới hình thức số âm).
II. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị các
khoản đầu tư tài chính dài hạn tại thời điểm lập báo cáo như: Đầu tư chứng khoán
dài hạn , góp vôn liên doanh,cho vay dài hạn khác, dự phòng giảm giá đầu tư chúng
khoán dài hạn. Số liệu ghi vào các chỉ tiêu này căn cứ vào số dư Nợ của lần lượt
các tài khoản :221, 222, 228 trên Sổ cái. Riêng chỉ tiêu dự phòng giảm giá đầu tư
dài hạn được lấy từ số dư Có của tài khoản 229 trên Sổ cái và ghi dưới hình thức số
âm
7

III. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang: Phản ánh toàn bộ giá trị TSCĐ đang mua
sắm, chi phí đầu tư XDCB, chi phí sửa chữa lớn TSCĐ dở dang hoặc đã hoàn thành
chưa bàn giao hoặc đưa và sử dụng. Số liệu của chỉ tiêu này được lấy từ số dư Nợ
của tài khoản 241 trên Sổ cái.
IV.Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn: Là chỉ tiêu phản ánh các khoản tiền doanh
nghiệp đem đi ký quỹ, ký cược dài hạn tại thời điểm lập báo cáo.Số liệu của chỉ
tiêu này là số dư Nợ của tài khoản 244 trên Sổ cái.
Tổng cộng tài sản=TSLĐ và đầu tư ngắn hạn + TSCĐ và đầu tư dài hạn
Phần nguồn vốn:
Phản ánh nguồn hình thành vốn tại thời điểm báo cáo. Các chỉ tiêu này phản ánh
trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp.
A. Nợ phải trả:
Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh nguồn hình thành vốn hiện có của doanh nghiệp tại
thời điểm lập báo cáo.
I.Nợ ngắn hạn:
Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tổng giá trị các khoản nợ phải trả có thời hạn trả

dưới một năm hoặc 1 chu kỳ kinh doanh tại thời điểm báo cáo, bao gồm các chỉ
tiêu: Vay ngắn hạn, nợ dài hạn đến hạn trả, phải trả người bán, người mua ứng
trước, thuế và các khoản phải nộp nhà nước, phải trả công nhân viên, phải trả các
đơn vị nội bộ và các khoản phải trả phải nộp khác. Số liệu ghi vào chỉ tiêu trong
mục này là số dư của các tài khoản sau: 311, 315, 331(mở chi tiết theo từng người
bán trên sổ chi tiết tài khoản 311), 131( mở chi tiết theo từng đối tượng), 333, 334,
336, 338, 3387, 138(mở chi tiết theo từng khoản phải trả, phải nộp trên các tài
khoản thanh toán).
II.Nợ dài hạn:
8

Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tổng giá trị các khoản nợ dài hạn của doanh nghiệp
tại thời điểm báo cáo. Số liệu để ghi vào các chỉ tiêu trong mục này là số dư Có của
tài khoản 341 "vay dài hạn", 342 "nợ dài hạn" trên các Sổ cái của từng tài khoản.
B. Nguồn vốn chủ sở hữu.
Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ nguồn vốn chủ sở hữu của chủ doanh
nghiệp, các quỹ của doanh nghiệp và phần kinh phí sự nghiệp được ngân sách Nhà
nước, kinh phí quản lý do các đơn vị phụ thuộc nộp lên.
I.Nguồn vốn, quỹ:
Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ nguồn vốn thuộc chủ sở hữu của chủ
doanh nghiệp và các quỹ của doanh nghiệp, bao gồm nguồn vốn kinh doanh, quỹ
đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính....Số liệu để ghi vào các chỉ tiêu này được
lấy từ số dư Có của các tài khoản 411 "Nguồn vốn kinh doanh", 415 "Quỹ dự
phòng tài chính", 441 "Nguồn vốn đầu tư XDCB" trên Sổ cái. Riêng chỉ tiêu chênh
lệch đánh giá lại tài sản và lợi nhuận chưa phân phối được bằng số âm nếu các tài
khoản tương ứng trên Sổ cái ( 412, 413, 421) có số dư Nợ.
II. Nguồn vốn, quỹ khác:
Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tổng số kinh phí được cấp để chi tiêu cho các hoạt
động ngoài kinh doanh như: kinh phí sự nghiệp được ngân sách cấp hoặc kinh phí
do các đơn vị phụ thuộc nộp lên, đã chi tiêu nhưng chưa được quyết toán hoặc chưa

