Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH QUA HOẠT ĐỘNG NHÓM TRONG TIẾT ĐỌCHIỂU VĂN BẢN VÀ TIẾT LUYỆN NÓI NGỮ VĂN 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.24 KB, 19 trang )

Phòng GD – ĐT Phù Cừ

Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9

Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn:
TÊN ĐỀ TÀI: RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH QUA

HOẠT ĐỘNG NHÓM TRONG TIẾT ĐỌC-HIỂU VĂN BẢN VÀ
TIẾT LUYỆN NÓI -NGỮ VĂN 9
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận của đề tài.
Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao tiếp. Đây
là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở
trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và
phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết.
Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thơng tin,
thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần
được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Nếu người thầy đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám phá
chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, thì người học (học sinh) phải tự mình bộc lộ sự hiểu
biết, phải biết phát triển tư duy thành lời - ngôn bản. Muốn cho người nghe hiểu cho
được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là nói phải mạch lạc, logic, phải bảo đảm
các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ, nét mặt, âm lượng… Vì thế, luyện nói
là việc rất quan trọng trong q trình dạy- học văn, là biện pháp góp phần nâng cao
chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Luyện nói tốt sẽ giúp người học sẽ có
được một cơng cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội.
2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.
Trong thực tế giảng dạy ở trường thuộc địa bàn nông thôn, đa số học sinh chưa có
kỹ năng nói trước tập thể, rất ngại nói, khơng tự tin khi nói trước đơng người. Đối với
học sinh ở trường nơng thơn, trình độ có hạn, phần tiếp thu còn chậm so với học sinh ở


thị xã. Hơn nữa, thời gian học tập của các em rất hạn chế, bởi vì các em đa số con nhà
nơng. Sau buổi học về các em cịn rất nhiều cơng việc của gia đình nên có phần ảnh
hưởng đến việc học, nhất là đến vụ mùa. Với học sinh, các em có vẻ xem nhẹ hoạt
động nói trong giờ học.
Do thời gian thảo luận cũng như luyện nói quá ít so với nội dung yêu cầu, một
vài giáo viên chưa chú trọng khâu luyện nói cho học sinh. Chính vì thế mà hoạt động
nói của học sinh chưa đáp ứng yêu cầu mong muốn.
Ở một vài giáo viên việc dạy tiết Đọc-hiểu văn bản rơi vào đơn điệu, nhàm chán
bởi giáo viên chỉ sử dụng hệ thống câu hỏi phát vấn, đàm thoại. Những học sinh phát
biểu đa số là học sinh khá giỏi. Còn những em học sinh trung bình, yếu kém thì vẫn cứ
trầm lặng, nhút nhát.Việc tăng cường tính hợp tác để tạo hứng thú cho những đối
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

1


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
tượng đó hầu như khơng có. Và như thế nhiều học sinh khơng có cơ hội để rèn kĩ năng
nói.
Có nhiều giáo viên có sự chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh song cịn lúng túng
trong khâu soạn giảng cũng như qui trình các hoạt động lên lớp. Một phần cũng do
sách giáo viên khơng có hướng dẫn cụ thể (nhất là ở tiết luyện nói )
Khi giáo viên có sự đầu tư cho tiết dạy và hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị chu
đáo thì việc tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm trong giờ học tiết Đọc-hiểu văn bản
cũng như trong tiết luyện nói đạt hiệu quả cao .Khơng khí học tập của học sinh khác

hẳn khi GV thuyết giảng. Ở các em lộ rõ sự thích thú, đa số các thành viên trong nhóm
có vẻ háo hức và nói một cách tự nhiên. Tất cả như có một luồng điện vơ hình nào đó
được lan truyền cho cả lớp làm nóng lên khơng khí học tập. Nhiều em giơ tay xin được
trình bày kết quả thảo luận, được trình bày những điều mà nhóm đã phát hiện, cảm
nhận tổng hợp và thật là thoả mãn với những kiến thức được chắc lọc rút ra từ chính sự
hiểu biết của các em. Đó cũng là lúc GV có điều kiện để điều chỉnh và phấn khích các
em học tập, thực tế niềm vui đựợc GV quan tâm sẽ cho các em thêm sự tự tin vào khả
năng của mình là phải học tập tốt hơn, cố gắng hơn để được phát biểu, nói trước lớp
trong lần sau.
Để tạo được động lực niềm tin nhằm kích thích ý thức học tập bộ mơn Ngữ văn
của các em trước hết người thầy giáo phải là người tìm ra được những biện pháp tối ưu
kích thích khả năng nói để HS nói ra được những điều mình tư duy, cảm thụ trong giờ
học văn bản cũng như trong tiết luyện nói.
Đây cũng là kĩ năng vừa giúp các em thể hiện mình, tự bày tỏ những suy nghĩ
cảm xúc những điều cảm thụ, phân tích, đánh giá một cách tự tin trứơc tập thể. Vừa là
biện pháp có khả năng khắc phục đựơc những khó khăn, thực trạng mà chúng ta đang
quan tâm. Từ đó nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn.
Qua 5 năm giảng dạy bộ môn Ngữ Văn 9 với những thuận lợi và khó khăn mà
bản thân tơi đã gặp trong q trình dạy học bộ mơn nói chung và dạy học tiết luyện nói
nói riêng, tơi đã rút ra được những vấn đề mang tính kinh nghiệm. Tơi xin mạnh dạn
trình bày những sáng kiến của tôi về việc: “RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH
QUA HOẠT ĐỘNG NHÓM TRONG TIẾT ĐỌC-HIỂU VĂN BẢN VÀ TIẾT LUYỆN NĨI Ở
MƠN NGỮ VĂN 9 ”.

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Như chúng ta đều biết, mục tiêu của dạy học môn Ngữ văn là hình thành những
con người có ý thức, có tư tưởng tình cảm cao đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị
chân, thiện, mỹ và đặc biệt là có khả năng thích ứng với cuộc sống năng động trong xã
hội hiện đại.
Dạy-học Ngữ văn không chỉ chú trọng dạy cái gì mà cịn phải biết dạy như thế

nào đặc biệt trong xu hướng không ngừng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Quan điểm tích hợp và tích cực ln chi phối các hoạt động dạy học Ngữ văn, nhất là ở
phần dạy-học Đọc- hiểu văn bản cũng như dạy các kĩ năng làm Tập làm văn. Một tiết
dạy-học Ngữ văn đạt hiệu quả trước hết phải tạo nên khơng khí hứng thú cho mỗi giờ
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

2


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
học. Khơng khí đó chỉ có được khi người dạy biết da dạng hóa các hình thức, biện
pháp dạy học.
Mặc khác, với tinh thần quan điểm dạy học mới, SGK Ngữ văn khơng chỉ chú
trọng nội dung mà cịn chú trọng hình thức nhằm phục vụ cho việc đổi mới phương
pháp dạy-học.
Để đạt được những mục tiêu trên và thực hiện theo yêu cầu của phương pháp dạy
học mới, người dạy cần tổ chức cho học sinh học tập bằng các biện pháp nhằm rèn
cho học sinh các kỹ năng nghe, nói ,đọc ,viết . Trong đó kĩ năng nói là vơ cùng quan
trọng .Nói sao cho người nghe hiểu là điều không phải ai cũng thực hiện tốt. Người nói
khi đã chuẩn bị đầy đủ nội dung trong đầu sẽ tìm cách bộc lộ, truyền đạt thơng tin đó
chính là “nói”. Muốn hoạt động nói có hiệu quả trong giờ học Ngữ văn, người dạy
phải hướng dẫn rèn luyện cho các em, tập cho các em mạnh dạn trước tập thể. Nhiều
khi các em có dự kiến trong đầu nhưng lại khơng nói ra được. Và như vậy người thầy
sẽ không nhận xét đánh giá đúng về sự tiếp thu ,cảm thụ của các em trong giờ học Ngữ
văn .

