Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ(phân tích toàn bộ tác phẩm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.24 KB, 4 trang )

ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ
Có thể nói, Nguyễn Trãi là một bậc anh hùng dân tộc, một danh nhân
văn hóa thế giới. Đồng thời, Nguyễn Trãi còn là nhà văn trữ tình sâu
sắc, nhà văn chính luận lỗi lạc. Và, nhắc đến văn chính luận Nguyễn
Trãi, ta không thể không nhắc đến bài “ Đại cáo bình Ngô “ mang
những nét rất đặc trưng, cơ bản của thể cáo.
Như chúng ta đã biết: năm 1427 đánh dấu sự kiện trọng đại quân ta
đại thắng chống lại giặc Minh xâm lược. Thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn
Trãi đã sáng tác ra “ Đại cáo bình Ngô”- được coi là bản tuyên ngôn
độc lập, một áng “ thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. “ Bình Ngô đại
cáo” đã nói lên phần nào nỗi lòng của Nguyễn Trãi cũng như của cả
dân tộc Việt Nam ta: căm thù, phẫn uất trước kẻ thù xâm lược đồng
thời thể hiện niềm tự hào về chiến công to lớn của thời đại. “ Đại cáo
bình Ngô” được viết theo thể cáo, gồm bốn phần với những ý nghĩa
sâu sắc khác nhau.
Chúng ta hãy cùng đến với đoạn mở của” Bình Ngô đại cáo”. Ở đoạn
này, tác giả đã khẳng định luận đề chính nghĩa ngay ở những câu đầu
tiên:
“ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tác giả khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống giặc Minh
là để cuộc sống yên bình, là diệt trừ những thế lực tham tàn, bạo
ngược, đó chính là việc làm danh nghĩa. Sau đó, Nguyễn Trãi còn
khẳng định nước ta là một nước độc lập có chủ quyền, có lãnh thổ,
phong tục, triều đại riêng…. Ở đây, giọng thơ nghe sao tự hào quá đỗi.
Phải chăng, đây chính là những dòng thơ viết từ chính tiếng lòng hạnh
phúc của Nguyễn Trãi, từ chính tấm lòng yêu quê hương, đất nước cao
đẹp:
“ Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Bằng những lí lẽ xác đáng, lập luận chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã khẳng


định nghĩa quân Lam Sơn chống lại giặc Minh là việc làm nhân nghĩa,
hợp với lòng dân, hợp với quy luật là chính nghĩa. Và lẽ dĩ nhiên,
Những việc làm cao quý đó chỉ có thể xuất phát từ lòng yêu
nước,thương dân cao cả.
Vạch rõ, tố cáo những tội ác của giặc Minh chính là nội dung chính
của đoạn
tiếp theo. Ở đây, Nguyễn Trãi đã liệt kê ra một loạt tội ác của giặc
Minh. Chúng không chỉ có âm mưu xâm lược nước ta mà còn thực
hiện nhiều chính sách thuế má, phuaphen nặng nề, vơ vét sản vật quý
hiếm, diệt xản xuất, sự sống, tàn sát dã man dân ta, làm cho dân ta lâm
vào cảnh” khốn cùng”.
“ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Cuối cùng, sau khi liệt kê một loạt tội ác của giặc Minh, tác giả đã bộc
lộ thái độ căm thù, phẫn uất đồng thời kết tội chúng:
“ Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được ? “
Tác giả đã có cách lập luận chặt chẽ, lời văn đanh thép, sử dụng
những hình ảnh rất thực và có sức khái quát cao, giọng văn linh hoạt
để kết tội giặc Minh. Có thể nói, phần thứ hai là một bảng cáo trạng
đanh thép, tố cáo tội ác của giặc Minh là thế lực bạo tàn cần phải diệt
trừ.
Đoạn tiếp theo kể về quá trình nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống
lại giặc Minh bạo tàn. Tả về những ngày đầu kháng chiến đầy gian
khổ, tác giả đã lấy đó làm nền để lột tả hết những chiến thắng oanh liệt
của nhân dân ta:
“ Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,Lại ngặt vì :
Chính lúc quân thù đương mạnh

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu. “
Trong lúc thế giặc mạnh thì quân ta binh lực yếu kém, có khi lương
thực cạn kiệt, có khi quân ta hiếm hoi nhân tài. Thế nhưng, nhờ tài
lãnh đạo của Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đoàn kết một lòng, vượt
qua khó khăn tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng kẻ địch. Đó là do
người lãnh đạo có quyết tâm cao độ, có những chiến lược, chiến thuật
phù hợp để nâng cao sức mạnh của tình đoàn kết của nhân dân, chú
trọng mưu cơ hơn binh lực. Có thể nói, hình tượng của Lê Lợi chính là
hình tượng người anh hùng áo vải sinh động và toàn diện.
Với giọng điệu hào hùng, tác giả đã kể về ba trận đánh: Trận Bồ
Đằng-tro bay ; Trận Ninh Kiều-tết động ; Trận Chi Lăng-Mã An đến
Xương Giang. Trong một loạt những cặp câu biền ngẫu, lối viết thậm
xưng, nhạc điệu dồn dập mạnh mẽ mang đậm chất anh hùng ca, tác
giả đã nhấn mạnh được sự thất bại thảm hại của giặc Minh và khí thế
hào hùng của quân ta.
Đoạn cuối, tác giả đã tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự nghiệp
chiến đấu chính nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”
Bằng giọng văn nhẹ nhàng khoan thai, tác giả đã tuyên bố nền hòa
bình của dân tộc ta đã được lặp lại. Đồng thời, tác giả cũng rút ra bài
học lịch sử và thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Với nghệ thuật chính luận tài tình, cảm hứng trữ tình sâu sắc, “ Đại
cáo bình Ngô “ đã có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu
tố văn chương, được xem là áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta.
Ca ngợi sức mạnh của truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, tinh thần tự
lập tự cường nêu bật sức mạnh của nhân dân ta, mở ra kỷ nguyên mới-
kỉ nguyên hòa bình, độc lập tự do cho lịch sử dân tộc chính là những ý
nghĩa sâu sắc mà “Bình Ngô đại cáo” mang lại.

“Đại cáo bình Ngô” tiêu biểu cho thể loại cáo, tiêu biểu cho thể loại
văn chính luận của Nguyễn Trãi. Bài cáo được coi là bản tuyên ngôn
độc lập thứ hai của dân tộc ta, thể hiện được khát vọng tự chủ độc lập,
yêu chuộng hòa bình.
sông núi nước nam vua nam ở.
tiệt nhiên định phận tai thiên thư
như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
nhữ đănhr hành kha thủ bại hư
sông núi nước nam vua nam ở
dành dành định phận tại sách trời

×