sử dụng và nguồn kinh phí đã hình thành tài sản cố định. Số liệu ghi vào các chỉ
tiêu này lấy từ số dư Có của các tài khoản: 416, 431, 451, 4611, 4612, 466 trên Sổ
cái.
Tổng cộng nguồn vốn = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu
Theo Thông tư số 89/2002/TT-BTC, có sự thay đổi vể kết cấu của Bảng cân đối
kế toán đó là bổ sung thêm tài khoản 242 " Chi phí trả trước dài hạn". Tài khoản
này dùng để phản ánh các chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có liên quan đến kết
9

quả hoạt động kinh doanh của nhiều liên độ kế toán và việc kết chuyển các tài
khoản này vào chi phí SXKD của các niên độ kế toán sau.
Ngoài các chỉ tiêu chính được lập trên Bảng cân đối kế toán, doanh nghiệp còn
lập thêm các chỉ tiêu ngoài Bảng cân đối kế toán như: tài sản thuê ngoài, vật tư
hàng hoá nhận giữ hộ, gia công , nợ khó đòi đã xử lý, ngoại tệ các loại, hạn mức
kinh phí còn lại và nguồn vốn khấu hao cơ bản hiện có.
1.1.3.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh
tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp
chi tiết theo hoạt động kinh doanh chính và hoạt động kinh doanh khác, tình hình
thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác.
Trong phần lý luận em xin được phép trình bày kết cấu và nội dung các chỉ tiêu
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo hướng dẫn trong Thông tư 89/2002/TT-
BTC của Bộ tài chính.
Báo cáo kết quả kinh doanh gồm có 3 phần:
• Phần I: Lãi, Lỗ.
• Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
• Phần III: Thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm
và thuế GTGT của hàng bán nội địa.
Phần I: Lãi, Lỗ:
Số liệu ghi vào cột 4 (kỳ trước) của phần I "Lãi, Lỗ" của báo cáo kỳ này được

căn cứ vào số liệu ghi ở cột 3 "kỳ này" của báo cáo này kỳ trước theo từng chỉ tiêu
thích hợp.
Số liệu ghi vào cột 5 (luỹ kế từ đầu năm) của phần I "Lãi, lỗ" của báo cáo kết
quả kinh doanh kỳ này được căn cứ vào số liệu ghi ở cột 5(luỹ kế từ đầu năm) của
báo cáo này kỳ trước cộng(+) với số liệu ở cột 3 (kỳ này), kết quả tình hình tài
10

chính doanh nghiệp được ghi vào cột 5 của báo cáo này kỳ này theo từng chỉ tiêu
phù hợp.
Nội dung và Phương pháp lập các chỉ tiêu ghi vào cột 3 ( kỳ này) của Phần I
"Lãi, lỗ" của báo cáo kết quả kinh doanh kỳ này như sau:
Phần 1- Lãi, Lỗ
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ( Mã số 01):
Chỉ tiêu này phản ánh tổng doanh thu bán hàng hoá, thành phẩm và cung cấp
dịch vụ trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là luỹ kế số phát sinh Có của Tài khoản 511 "Doanh
thu bán hàng và cung cấp dịch vụ" và tài khoản 512 "Doanh thu nội bộ" trong kỳ
báo cáo.
Các khoản giảm trừ( Mã số 03):
Chỉ tiêu này phản ánh tổng hợp các khoản được ghi giảm trừ vào tổng doanh thu
trong kỳ bao gồm:
Chiết khấu thương mại( Mã số 04):
Chỉ tiêu này phản ánh tổng số chiết khấu thương mại cho người mua hang của
doanh nghiệp cho 1 số hàng hoá, thành phẩm, dịch vụ đã phát sinh trong kỳ báo
cáo.
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này được căn cứ vào số phát sinh bên Có của tài
khoản 521.
Giảm giá hàng bán( Mã số 05):
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này được căn cứ vào số phát sinh bên Có của tài khoản
532 "Giảm giá hàng bán " trong kỳ báo cáo.