Vậy rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là việc làm thiết thực vừa góp phần nâng
cao chất lượng dạy học mơn Ngữ văn vừa hình thành phong cách cho học sinh giúp
các em mạnh dạn trước tập thể, có kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống.
Ý thức được tầm quan trọng của hoạt động nói (hay kĩ năng trình bày miệng)
của học sinh trong quá trình học tập bộ mơn Ngữ Văn nên mục đích chính của đề tài
sáng kiến kinh nghiệm của tơi là tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi: Làm thế nào để
học sinh có hứng thú tích cực, sơi nổi trong giờ luyện nói? Biện pháp nào là hiệu quả
để giúp cho các em học sinh có thể “nói” tốt hơn, hay hơn? Giáo viên và học sinh cần
phải làm những gì để giờ luyện nói đạt hiệu quả như mong muốn? Từ đó nâng cao chất
lượng giờ dạy của giáo viên, chất lượng giờ học của học sinh và chất lượng giáo dục
của bộ mơn nói chung.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Để đảm bảo tính khoa học, khách quan và chân thực của kết quả nghiên cứu đề tài,
ngay từ đầu tôi đã xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu cụ thể của đề tài là:
- Những tình huống sư phạm bản thân đã gặp và giải quyết trong q trình dạy
học giờ thảo luận nhóm, giờ luyện nói trên lớp.
- Những khó khăn và thuận lợi đối với GV và HS trong tiết học luyện nói.
- Những kinh nghiệm mà bản thân học hỏi tích lũy được kết hợp với những kiến
thức nghiệp vụ mà bản thân được bồi dưỡng qua các lớp chuyên đề của Phịng,
nhà trường và tổ chun mơn liên quan đến kĩ năng nói và giờ luyện nói.
- Những mục tiêu cần đạt theo chuẩn kiến thức, kĩ năng đối với bài học luyện nói.
- Thực trạng của vấn đề dạy học bài luyện nói và khả năng nói của học sinh trước
một vấn đề.
Đối tượng áp dụng, thử nghiệm của đề tài là các em học sinh khối lớp 8,9 các năm học
mà bản thân đã phụ trách giảng dạy tại trường THCS Tống Trân.
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân


3


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp điều
tra, nghiên cứu khác nhau. Sau đây là một vài phương pháp tiêu biểu:
+ Phương pháp quan sát và thu thập thông tin giúp tôi biết được thực tiễn của vấn đề
nghiên cứu.
+ Phương pháp điều tra thông qua phiếu điều tra và hoạt động giao tiếp nhằm tìm hiểu
những thuận lợi và khó khăn cũng như những mong muốn của học sinh trong tiết học
luyện nói cũng như trong những giờ thảo luận nhóm.
+ Phương pháp phân tích, phân loại áp dụng trong việc giải quyết các tình huống sư
phạm gặp phải, phân tích bản chất hiện tượng, phân nhóm hoạt động cho học sinh,…
+ Phương pháp tổng hợp áp dụng trong việc tổng hợp kết quả điều tra, kết quả nghiên
cứu,…
+ Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ sự tiến bộ(kết quả) trước và sau khi áp
dụng đề tài trong dạy học.
+ Lắng nghe, khen thưởng, động viên kịp thời cũng là một phương pháp đem lại hiệu
quả trong việc khích lệ hứng thú học tập tích cực, chủ động cho học sinh.
V. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU.
- Xác định rõ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.Đối tượng áp dụng và thử
nghiệm nội dung, phương pháp của đề tài,...
- Điều tra đối tượng: Thơng qua q trình giảng dạy để điều tra về khả năng nhận thức,
kỹ năng nói của học sinh đặc biệt trong các giờ luyện nói.
- Thời gian nghiên cứu của đề tài: Chủ yếu là 2 năm học 2010 – 2011 và 2011 –
2012.Tuy nhiên quá trình quan sát thực tế và tìm hiểu thực trạng liên quan đến vấn đề
được tiến hành trong nhiều năm giảng dạy.


PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ.
I. LÍ LUẬN CHUNG.
Qua nhiều năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn THCS với
những yêu cầu không ngừng đổi mới về phương pháp giảng dạy, về công tác kiểm tra
đánh giá,… giáo viên bộ môn Ngữ văn dần dần tiếp cận và nắm vững phương pháp
dạy học mới. Người thầy đóng vai trị chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động, tích cực
khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm văn chương cũng như rèn các kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết. Các hoạt động dạy-học này cần được tổ chức linh hoạt với những hình thức, biện
pháp dạy học phong phú và có tính sáng tạo của người thầy.
Việc rèn kĩ năng nói cho học sinh qua hoạt động thảo luận nhóm trong tiết
Đọc hiểu văn bản và tiết luyện nói ở mơn Ngữ văn 9 là biện pháp góp phần nâng cao
chất lượng giờ dạy-học Ngữ văn. Tuy nhiên để các em học sinh có tự tin nói lưu loát,
diễn cảm và thuyết phục một vấn đề theo yêu cầu của chương trình hoặc yêu cầu của
giáo viên thì khơng dễ chút nào. Nó địi hỏi sự chuẩn bị kĩ càng, sự nỗ lực hết mình và
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

4


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
cả lịng say mê đối với mơn học của cả giáo viên và học sinh.Trong quá trình giảng dạy
bản thân tơi đã có sự tìm tịi, học hỏi và vận dụng và đã thấy được hiệu quả. Từ đó, tơi
rút ra được những vấn đề mang tính kinh nghiệm và cũng là gợi ý để tham khảo.
II. THỰC TRẠNG LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ :

Đối với tôi và nhiều gv dạy văn khác thì trong các kiểu bài dạy học trên lớp
(dạy kiến thức mới, dạy bài đọc thêm, dạy ơn tập,..) có lẽ kiểu bài dạy vất vả nhất và
ngại nhất là kiểu bài luyện nói. Với kiểu bài này, mặc dầu nhiều giáo viên cũng đã cố
gắng hết sức nhưng cũng ít người thành cơng qua tiết dạy. Bởi vì kinh nghiệm rèn
luyện kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều so với rèn luyện kỹ năng viết. Học sinh
khơng tự tin khi nói trước đám đơng. Thời gian luyện nói lại có hạn (45 phút) khơng
tạo được điều kiện cho tất cả học sinh được nói. Và sách giáo viên cũng chưa có hướng
dẫn cụ thể cho việc dạy rèn luyện kỹ năng nói. Do vậy mà trong một tiết luyện nói chỉ
tập trung vào những em khá, giỏi, chăm còn những học sinh lười sẽ thụ động, khơng
phát huy được. Dù có hoạt động thảo luận nhóm thì những em yếu cũng ngồi im. Kết
quả yếu vẫn yếu, lười vẫn lười. Tâm lý chung, giáo viên rất ngại dạy tiết Luyện nói,
nhất là trình độ học sinh ở vùng nông thôn. So với yêu cầu của phương pháp dạy mới
và những định hướng của sách giáo viên thì tiết dạy “luyện nói”và hoạt động nói qua
phần thảo luận nhóm cịn nhiều lúng túng chưa đạt yêu cầu.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.

1. Những yêu cầu cần thiết đối với GV và HS trong q trình
dạy- học bài luyện nói và trong giờ thảo luận nhóm.
*/ Yêu cầu đối với học sinh.
Ngay từ đầu năm học, chúng tôi phổ biến những qui định đối với môn Ngữ văn
đối với việc học Ngữ văn nói chung và cho kĩ năng luyện nói nói riêng để học sinh có
tâm thế chuẩn bị :
a. Dụng cụ :
- Đầy đủ sách giáo khoa
- Vở : Vở học, vở soạn, vở bài tập
- Bảng phụ (4 em có một bảng phụ). Bảng phụ các em có thể dùng tờ lịch cũ
bọc giấy bóng ngồi. Một cây bút lơng. Hoặc các em có thể mua bảng giấy da đen cỡ
(80-60cm) nhưng bảng đen thì việc đem đi học hơi cồng kềnh nên dùng bảng phụ bằng
giấy lịch bọc nhựa tiện hơn.
b.Chia nhóm :

- Để tiện việc hoạt động thảo luận nhóm, tơi chia lớp làm 5 nhóm, mỗi nhóm 6
em liền kề nhau (bàn trên và bàn dưới) cho câu hỏi thảo luận ngắn trong một tiết học
văn bản hoặc tiếng việt.
- Đối với tiết luyện nói, chia lớp làm 4 nhóm, mỗi nhóm từ 7-8 em. Trong mỗi
nhóm cử ra một em viết chữ rõ ràng chịu trách nhiệm ghi vào bảng phụ sau khi đã
thống nhất ý kiến trong nhóm. Các em cịn lại trong nhóm đều ghi vào vở soạn của
mình ý kiến thống nhất của tổ.
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

5


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
c. Ý thức chuẩn bị bài ở nhà và ở lớp :
- Chuẩn bị bài mới ở nhà: Theo yêu cầu của GV mà các em có thể chuẩn bị từng
cá nhân hoặc chuẩn bị theo nhóm. Với tiết Luyện nói phải soạn một dàn ý chi tiết và
phải dự kiến lời nói dựa vào dàn ý đó.
- Trong giờ truy bài 15 phút, học sinh trong các nhóm hội ý, trao đổi những
vướng mắc băn khoăn trong quá trình chuẩn bị, tiến hành tập nói trong nhóm.
- Hoạt động trong giờ học: thảo luận nhóm, trình bày bài nói.
e. Phiếu đánh giá nhận xét ( dành cho phần luyện nói).
Mỗi em phải có phiếu nhận xét trong sổ tay. Sổ này dùng cho suốt năm học.
Ngày :
Môn :
Họ và tên (người nói):

Phần nhận xét, đánh giá :
- Tác phong nói :
- Giọng nói :
- Nội dung nói :
*/ Yêu cầu đối với giáo viên :
- Chuẩn bị bài thật chu đáo trước khi lên lớp nói chung và nhất là cho những tiết
rèn cho học sinh kĩ năng nói
- Dặn dị học sinh cụ thể các nội dung chuẩn bị cho bài luyện nói.
- Chú ý ,theo dõi và ghi chép những vấn đề cần nhận xét đối với học sinh trong
q trình luyện nói
- Ln tìm ra những ưu điểm trong phần trình bày của từng học sinh và khen các
em kịp thời trước lớp để động viên tạo hứng thú nói cho cả lớp
- Đối với những em cịn rụt rè, nhút nhát hoặc nói nhỏ ,giáo viên cho nói những
phần có nội dung đơn giản dễ trình bày và nên cố phát hiện ra nhũng ưu điểm của các
em trong tác phong, lời nói để khen .Nếu có nhũng điểm chưa hài lịng thì nhắc nhở
thật khéo léo, tế nhị để các em tự tin hơn ở lần nói sau.
- Sau mỗi lần trình bày nói trước lớp giáo viên khuyến khích bằng những tràn vỗ
tay để tạo khơng khí sơi nổi cho giờ học
- Chọn những em nói tốt trình bày cả bài luyện nói để tạo ấn tượng cho cả lớp khi
sắp kết thúc tiết học. Đó sẽ là điều kích thích niềm mong muốn được nói hay như bạn
ở nhiều đối tượng để các em chuẩn bị thật kĩ cho bài luyện nói ở những bài sau.
- Cho điểm khuyến khích đối với những em nói tốt ,những em có sự cố gắng
trong q trình luyện nói.

2/ Rèn kĩ năng “nói” qua hoạt động thảo luận nhóm trong tiết
đọc hiểu văn bản.
Thường trong một tiết học Ngữ văn sẽ có từ 1-2 câu hỏi thảo luận nhóm, thời
gian thảo luận từ 3-5 phút, thường là dạng câu hỏi mở, chúng tôi cho các em thảo luận
nhóm 5. Đây là những câu hỏi ngắn, học sinh tư duy trả lời :
GV: Hà Thị Nhung