Hàng bán bị trả lại( Mã số 06):
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là luỹ kế sô phát sinh bên Có của tài khoản 531
"Hang bán bị trả lại" trong kỳ báo cáo.
Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu phải nộp, thuế GTGT tính theo
phương pháp trực tiếp( Mã số 07):
11

Số liệu ghi vào chỉ tiêu này là tổng cộng số phát sinh bên Có của các tài khoản
3332 "Thuế tiêu thụ đặc biệt", tài khoản 3333 "Thuế xuất, nhập khẩu" (chi tiết phần
thuế xuất khẩu) đối ứng với bên Nợ TK 511, TK512 và số phát sinh bên Có tài
khoản 3331 "Thuế GTGT phải nộp" đối ứng bên Nợ Tk 511 trong kỳ báo cáo.
Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ (Mã số10):
Chỉ tiêu này phản ánh số doanh thu bán hàng hoá, thành phẩm và cung cấp dịch
vụ đã trừ vào các khoản giảm trừ ( chiết khấu thương mại, giam giá hàng bán, hàng
bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT theo phương pháp
trực tiếp) trong kỳ báo cáo, làm căn cứ tính kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Mã số 10 = Mã số 01 - Mã số 03
Giá vốn hàng bán( Mã số 11):
Chỉ tiêu này phản ánh tổng giá vốn của hàng hoá, thành phẩm sản xuất củathành
phẩm đã bán, chi phí trực tiếp của các dịch vụ đã cung cấp, chi phí khác được tính
vào hoặc ghi giảm giá vốn hàng bán trong kỳ báo cáo.
Số liệu ghi vào chỉ tiêu này là số phát sinh bên Có của tà khoản 632 "Giá vốn
hàng bán" trong kỳ báo cáo đối ứng với bên Nợ tài khoản 911 "Xác định kết quả
kinh doanh".
Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ ( Mã số 20):
Chỉ tiêu này phản ánh số chênh lệch giữa doanh thu thuần về bán hàng và cung
cấp dịch vụ với giá vốn hàng bán phát sinh trong kỳ báo cáo.
Mã số 20 = Mã số 10 - Mã số 11.
Doanh thu hoạt động tài chính( Mã số 21):

Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là luỹ kế số phát sinh bên Nợ của tài khoản 515
"Doanh thu hoạt động tài chính" đối ứng với bên Có tài khoản 911 trong kỳ báo
cáo.
Chi phí tài chính( Mã số 22):
12

Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là luỹ kế số phát sinh bên Có Tài khoản 635 đối
ứng với bên Nợ Tài khoản 911 trong kỳ báo cáo.
Lãi vay phải trả ( Mã số 23):
Chỉ tiêu này dùng để phản ánh chi phí lãi vay phải trả được tính vào chi phí tài
chính trong kỳ báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này căn cứ vào sổ kế toán chi
tiết tài khoản 635.
Chi phí bán hàng( Mã số 24):
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là tổng cộng số phát sinh bên Có của Tài khoản
641 "Chi phí bán hàng" và số phát sinh Có của Tài khoản 1422 "Chi phí chờ kết
chuyển"( chi tiết chi phí quản lý doanh nghiệp), đối ứng với bên Nợ của Tài khoản
911 "Xác định kết quả kinh doanh" trong kỳ báo cáo.
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh ( Mã số 30):
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ
báo cáo. Chỉ tiêu này được tính toán trên cơ sở lợi nhuận gộp về bán hàng và cung
cấp dịch vụ cộng(+) với doanh thu hoạt động tài chính trừ(-) chi phí tài chính, chi
phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho hàng hoá, thành phẩm,
dịch vụ đã bán trong kỳ báo cáo.
Mã số 30 = Mã số 20 + Mã số 21 - (Mã số 22 + Mã số 24 + Mã số 25).
Thu nhập khác (Mã số 31):
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này được căn cứ vào số phát sinh bên Nợ của Tài
khoản 711 "Thu nhập khác" đối ứng với bên Có của Tài khoản 911 "Xác định kết
quả kinh doanh " trong kỳ báo cáo.
Chi phí khác( Mã số 32):
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này được căn cứ vào số phát sinh bên Có của Tài

khoản 811 "Chi phí khác" đối ứng với bên Nợ của tài khoản 911 "Xác định kết quả
kinh doanh " trong kỳ báo cáo.
Lợi nhuân khác ( Mã số 40):
13

Chỉ tiêu này phản ánh số chênh lệch giữa số thu nhập khác (đã trừ thuế GTGT
phải nộp tính theo phương pháp trực tiêp) với chi phí khác trong kỳ báo cáo.
Mã số 40 = Mã số31- Mã số 32.
Tổng lợi nhuận trước thuế (Mã số 50):
Chỉ tiêu này phản ánh tổng số lợi nhuận thực hiện trong kỳ báo cáo của doanh
nghiệp trước khi trừ thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động kinh doanh, hoạt
động khác phát sinh trong kỳ báo cáo.
Mã số 50 = Mã số 30 + Mã số 40
Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp ( Mã số 51):
Chỉ tiêu này phản ánh tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong kỳ báo
cáo. Số liệu ghi vào chỉ tiêu này được căn cứ vào số phát sinh bên Có của Tài
khoản 3334 " Thuế thu nhập doanh nghiệp" trừ (-) số thuế TNDN được giảm trừ
vào số thuế phải nộp và số chênh lệch giữa số thuế TNDN tạm phải nộp theo thông
báo của cơ quan thuế hàng quý lớn hơn số thuế TNDN thực phải nộp khi báo cáo
quyết toán thuế cuối năm được duyệt.
Lợi nhuận sau thuế (Mã số 60):
Chỉ tiêu này phản ánh tổng số lợi nhuận thuần của các hoạt động doanh
nghiệp sau khi trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp phát sinh trong kỳ báo
cáo.
Mã số 60 = Mã số 50 – Mã số 51.
Phần II. Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước về Thuế, phí, lệ
phí và các khoản phải nộp khác.
Phần này phản ánh các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản khác mà đơn vị
phải nôp, đã nộp trong kỳ báo cáo, giúp người sử dụng biết được doanh nghiệp có
làm tròn nghĩa vụ trong việc thanh toán các khoản với Nhà nước hay không? Là

căn cứ góp phần đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khi lập các chỉ
14

tiêu trong phần này có thể dựa vào sổ liệu trên báo cáo này kỳ trước và trên các tài
khoản tương ứng với từng chỉ tiêu cụ thể trong các sổ kế toán kỳ này.
Phần III. Thuế TGTG được khấu trừ, thuế GTGT được hoàn lại, thuế
GTGT được giảm, thuế GTGT hàng bán nội địa.
Nội dung các chỉ tiêu ở phần này dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ, đã khấu trừ và còn được khấu trừ; Số thuế GTGT đầu vào được hoàn lại,
đã hoàn lại và còn được hoàn lại; Số thuế GTGT được giảm, đã giảm và còn được
giảm: Số thuế GTGT hàng bán nội địa phải nộp, đã nộp và còn phải nộp đến cuối
kỳ báo cáo.
Khi lập các chỉ tiêu ghi vào cột 4( luỹ kế từ đầu năm) phải căn cứ vào số liệu ghi
ở cột 4( luỹ kế từ đầu năm) của báo cáo này kỳ trước cộng(+) với số liệu ghi ở cột 3
(kỳ này) của báo cáo kỳ này, kết quả tìm được ghi vào cột 4 của từng chỉ tiêu phù
hợp.
Còn số liệu ghi ở cột 3 ( kỳ này) của các chỉ tiêu được căn cứ vào các tài khoản
tương ứng trên các sổ kế toán kỳ này hoặc căn cứ vào các số liệu trên báo cáo này
của kỳ trước. Chẳng hạn, số liệu ghi vào chỉ tiêu “Số thuế GTGT đã hoàn lại”được
lấy từ số dư Có của Tk 133, đối ứng với bên Nợ của Tk 111, 112 hoặc căn cứ vào
Sổ kế toán chi tiết thuế GTGT được hoàn lại. Hoặc để lập chỉ tiêu “thuế GTGT
được giảm đầu kỳ” phải dựa vào sổ kế toán chi tiết thuê GTGT được giảm hoặc lấy
từ số liệu ghi ơ chỉ tiêu có mã 33 (số thuế GTGT còn được giảm cuối kỳ) của báo
cáo này kỳ trước.
Số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cung cấp những
thông tin tổng hợp về phương thức kinh doanh, về việc sử dụng các tiềm năng vốn,
lao động kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các doanh nghiệp và chỉ ra các hoạt
động sản xuất kinh doanh đó đem lại lợi nhuận hay gây ra tình trạng thua lỗ của
doanh nghiệp. Đây là một bản báo cáo tài chính được các nhà kế hoạch tài chính rất
quan tâm, vì nó cung cấp các số liệu về hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp đã