Trường THCS Tống Trân

6


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
- Trước hết cá nhân trình bày quan điểm của mình trước nhóm :
Các em cần đọc kỹ câu hỏi, xác định nội dung yêu cầu của câu hỏi, suy nghĩ và viết
ra trong vở của mình, sau đó trình bày ra nhóm, nêu ý kiến của mình giống bạn thì
nhất trí khỏi phải nói lại mất thời gian .Từ các ý kiến, nhóm trưởng khái quát lại nội
dung mà nhóm đã nhất trí, mỗi em trong nhóm phải nắm vững nội dung đó. Em
được cử ghi chép sẽ ghi vào bảng phụ.
- Trình bày ý kiến của nhóm trước lớp :
Hết thời gian thảo luận giáo viên có thể gọi bất kỳ một em trong nhóm trả lời. Các
nhóm cịn lại sẽ nhận xét ý kiến về phần trình bày của tổ bạn
- Giáo viên nhận xét:
Cần chú ý hai mặt :
+ Nội dung nói : phải đáp ứng u cầu của câu hỏi thảo luận nhóm khơng
thiếu ,không thừa tránh dàn trải, lan man thiếu tập trung.
+ Kĩ năng nói : trình bày lưu lốt ,mạch lạc làm nỗi rõ vấn đề bằng giọng
nói tự nhiên to rõ dễ nghe dễ theo dõi, tránh đọc ê a, hoặc nói quá nhỏ, nói nhát gừng...
Thảo luận nhóm là một hình thức hoạt động dạy học tạo mơi trường thuận lợi
cho học sinh trao đổi, bàn bạc một cách tự nhiên trước những thành viên đồng trang
lứa có quan hệ bè bạn gần gũi về những vấn đề nội dung, ý nghĩa ,giá trị nghệ thuật
của văn bản văn học. Các em có sự đồn kết hợp tác để từ đó phát triển khả năng nhận
thức cảm thụ về văn học, mạnh dạn giải quyết các vấn đề đặt ra trong q trình khai

thác phân tích văn bản. Đặc biệt là qua thảo luận nhóm, kĩ năng nói của học sinh được
học sinh rèn luyện dần dần một cách chắc chắn, hiệu quả
* Một số câu hỏi thảo luận nhóm để luyện nói cho học sinh trong tiết Đọc -hiểu
văn bản
Thời gian thảo luận là 3-5 phút.
Ở bài “ Phong cách Hồ Chí Minh”, sau khi học sinh tìm hiểu được cách tiếp
xúc văn hóa của Bác,GV cho học sinh thảo luận câu hỏi : “ Cách tiếp xúc văn hóa của
Bác cho ta thấy vẻ đẹp nào trong phong cách của Bác ?” Hoặc câu “Vì sao có thể nói
lối sống của Bác là sự kết hợp giữa giản dị và thanh cao “ ?
Ở bài : “ Đấu tranh cho một thế giới hịa bình”, Trong q trình phân tích ở ý
3 ( Chiến tranh hạt nhân là cực kỳ phi lý ) sẽ cho HS thảo luận câu hỏi: “Theo tác giả,
trái đất chỉ là cái làng nhỏ trong vũ trụ nhưng lại là nơi độc nhất có phép mầu của sự
sống trong hệ mặt trời. Em hiểu như thế nào về ý nghĩ ấy ?” ( HS có thể trả lời : Trong
vũ trụ, trái đất chỉ là một hành tinh nhỏ nhưng là hành tinh duy nhất có sự sống. Khoa
học chưa khám phá được sự sống ở nơi nào khác ngoài trái đất. Đó là sự thiêng liêng
kỳ diệu của trái đất nhỏ bé của chúng ta ).
Ở bài : “ Tuyên bố về sự sống còn quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ
em”. Trong phần tìm hiểu nội dung ở phần 2,có thể cho HS thảo luận câu :“ Theo em,
những nỗi bất hạnh mà trẻ em thế giới phải chịu có thể giải quyết bằng cách
nào ?”( Loại bỏ chiến tranh, bạo lực, xóa bỏ đói nghèo…..)
Ở bài : “ Người con gái Nam Xương”, Ở cuối bài ta có thể cho HS thảo luận
câu : “Một con người có phẩm chất tốt đẹp, khát khao hạnh phúc gia đình như Vũ
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

7



Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
Nương đã từ chối nhân gian. Điều đó giúp em hiểu gì về hiện thực cuộc sống và hạnh
phúc của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ?”
( Hiện thực cuộc sống áp bức bất công. Trong cuộc sống ấy những con người bé nhỏ,
đức hạnh không thể tự bảo vệ được hạnh phúc chính đáng của mình ).
Ở bài : “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, sau khi cho HS phát hiện những cảnh được
gợi tả ở 8 câu cuối, cho HS thảo luận câu : “Mỗi cảnh được diễn tả bằng một cặp câu
thơ lục bát gợi liên tưởng đến thân phận và nỗi buồn riêng của Kiều. Hãy diễn giải điều
này trên từng nét cảnh ?( HS phân tích từng cặp câu )
Ở bài : “Lục Vân Tiên gặp nạn”, sau khi phân tích về hành động của Trịnh
Hâm, cho HS thảo luận câu : “ Ý kiến của em như thế nào về Trịnh Hâm, khi Vân Tiên
đã từng là bạn của Trịnh Hâm ? Từ đó em có suy nghĩ về lịng ghen ghét của con người
? ( Lòng đố kỵ là nguyên nhân của sự phản bội và tội ác). Hay câu : “Qua tấm lịng
nhân nghĩa và cuộc sống của ơng Ngư, Nguyễn Đình Chiểu muốn bày tỏ tình cảm gì
đối với người lao động ? ( Tin yêu và quý trọng nhân cách của những người lao động).
Ở bài “Đồng chí”, cho HS đọc đoạn thơ thứ 2 và cho HS thảo luận câu hỏi : “
Em cảm nhận được vẻ đẹp nào của tình đồng chí ?”( Vẻ đẹp của tình yêu thương mộc
mạc, chân thành, thắm thiết, đồng cam cộng khổ chia nhau cái chết nơi chiến hào ...)
Ở bài : Đồn thuyền đánh cá”, cuối bài có thể cho HS thảo luận câu: “Theo
em, nhờ đâu nhà thơ sáng tác nên bài thơ Đoàn thuyền đánh cá với những câu thơ hấp
dẫn như vậy ?”(Trực tiếp quan sát; Dồi dào trí tưởng tượng; Tấm lịng tha thiết với vẻ
đẹp và sự giàu có của đất nước……)
Ở bài “Bếp lửa”, cho HS thảo luận Câu: “Khi viết lời thơ: Nhưng vẫn chẳng
lúc nào quên nhắc nhở-Sáng mai này bà nhóm bếp lên chưa?” Người cháu muốn nhắc
bà nhóm lửa? hay nhắc ai? Nhắc điều gì?” (Tự nhắc mình khơng được quên những lận
đận đời bà, không được quên tấm lịng ấm áp của bà, khơng được qn sự tận tụy hy
sinh và tình nghĩa của bà……)
Ở bài “Ánh trăng”, có thể cho thảo luận câu: Từ sự xa cách giữa người và

trăng, nhà thơ muốn nhắc nhở điều gì? Vì sao có sự xa lạ, cách biệt giữa người và
trăng? (Vì khơng gian khác biệt ; thời gian khác biệt; điều kiện sống nên có sự cách
biệt. Từ đó nhà thơ muốn nhắc nhở không nên quên quá khứ, phải thủy chung…).
Hoặc câu : “Nếu ánh trăng tượng trưng cho vẻ đẹp và những giá trị truyền thống, thì
lời thơ nói về sự vơ tình và giật mình của con người trước trăng có ý nhắc nhở ta điều
gì trong cuộc sống ?” (Phải trân trọng, giữ gìn vẻ đẹp và những giá trị truyền thống,
lãng quên quá khứ tốt đẹp là phản bội lại chính bản thân mình….).
Ở bài “ Lặng lẽ Sa Pa”, ở cuối bài cho HS thảo luận câu: “Vì sao tác giả khơng
đặt tên cụ thể cho từng nhân vật của mình mà chỉ gọi theo giới tính, tuổi tác, nghề
nghiệp ?” (Để ca ngợi những con người có phẩm chất tốt đẹp ở mọi lứa tuổi, mọi
ngành nghề, những con người âm thầm lặng lẽ cống hiến cho tổ quốc, làm tăng thêm
sức khái quát của truyện…..).
Ở bài “ Chiếc lược ngà” khi phân tích nhân vật bé Thu, có thể cho HS thảo luận
câu: “Bé Thu đã khơng nhận Ba vì vết sẹo trên mặt ông Sáu, nhưng cũng từ vết sẹo ấy,
Thu đã nhận ra người cha u q của mình. Theo em, có thể hiểu như thế được
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