15

thực hiện trong kỳ, đồng thời là bản hướng dẫn để dự tính trong doanh nghiệp sẽ
hoạt động ra sao trong tương lai.
1.1.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo chí tài chính phản ánh các thu và chi
tiền của doanh nghiệp theo từng hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt
động đầu tư, mục đích của báo cáo lưu chuyển tiền tệ là nhằm trình bày cho người
sử dụng biết tiền sinh ra bằng cách nào và doanh nghiệp đã sử dụgn chúng như thế
nào trong kỳ báo cáo. Qua đó họ tiến hành phân tích, đánh giá và dự đoán các mặt
sau:
- Dự đoán lượng tiền mang lại từ các hoạt động trong tương lai của doanh
nhiệp thông qua việc xem xét tình hình thu, chi trong quá khứ.
- Đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Chỉ ra mối quan hệ giữa lợi nhuận (lỗ) ròng và luồng tiền bởi vì doanh
nghiệp sẽ không thu được nếu hoạt động kinh doanh của họ bị thiếu tiền.
- Xác định nhu cầu tài chính trong tương lai của doanh nghiệp như nhu cầu
đầu tư tài sản cố định, đầu tư nghiên cứu sản phẩmmới, đánh giá khả năng sinh
lời,...
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ gồm ba phần:
Phần I: Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh
Phản ánh toàn bộ số tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp như tiền thu từ bán hàng, tiền thu từ các khoản thu
thương mại; các chi phí bằng tiền như: Tiền trả cho nhà cung cấp (trả ngay trong kỳ
và tiền trả cho các khoản nợ kỳ trước), tiền thanh toán cho công viên về tiền lương
và BHXH, các chi phí khác bằng tiền (chi phí văn phòng phẩm, công tác phí...).
16

Phần II. Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư
Phản ảnh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt

động đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư bao gồm 2 phần:
- Đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân doanh nghiệp như: hoạt
động xây dựng cơ bản, mua sắm TSCĐ.
- Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức góp vốn liên doanh, đầu tư
chứng khoán, cho vay, không phân biệt đầu tư ngắn hạn và dài hạn.
Dòng tiền lưu chuyển bao gồm toàn bộ các khoản thu do bán, thanh lý TSCĐ
thu hồi các khoản đầu tư, ... và các khoản chi mua sắm, xây dựng TSCĐ, chi để đầu
tư vào các đơn vị.
Phần III. Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt
động tài chính của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính bao gồm các nghiệp vụ làm
tăng giảm vốn kinh doanh của của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp góp vốn,
vay vốn (không phân biệt ngắn hạn hay dài hạn), nhận vốn liên doanh, phát hành cổ
phiếu, trái phiếu, trả nợ vay,...)
Dòng lưu chuyển bao gồm toàn bộ các khoản thu, chi liên quan như: tiền vay
nhận được, tiền thu được do nhận vốn góp liên doanh, do phát hành cổ phiếu, tiền
chi trả lãi vay cho các bên góp vốn, trả lãi cổ phiếu, trái phiếu bằng tiền, thu lãi tiền
gửi,...
Khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể áp dụng một trong hai phương pháp
sau: phương pháp gián tiếp và phương pháp trực tiếp.
Theo phương pháp gián tiếp thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập bằng
cách điều chỉnh lợi tức trước thuế của hoạt động sản xuất kinh doanh khỏi ảnh
hưởng của các nghiệp vụ không trực tiếp thu tiền và chi tiền đã làm tăng, giảm lợi
tức, loại trừ các khoản lãi, lỗ của hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính đã tính
vào lợi nhuận trước thuế, điều chỉnh các khoản mục thuộc vốn lưu động.
17

Theo phương pháp trực tiếp thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập bằng
cách xác định và phân tích trực tiếp các khoản thực thu, thực chi bằng tiền các sổ
kế toán vốn bằng tiền theo các khoản hoạt động và theo nội dung chi.

Hai phương pháp này chỉ khác nhau ở điểm xuất phát và căn cứ để xác đinh
lưu chuyển tiền của hoạt động kinh doanh, còn lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư
và hoạt động tài chính của hai phương pháp đều lập giống nhau. Hiện nay báo cáo
lưu chuyển tiền tệ tạm thời chưa quy định là báo cáo bắt buộc nhưng khuyến khích
các doanh nghiệp lập và sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong hoạt động kinh
doanh của mình.
1.1.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài
chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo
cáo mà báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết.
Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của
doanh nghiệp; nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp áp dụng: tình
hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vố quan trọng; phân
tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và các kiến nghị của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp phải trình bày đầy đủ các chỉ tiêu theo nội dung đã quy định trong thuyết
minh báo cáo tài chính, ngoài doanh nghiệp cũng có thể trình bày theo các nội dung
khác nhằm giải thích chi tiết hơn tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Để có thuyết minh báo cáo tài chính mang tính khoa học, có sức thuyết phục
những người quan tâm thì người lập cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Phần trình bày bằng lời văn phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu. Phần trình bày
bằng số liệu phải thống nhất với số liệu trên các báo cáo khác.
18

- Đối với báo cáo quý, các chỉ tiêu thuộc phần chế độ kế toán áp dụng tại
doanh nghiệp phải thống nhất trong cả niên độ kế toán. Nếu có sự thay đổi phải
trình bày rõ ràng lý do thay đổi.
- Trong các biểu số liệu, cột kế hoạch thể hiện số liệu kế hoạch của kỳ báo
cáo cột số thực hiện kỳ trước thể hiện số liệu của kỳ ngay trước kỳ báo cáo.