8


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
khơng? Vì sao? (Được, vì Thu sợ vết sẹo do chưa biết ơng Sáu là cha mình. Khi biết ba
mình là Ơng Sáu, Thu đã hơn lên vết sẹo trên má ba nó. Đó là tình cảm ruột thịt….).
Hay câu : “Đọc Chiếc lược ngà, em cảm nhận được vẻ đẹp nào trong tình cảm cha con
Bé Thu? (Tình cha con sâu nặng, bền chặt dù trong hoàn cảnh éo le…….).

Ở bài “ Bàn về đọc sách” sau khi tìm hiểu văn bản, cho HS thảo luận câu:
“Những lời bàn trong văn bản “Bàn về đọc sách” cho ta những lời khuyên bổ ích nào
về sách và việc đọc sách ?” (Sách là tài sản tinh thần quí giá của nhân loại. Muốn có
học vấn phải đọc sách. Biết cách đọc sách thì mới tích lũy và nâng cao học vấn….).
Hay là câu: “Cách viết văn nghị luận trong bài “Tiếng nói của văn nghệ có gì giống và
khác so với bài “Bàn về đọc sách”? (đều là lập luận từ các luận cứ giàu lý lẽ, dẫn
chứng xác thực. Khác:Tiếng nói văn nghệ là bài nghị luận văn học nên có sự tinh tế
trong phân tích, sắc sảo trong tổng hợp, lời văn giàu hình ảnh và gợi cảm….).
Ở bài “Chó Sói và Cừu trong thơ ngụ ngơn của La-phơng-Ten” thảo luận
câu : “Trong hai cách nhìn của Buy-Phơng và của La-Phơng-Ten về lồi vật, em thích
cách nhìn nào hơn? Vì sao? (HS tự bộc lộ).
Trong bài “ Con cị”,có câu thảo luận : “Hình tượng con cị xuyên suốt lời ru
với những biểu tượng nào? (Con cò, đứa con nhỏ, người mẹ, cuộc đời) Hoặc câu: “Đọc
bài thơ Con cò, em cảm nhận những điều cao đẹp nào của tình mẹ và những lời ru ?
(Tình mẹ là tình cảm cao đẹp và bền bỉ vì nó được xây đắp bằng đức tính hy sinh qn
mình của tình yêu thương che chở…. Lời hát ru rất cần thiết vì nó ni dưỡng và bồi
đắp lịng nhân ái trong cuộc đời mỗi con người….).
Bài “ Nói với con” cho thảo luận câu: “Em cảm nhận như thế nào về lời thơ:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao q hương-Cịn q hương thì làm phong tục?”
(Con người lao động sáng tạo để tồn tại, để giữ vững truyền thống dân tộc, có ý chí
vươn lên khơng chùn bước trước khó khăn. Giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc. Ý chí
sống can trường dũng cảm…).
Bài “Mây và sóng” cho thảo luận câu : “Bài Mây và sóng nói với ta những
điều tốt đẹp nào trong cuộc sống tình cảm của con người? ” (Tình yêu mẹ là niềm vui
thiêng liêng, bền chặt trong tâm hồn con người).
Bài “ Những ngôi sao xa xôi”, thảo luận câu: “Qua truyện Những ngơi sao xa
xơi em hiểu gì về phẩm chất của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu
nước? ” (Sống trong sáng- không quản gian khổ, hy sinh…)
Với những câu hỏi có tính chất tình huống hoặc khái quát ,tổng hợp vấn đề cảm
thụ văn học như trên địi hỏi các em có tinh thần hợp tác .Và chính sự hợp tác đó sẽ

giúp các em nói một cách tự tin hơn.

3. Rèn kĩ năng nói qua tiết luyện nói ở phân mơn Tập làm văn.
a.Xác định mục đích u cầu của bài luyện nói :
Để cho học sinh có thể thực hiện tốt tiết luyện nói, chúng tơi cho trước đề tài
cho các em về nhà soạn, hướng dẫn các em:
- Xác định đề tài (Nói cái gì ?)
- Xác định đối tượng (Nói với ai?trong hoàn cảnh nào ?)
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

9


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
- Xác định mục đích (Nói để làm gì ?)
- Nội dung bài nói (Phải thu thập, lựa chọn điều cần nói)
- Cách thức nói (Nói sao cho thuyết phục người nghe)
- Thái độ nói : Tự tin, mạnh dạn
- Tác phong tự nhiên, giọng rõ ràng làm chủ tình huống.
b. Hướng dẫn học sinh soạn bài trước ở nhà :
Mỗi em đều phải soạn bài vào vở bài tập của mình ở nhà. Tới lớp, trước khi tiến
hành luyện nói, lớp trưởng kiểm tra việc soạn bài của lớp thơng qua tổ trưởng, nhóm
trưởng, sau đó báo cáo cho giáo viên. Để kiểm tra lại giáo viên kiểm tra lại khoảng từ
5-10 em
c. Tiến hành luyện nói :

Trước hết giáo viên cho học sinh nêu lại đề bài và ghi lên bảng. Tiếp theo cho
các em phân tích đề và nêu nội dung yêu cầu cần đạt theo các bước tiến hành mà các
em đã học. Sau đó, giáo viên treo bảng phụ có ghi dàn ý để các em theo dõi và cho các
em thảo luận và nói theo nhóm lớn (7-8 em). Phần mở bài cho một nhóm thảo luận;
phần thân bài có thể cho 2-3 nhóm thảo luận, tùy theo số luận điểm của đề tài; phần kết
luận, một nhóm thảo luận.Thời gian thảo luận và nói trước nhóm là 10 phút. Trong q
trình thảo luận, mỗi em trong nhóm phải nói lên được nội dung mà mình đã soạn ở
nhà để cả nhóm bàn bạc góp ý đi đến thống nhất và hình thành một đoạn văn tương đối
hồn chỉnh. Em được phân cơng ghi sẽ ghi ý chính vào bảng phụ. Cả nhóm đều phải
nắm vững ý kiến chung của tổ. Hết thời gian thảo luận, chúng tôi gọi một em đại diện
trong nhóm trả lời. Khi có một em nói, cả lớp sẽ theo dõi, ghi nhận xét vào phiếu. Mỗi
một em trình bày xong, GV sẽ chỉ định một em nhận xét đánh giá (có thể 2-3 em nhận
xét). Sau khi các nhóm trình bày xong, GV cho một em khá hoặc giỏi nói lại tồn bài
cho cả lớp nghe. Cuối cùng giáo viên góp ý bổ sung để lớp rút kinh nghiệm.
Các bước thực hiện trong tiết luyện nói tơi tiến hành theo trình tự sau đây:
- Bước 1: Kiểm tra việc chuẩn bị bài luyện nói của học sinh (2phút)
- Bước 2: Giáo viên cùng học sinh tìm hiểu đề và xây dựng dàn bài đại cương
(3-5 phút)
- Bước 3: Giáo viên nêu u cầu về hình thức nói, nội dung nói và các yêu cầu
khác (2phút)
- Bước 4: HS luyện nói trong nhóm ( 10 phút)
- Bước 5: HS luyện nói trước lớp ( 20-25 phút)
- Bước 5: Giáo viên tổng kết tiết luyện nói (3phút).
Đối với lớp 9, có 2 tiết luyện nói. Đó là: Luyện nói về tự sự kết hợp với nghị luận
và miêu tả nội tâm; Luyện nói về văn nghị luận: Nghị luận về một đoạn thơ-bài thơ.
Trong giờ luyện nói, chúng tơi chú ý nhắc nhở HS mấy điểm sau:
- Phải soạn bài ở nhà trước, soạn một dàn ý chi tiết và tự tập nói trước ở nhà
cho sn sẻ, mạch lạc.
- Khi nói trước tổ, trước nhóm phải nói rõ ràng, mắt tập trung hướng vào người
nghe.

- Không cười đùa trong khi trình bày bài nói.
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

10


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
c . Định hướng dàn ý cho tiết luyện nói
Ở tiết luyện nói thứ nhất: Tiết 65 (Tự sự kết hợp nghị luận và miêu tả nội
tâm) Có thể chọn 1 trong 3 đề có ở sách giáo khoa phần luyện tập. Tôi chọn đề 3:
“Dựa vào nội dung phần đầu tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đến
chỗ trót đã qua. Hãy đóng vai Trương Sinh kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm ân
hận.”
Trước khi tiến hành luyện nói, Giáo viên kiểm tra vở soạn của HS và các em
trình bày dàn ý vào bảng phụ, sau đó GV chốt lại và đưa ra bảng phụ mà GV đã chuẩn
bị sẵn lên bảng đen cho HS theo dõi để luyện nói và hướng dẫn HS :
- Phải xác định ngôi kể cho phù hợp (Tôi)
- Phải hóa thân vào Trương Sinh kể lại câu chuyện theo trình tự
- Các nhân vật và các sự việc cịn lại chỉ có vai trị như một cái cớ để nhân
vật Tơi giải bày tâm trạng của mình.
Dàn ý:
*. Mở bài : Tự giới thiệu về mình, nêu mối quan hệ với Vũ Nương trong câu chuyện.
*. Thân bài: Kể lại nội dung đoạn truyện (ngôi kể là ngôi thứ nhất: tơi – Trương Sinh).
Trong q trình kể có thể hiện sự hối hận của người kể.
*. Kết luận: Trương Sinh suy nghĩ về cái chết của Vũ Nương và ân hận về việc làm

của mình
Ở tiết luyện nói thứ 2 trong chương trình: Tiết 142 (Nghị luận về một đoạn thơ, bài
thơ). Có thể linh động chọn đề bài sau:
Đề: Phân tích khổ thơ đầu trong bài “Sang thu “của Hữu Thỉnh.
a. Yêu cầu :
- Nghị luận về một khổ thơ trong bài thơ
- Vấn đề nghị luận: Phân tích, cảm nhận về cái hay cái đẹp về nội dung và
hình thức của khổ thơ đầu trong bài thơ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh
b. Dàn ý :
*. Mở bài : - Giới thiệu tác giả-Tác phẩm
- Giới thiệu khổ thơ đầu-Nêu khái quát về giá trị nội dung của
khổ thơ.
*. Thân bài :
* Cảm nhận thu sang của tác giả.
- Bức tranh vơ hình của thời gian: Khúc giao mùa: hạ-thu
- Bức tranh được vẽ lên bởi giác quan đa dạng của người họa sĩ. (Bắt đầu là
khứu giác"xúc giác -> Thị giác -> đến cảm nhận của nhà thơ)
- “Mùi hương ổi phả vào trong gió se”- Câu thơ có cái ấm nồng của mùa hạ lại
có cái lạnh se của mùa thu -> Sự giao mùa kỳ diệu. Dòng cảm xúc bất ngờ.
- Hai câu thơ đầu thoáng chút bâng khuâng xao xuyến.
- Mạch cảm xúc tiếp tục ở 2 câu cuối: “Sương chùng chình qua ngõ-Hình
như thu đã về”: Sương chùng chình đi qua như cố ý chậm lại. Một cảm giác mơ hồ, hư
hư thực thực ấy đã gợi nên một thời điểm nhạy cảm rất khó xác định “ hình như thu
đãvề”
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân


11


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
* Phân tích vẻ đẹp, hay của các từ ngữ “hương ổi, phả, gió se, chùng
chình, hình như”
* Suy nghĩ về mùa thu thiên nhiên thời khắc giao mùa :
- Từ cái bất ngờ nhận ra tín hiệu mùa thu, xen lẫn vào những cảm xúc có phần
nào bâng khuâng luyến tiếc.
- Cảm nhận bằng các giác quan một cách tinh tế nhạy cảm Qua đó thể hiện
tình u thiên nhiên, yêu làng quê , yêu mùa thu.
*. Kết luận :
- Qua hình ảnh, hương vị quen thuộc, gần gũi đặc trưng của mùa thu và
những cảm nhận tinh tế, tác giả đã thể hiện thành công vẻ đẹp thiên nhiên thời điểm
giao mùa.
c. Những điểm cần chú ý trong tiết luyện nói :
- Ở tiết luyện nói nào cũng chú ý khâu chuẩn bị của học sinh, các em chuẩn bị
càng kĩ tiết luyện nói càng hiệu quả
- Ở tiết dạy trên lớp, giáo viên cần :
+ tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm và luyện nói trước nhóm, nói trước
lớp
+ chú ý hướng dẫn kĩ về hình thức và nội dung nói
+ theo dõi và cho học sinh ghi chép những điều cần nhận xét

4. Rèn kĩ năng nói qua một giáo án cụ thể.
Với những lớp mà đối tượng học sinh đa số học tốt mơn văn thì giáo viên có thể
cho luyện nói theo yêu cầu của đề bài trong sách giáo khoa (tiết 140 -Luyện nói -Nghị
luận về một đoạn thơ bài thơ).Việc rèn kĩ năng nói cho học sinh đã được chúng tôi chú
ý thể hiện qua các hoạt động dạy- học ở giáo án sau đây.