- Các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động chỉ sử dụng tỏng thuyết
minh báo cáo tài chính năm.
Trong phần trình bày về hệ thống báo cáo tài chính trong doanh nghiệp, tôi
xinh phép chỉ giới thiệu mẫu biểu của hai báo cáo tài chính chủ yếu theo quy định
hiện hành của Bộ Tài chính là Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh (Các mẫu biểu được trình bày trong phần phụ lục).
1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm, vai trò, nhiệm vụ của phân tích hoạt động tài chính doanh
nghiệp.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ.
Phân tích tình hình tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công
cụ cho phép thu thập và xử lí các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản
lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh
nghiệp giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định
quản lý phù hợp.
19

Phân tích tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích báo cáo tài chính và
các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua hệ thống các phương pháp, công cụ và kĩ
thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau vừa đánh giá
toàn diện, tổng hợp, khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính
của doanh nghiệp để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài
chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp
luật trong việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Do vậy, sẽ có nhiều đối tượng
quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau.

Thật vậy, việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là mối quan tâm
hàng đầu của nhiều nhóm người khác nhau như Ban giám đốc (hay Hội đồng quản
trị), các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các nhà cho vay, các ngân hàng, các
nhà quản lý, các nhà bảo hiểm, cơ quan Nhà nước và người lao động. Mỗi nhóm
người này có những nhu cầu thông tin khác nhau và do vậy mỗi nhóm có xu hướng
tập trung vào những khía cạnh trong toàn cảnh hoạt động tài chính của một doanh
nghiệp. Cụ thể:
*Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp:
Mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài
ra, các nhà quản trị còn quan tâm đến nhiều mục tiêu khác như tạo công ăn việc
làm, nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ với chi phí thấp... Tuy nhiên, một doanh
nghiệp chỉ có thể thực hiện được các mục tiêu này nếu đáp ứng đựơc hai thử thách
sống còn và là hai mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp, đó là: Kinh doanh có lãi và
trả được nợ. Một doanh nghiệp thua lỗ liên tục sẽ cạn kiệt các nguồn lực và buộc
phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động và đóng cửa. Việc phân tích
hoạt dộng tài chính sẽ giúp các nhà lãnh đạo và bộ phận tài chính doanh nghiệp
thấy được thực trạng tài chính cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị
20

mình và căn cứ vào đó để lập kế hoạch cho tương lai cũng như đưa ra các quyết
định đúng đắn, kịp thời phục vụ cho nhu cầu quản lý.
• Đối với chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng:
Mối quan tâm của họ chủ yếu lại hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì
vậy, họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành
tiền nhanh, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng rất quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu bởi vì
vốn chủ sở hữu là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp gặp rủi ro. Không mấy
ai sẵn sàng cho vay nếu như các thông tin cho thấy người vay không đảm bảo chắc
chắn rằng khoản vay có thể được và sẽ được thanh toán ngay khi đến hạn. Vì vậy,

phân tích hoạt động tài chính sẽ giúp các nhà cho vay ra quyết định có nên cho
doanh nghiệp đó cho vay hay không.
• Đối với nhà cung cấp vật tư, hàng hoá, dịch vụ...
Họ cần phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp để hiểu, xem xét có nên cho
khách hàng sắp tới mua chịu hay không. Cũng như các chủ ngân hàng và các nhà
cho vay tín dụng, nhóm người này chủ yếu quan tâm đến khả năng thanh toán của
khách hàng trong thời gian hiện tại và sắp tới.
*Đối với các nhà đầu tư thì mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào sự rủi
ro, thời gian hoà vốn, mức sinh lãi và khả năng thanh toán vốn,... Vì vậy, họ cần
những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và
các tiềm năng phát triển khác của doanh nghiệp. Đồng thời các nhà đầu tư cũng rất
quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý. Vì
vậy điều này sẽ đảm bảo an toàn và tính hiệu quả của nhà đầu tư.
*Đối với những người được hưởng lương trong doanh nghiệp:
Đây là những người có nguồn thu nhập duy nhất từ tiền lương được trả. Mà
tiền lương được trả cao hay thấp, ổn định hay không ổn định lại phụ thuộc vào hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, phân tích tài chính giúp họ
21