Tiết 142

LUYỆN NÓI :
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ
I) Mục tiêu cần đạt :
1.KiÕn thức :
- Những yêu cầu đối với luyện nói khi bàn luận về một đoạn thơ, bài thơ trớc tập
thể.
2.Kĩ năng:
- Lập ý và cách dẫn dắt vấn đề khi nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
- Trình bày miệng một cách mạch lạc những cảm nhận, đánh giá của mình về
một đoạn thơ, bài thơ.
3. Thỏi : HS sôi nổi, hứng thú học tập.
II. Chuẩn bị.
1. Giáo viên: Giáo án, sgk, bài nói mẫu.
2.Học sinh :
- Hs đọc thuộc bài thơ Bếp lửa
- Lập dàn ý theo đề bài : Bếp lửa sưởi ấm một đời – Bàn về bài thơ
bếp lửa của Bằng Việt
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

12


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9

- Chuẩn bị dàn ý đại cương, dàn ý chi tiết, bảng phụ
- Đem sgk văn 9/1, tập trình bày miệng theo dàn ý trước ở nhà.
III/ Tiến trình tổ chức các họat động dạy học :
1) Ổn định lớp :
2) Kiểm tra bài cũ : (5 phút) GV kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh
3) Giới thiệu bài mới : (2 phút )
Việc rèn kỹ năng nói rất cần thiết đối với các em .Nói như thế nào cho rõ ràng
mạch lạc, tự tin nhất là trình bày nói cho bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ như
hôm nay. Cô tin rằng với sự chuẩn bị có nhiều cố gắng của các em, tiết luyện nói hơm
nay sẽ đạt được những hiệu quả tốt.
4) Các hoạt động dạy - học :
Hoạt động của thầy
Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh,
phân tích đề, lập dàn ý
GV: Nhắc lại qui trình của một bài tập
làm văn? (hs trả lời, gv nhắc lại cho học
sinh khắc sâu)
GV cho học sinh nhắc lại đề bài, gv ghi
bảng.
GV:
1.
+ Đề bài thuộc kiểu bài gì?
2.
+ Dạng bài nghị luận cụ thể là gì ?
+ Đề yêu cầu nghị luận về vấn đề nào
trong bài thơ ?
GV chốt :Về kiểu bài, dạng bài nghi
luận về Bài thơ, (ghi bảng Phần phân
tích đề)
Hướng dẫn hs lập ý:

+ Theo yêu cầu đề tài, phần mở bài ta
phải làm gì?
1.
+ Phần thân bài, để nghị luận về vấn đề
đó trong bài thơ, em cần xây dựng hệ
thống luận điểm như thế nào?
+Dùng những luận cứ, luận chứng nào?
+Kết bài ra sao?
2.
(cho hs trao đổi nhóm, thảo luận) sau đó
ghi bảng phụ và trình bày ở bảng, các
a.
nhóm khác nhận xét, gv nhận xét về dàn
ý và đưa ra dàn ý đại cương ở bảng phụ
cho hs tham khảo và so sánh.
GV: Hà Thị Nhung



Hoạt động của trò
Đề bài:
Bếp lửa sưởi ấm một đời –Bàn về bài
thơ bếp lửa của Bằng Việt

I/ Phân tích đề:
Kiểu bài: Nghị luận về bài thơ
Nội dung: Bếp lửa sưởi ấm một đời. (Bếp
lửa từ trong kỉ niệm của tuổi thơ luôn sưởi
ấm tâm hồn, nâng đỡ con người trên chặng
hành trình dài của cuộc đời )


II/ Dàn ý đại cương
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp
lửa
- Khái quát giá trị của bài thơ và hình
ảnh Bếp lửa
Thân bài: Nghị luận về vấn đề trong bài
thơ
Hình ảnh Bếp lửa khơi nguồn cho những
cảm xúc về bà :
-Sự liên tưởng từ hình ảnh thân thương,ấm
áp : Bếp lửa
Trường THCS Tống Trân

13


Phòng GD – ĐT Phù Cừ

Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9

Hoạt động 2: Hướng dẫn hs tiến hành
nói.
GV cho học sinh nói trong nhóm
(10ph), nói trước lớp 20 ph.
GV hướng dẫn yêu cầu nói.
+ Nói trước nhóm: Đứng lên, mỗi em
nói một phần theo qui định của tổ, cả tổ
chú ý lắng nghe và chọn bạn nói tốt

nhất đề xuất nói trước lớp.
+ Nói trước lớp cần chú ý:
- Về hình thức: Có lời mở đầu (lời
chào, giới thiệu) lời kết thúc (lời cảm
ơn); lời nói rõ ràng, gọn, có ngữ điệu;
chú ý quán xuyến đối tượng nghe.
- Về nội dung: Đảm bảo nội dung trong
dàn ý, ý mạch lạc.
+ Đối tượng nghe: Tập trung theo dõi
3.
bạn nói, nhận xét bạn nói theo yêu cầu
trên.
Tiến hành nói: Sau 10 phút nói trong
nhóm, gv cho hs nói trước lớp:
+ 2 em nói MB
+ 2 em nói TB
+ 2 em nói KB
+ 2 em nói cả bài
+ 2 em nói cho cả lớp nhận xét, so sánh,
rút ra ưu điểm, hạn chế
+gv nhận xét, chỉ rõ ưu điểm, khuyết
điểm, bổ sung những gì cịn thiếu sót.
Hoạt động 3: GV tổng kết tiết học.
+ Nhận xét về sự chuẩn bị của hs.
+ Về tiết luyện nói của hs: ưu điểm, tồn
tại, cần khc phc tit sau...
+ Xem lại dàn ý của bài nói.
+ Giáo viên nhắc lại sự cần thiết phải
chuẩn bị tốt dàn bài để có thể làm tốt
bài nói hoặc viết.

* Hoạt động 5. Hớng dẫn học bài :
- Hớng dẫn học sinh về nhà tiếp tục
luyện tập.
- Soạn bài : Những ngôi sao xa xôi"
GV: H Th Nhung



- Bếp lửa của tuổi thơ nhọc nhằn gian khổ
sống bên bà
b.Bếp lửa sưởi ấm tâm hồn tuổi thơthơ
-Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp
-Bếp lửa gợi những liên tưởng trong kỉ
niệm về bà
c.Bếp lửa với những suy ngẫm về bà
- Bà là người nhóm lửa ,người giữ lửa .
- Ngọn lửa trở thành kỉ niệm thân thương
,thành niềm tin thiêng liêng kì diệu .
- Ngọn lửa của tình yêu thương ,niềm tin
nâng bước cháu trong suốt chặng đường dài
của cuộc đời
d.Bếp lửa-hình tượng thơ đặc sắc :
->Vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa
biểu tượng
Kết bài:
- Khẳng định giá trị của hình tượng bếp lửa
- Suy nghĩcủa bản thân về hình ảnhBếp lửa