định hướng việc làm và trên cơ sở đó yên tâm dốc sức vào phục vụ cho doanh
nghiệp tuỳ theo công việc được phân công đảm nhiệm.
*Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các ngân hàng, các nhà
cung cấp, ... còn nhiều nhóm người khác quan tâm đến thông tin tài chính của
doanh nghiệp, đó là các cơ quan tài chính, cơ quan thuế, thống kê, cơ quan chủ
quản, các nhà phân tích tài chính, ... vì nó thể hiện quyền lợi và trách nhiệm của
doanh nghiệp.
Như vậy, có thể nói nhiệm vụ tối cao và quan trọng nhất của phân tích tài
chính là giúp những người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh, phương
án đầu tư tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng, tiềm năng của doanh nghiệp. Để
thực hiện được mục tiêu phân tích tài chính cần phải làm tốt nhiệm vụ sau:

Phân tích tài chính doanh nghiêp phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc về tài
chính doanh nghiệp và phương pháp phân tích mà tiến hành phân tích nhằm đánh
giá thực trạng và triển vọng của hoạt động tài chính, vạch ra những mặt tích cực và
tồn tại của thị trường tiền tệ, đánh giá xem doanh nghiệp có đảm bảo vốn cho sản
xuất kinh doanh không, quản lý và phân phối ra sao, khả năng thanh toán, ... xác
định nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Từ đó đưa ra những biện pháp hiệu quả, khả thi để khắc phục những
yếu kém, phát huy triệt để năng lực tài chính của doanh nghiệp, góp phần nâng cao
hiệu quả của hoạt động tài chính nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung.
1.2.2. Nguồn số liệu, phương pháp phân tích và các bước phân tích hoạt động
tài chính của doanh nghiệp
1.2.2.1.Nguồn số liệu để phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tình hình tài chính sử dụng chủ yếu các tài liệu sau:
- Các chỉ tiêu kế hoạch tài chính do doanh nghiệp xây dựng như: kế hoạch huy
động các nguồn vốn, kế hoạch phân phối sử dụng vốn và các chỉ tiêu tài
chính khác.
22

- Bảng cân đối kế toán (B01-DN)
- Báo cáo kết quả kinh doanh (B02-DN)
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (nếu có )
- Báo cáo chi tiết về tình hình tăng, giảm tài sản, nguồn vốn, công nợ phải thu,
phải trả
- Báo cáo về tình hình tài sản thiếu thừa chờ xử lý
- Các chế độ, chính sách quản lý kinh tế, tài chính của Nhà nước, của ngành và
doanh nghiệp
1.2.2.2. Phương pháp phân tích hoạt động tài chính của doanh nghiệp
Để thực hiện tốt nhiệm vụ phân tích hoạt động tài chính và thể hiện rõ nét ý
nghĩa của nó thì phương pháp phân tích đóng vai trò vô cùng quan trọng. Về mặt lý
luận thì phương pháp phân tích sẽ quyết định đến kết quả đánh giá, bởi lẽ nó không

chỉ giúp kết quả phân tích được chính xác mà còn giúp nhà phân tích lựa chọn chỉ
tiêu phù hợp để đạt được kết quả mong muốn. Mặt khác, các giai đoạn của quá
trình phân tích sẽ giúp cho nhà phân tích rút ra một cách có hệ thống kết quả của
mình, từ đó sẽ đưa ra được giải pháp rõ ràng. Cụ thể, với từng khâu phân tích phải
áp dụng phương pháp phân tích cho phù hợp. Những phương pháp phân tích tài
chính được sử dụng phổ biến là: phương pháp chi tiết ,phương pháp so sánh, loại
trừ, liên hệ, phương pháp tỷ lệ hay phương pháp hồi quy tương quan.
- Phương pháp chi tiết: là phương pháp chia nhỏ sự kiện kinh tế thành các yếu
tố cấu thành để thấy rõ quan hệ nội tại cuả sự kiện đó
- Phương pháp so sánh: là so sánh giữa số liệu của kì phân tích với số liệu của
kì gốc. Đâychính là phương pháp được sử dụng phổ biến để xác định xu
hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. Vì vậy, để tiến hành so
sánh, phải giải quyết những vấn đề cơ bản như xác định số gốc để so sánh,
xác định điều kiện so sánh và xác định mục tiêu so sánh.
23

- Phương pháp loại trừ : là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của
nhiều nhân tố đến kết quả kinh doanh bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các
nhân tố khác.
- Phương pháp liên hệ: là phương pháp xác định các mối liên hệ giữa các nhân
tố khác nhau và đâu là nhân tố chủ yếu gây nên sự biến động của chỉ tiêu.
Ngoài các phương pháp phân tích chủ yếu trên người ta còn sử dụng một số
phương pháp khác như: phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ, phương pháp
toàn tài chính, ... kể cả phương pháp phân tích các tình huống giả định.
Trong quá trình phân tích tổng thể thì việc áp dụng linh hoạt, xen kẽ sẽ đem lại
kết quả cao hơn khi phân tích đơn thuần vì trong phân tích tài chính kết quả mà mỗi
chỉ tiêu đem lại chỉ có ý nghĩa khi xem xét nó trong mối quan hệ với các chỉ tiêu
khác. Do vậy, mà phương pháp phân tích hữu hiệu cần đi từ tổng quát đánh giá
chung cho tới các phần chi tiết, hay nói cách khác là lúc đầu ta nhìn nhận tình hình
tài chính doanh nghiệp trên một bình diện rộng, sau đó đi vào phân tích đánh giá

qua các chỉ số tổng quát về tình hình tài chính và để hiểu rõ hơn ta sẽ phân tích các
chỉ tiêu tài chính đặc trưng của doanh nghiệp, so sánh với những năm trước đó,
đồng thời so sánh với tỉ lệ tham chiếu để thấy được xu hướng biến động cũng như
khả năng hoạt động của doanh nghiệp so với mức trung bình của ngành r a sao.
Như vậy, trước khi tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp ta
phải xác định được các vấn đề cần phân tích và nên áp dụng các phương pháp phân
tích nào cho phù hợp, đồng thời phải xây dựng được trình tự phân tích tài chính để
đánh giá chính xác thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
1.2.2.3. Các bước tiến hành phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính trong doanh nghiệp thường được tiến hành qua các giai đoạn
sau:
- Giai đoạn lập kế hoạch phân tích: là giai đoạn đầu tiên, là một khâu quan
trọng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng, thời gian và tác dụng của phân tích
24

tài chính. Trong bước này cần xác định được mục tiêu phân tích và xây dựng
chương trình phân tích. Kế hoạch phân tích phải xác định rõ nội dung phân
tích, phạm vi phân tích, thời gian tiến hành phân tích và những thông tin cần
thu thập, tìm hiểu. Để các giai đoạn sau của quá trình phân tích tiến hành có
kết quả tốt thì giai đoạn lập kế hoạch phải chu đáo và chuẩn xác.
- Giai đoạn tiến hành phân tích: là giai đoạn triển khai thực hiện các công việc
đã lập ra trong kế hoạch. Trong giai đoạn này cần phải làm các công việc sau:
+ Sưu tầm tài liệu và kiểm tra tài liệu: tài liệu làm căn cứ phân tích gồm các
nghị quyết, chỉ thị của Bộ tài chính có liên quan đến hoạt động tài chính, các tài
liệu kế hoạch, dự toán, định mức và các báo cáo tài chính. Sau đó phải xem xét tính
hợp pháp của tài liệu như trình tự lập, người lập, cấp có thẩm quyền ký duyệt...
+Tính toán các chỉ tiêu phân tích
+Xác định nguyên nhân và tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến chỉ tiêu phân tích
+Xác định và dự đoán những nhân tố kinh tế xã hội tác động đến tình hình tài

chính và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
+Tổng hợp kết quả rút ra nhận xét, kết luận về tình hình tài chính của doanh
nghiệp
- Giai đoạn kết thúc: là giai đoạn cuối cùng của việc phân tích. Trong giai
đoạn này phải tiến hành lập báo cáo phân tích và hoàn chỉnh hồ sơ phân tích.
Báo cáo phân tích là bản tổng hợp những đánh giá cơ bản cùng những tài
liệu chọn lọc để minh hoạ rút ra từ quá trình phân tích. Đánh gía cùng minh
hoạ cần nêu rõ cả thực trạng và tiềm năng cần khai thác. Từ đó nêu được
phương hướng và biện pháp phấn đấu trong kỳ tới. Báo cáo phân tích cần
được trình bày trong hội nghị phân tích để thu thập ý kiến đóng góp và cuôí
cùng là lập hồ sơ phân tích.
1.2.3. Nội dung phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp
25

×