Trường THCS Tống Trân


14


Phòng GD – ĐT Phù Cừ

Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9

5/ Kết quả nghiên cứu.
Qua 5 năm được phân công dạy Ngữ văn 9, Năm học 2011 -2012, với những cố
gắng của bản thân trong việc Rèn kĩ năng nói qua hoạt động thảo luận nhóm và luyện
nói cho học sinh đã có những hiệu quả nhất định. Học sinh tham gia phát biểu sơi nổi,
có chiều hướng ham thích học mơn văn hơn. Học sinh có tinh thần tập thể cao, có tinh
thần tự giác, ý thức được tầm quan trọng của việc tự học và công tác chuẩn bị bài trước
khi đến lớp. Với biện pháp thực hiện trên giúp học sinh mạnh dạn hơn khi nói trước
đám đơng, có thói quen tốt trong việc học. Và cũng giúp cho những em học yếu, lười
khơng cịn ỷ lại trông chờ vào những em học khá. Từ em khá đến em yếu đều có thể
nói được trước lớp.
Qua quá trình rèn luyện, trong năm học 2011-2012, kết quả về chất lượng của
việc luyện nói cũng như chất lượng môn Ngữ văn cao hơn kết quả của những năm học
trước.Cụ thể như sau :
* Năm học 2010-2011:
Điểm nói

Giỏi
(9-10)

Khá
(7-8)

TB

(5-6)

Yếu
(3-4)

Kém
(1-2)

0

3/34

16/34

10/34

5/34

0

5/34

19/34

8/34

2/34

Giỏi
(9-10)


Khá
(7-8)

TB
(5-6)

Yếu
(3-4)

Kém
(1-2)

2/32

12/32

11/32

6/32

1/32

5/32

13/32

10/32

4/32


0

Nội dung
Luyện nói tự
sự kết hợp
nghị luận và
miêu tả nội
tâm
Nghị luận về
một bài thơ,
đoạn thơ.

* Năm học 2011-2012:
Điểm nói
Nội dung
Luyện nói tự
sự kết hợp
nghị luận và
miêu tả nội
tâm
Nghị luận về
một bài thơ,
đoạn thơ.

GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân


15


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
Trong năm học 2011 – 2012, tôi tiến hành 2 đợt khảo sát khả năng nói (trình bày
miệng) của học sinh với thời gian 6 tiết học (giờ dạy chủ đề tự chọn) kết quả thu được
như sau:
- Học kỳ I: Khoảng 70% học sinh nói đạt mức trung bình trở lên (nói sn sẻ, diễn
đạt tương đối mạch lạc, dễ nghe, trình bày nội dung tương đối đầy đủ)
- Học kỳ II : 87% học sinh nói đạt mức trung bình trở lên (nói rõ ràng, khúc triết, tự
tin và truyền cảm) số học sinh nói đạt mức khá, giỏi cao hơn.
Kết quả đó cao hơn so với kết quả khảo sát của những năm học trước.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN.
Qua quá trình nghiên cứu và vận dụng đề tài, bản thân tôi rút ra được những bài học
kinh nghiệm cho giáo viên và học sinh như sau:
1. Về giáo viên : Muốn thực hiện đạt yêu cầu việc luyện nói cho học sinh giáo viên
cần:
- Đầu tư vào bài soạn, nghiên cứu kỹ để có câu hỏi thảo luận cho học sinh.
- Câu hỏi phải khuyến khích được tất cả HS trong lớp suy nghĩ. Câu hỏi phải ngắn gọn,
rõ ràng, vừa sức để học sinh có thể trả lời
- Ngay từ đầu, xây dựng cho học sinh phương pháp học tập, những qui định đối với
học sinh về việc học nói chung, mơn văn nói riêng.
- Hướng dẫn cho học sinh cách học cũng như cách soạn bài (Nhất là đối với tiết luyện
nói)
- Có kế hoạch kiểm tra phần chuẩn bị bài của HS
- Rèn cho học sinh biết tự tổ chức thảo luận nhóm
Cần biết lắng nghe và tơn trọng ý kiến HS, tạo điều kiện, dẫn dắt HS thể hiện quan

điểm cá nhân của mình.
- Ln ln theo sát diễn biến của cuộc thảo luận và có thể tham gia như một thành
viên.
- Nắm vững qui trình tiết luyện nói và tiến hành các bước một cách linh hoạt, thuần
thục.
2. Về học sinh :
- Đầy đủ dụng cụ học tập, nhất là bảng phụ, chuẩn bị cả về ngôn ngữ để có
được hành văn lưu lốt, ý tứ phong phú.
- Mỗi cá nhân cần phải chuẩn bị bài kĩ trước ở nhà.
- Trước khi thảo luận, cần phải xác định vấn đề cần thảo luận.
- Mỗi cá nhân cần phải tự tin, thoải mái khi tham gia thảo luận, nói trước
nhóm, nói trước lớp.
- Mỗi cá nhân đều phải tích cực và ý thức hoạt động trong nhóm.
- Mỗi cá nhân đều phải ghi chép cụ thể và đầy đủ ý kiến sau khi tổ đã bàn
bạc thống nhất
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

16


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
Tóm lại ,dạy văn là một cơng việc địi hỏi tính khoa học, nghệ thuật và sáng
tạo. Do vậy người dạy văn phải có sự nghiên cứu, tìm tịi, vận dụng một cách linh hoạt
các phương pháp dạy - học mới để việc tổ chức các hoạt động dạy - học văn bản trở
nên phong phú, đa dạng và có chiều sâu. Rèn kĩ năng nói cho học sinh qua hoạt động

nhóm trong tiết Đọc-hiểu văn bản và luyện nói ở mơn ngữ văn 9 là một hoạt động
mang tính chun mơn của người giáo viên dạy văn trong q trình thực thi giảng dạy.
Điều đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy - học văn nói nói riêng và cho bộ mơn
Ngữ văn nói chung.
Vấn đề được trình bày trên đây dưới dạng một sáng kiến kinh nghiệm, khơng có
mong muốn gì hơn được bày tỏ những đóng góp nhỏ vào cơng việc giảng dạy văn và
mong được q thầy cơ góp ý. Trong q trình giảng dạy, tôi sẽ nỗ lực nhiều hơn nữa
để làm tốt nhiệm vụ của người giáo viên dạy văn.
II/ KHUYẾN NGHỊ :
- Là giáo viên, ai cũng mong muốn giờ dạy của mình sơi nổi và đạt được mục đích
giáo giục, tuy nhiên không phải ai hay lúc nào cũng làm được điều đó.
- Qua thực tế giảng dạy tơi đã thấy và đã rất cố gắng để nâng cao chất lượng giờ dạy
của mình bằng việc áp dụng đề tài này vào trong giảng dạy. Rất mong các Thầy giáo,
Cô giáo bộ môn Ngữ văn cùng trao đổi, áp dụng hoặc trên cơ sở của đề tài này có
những phương pháp làm cho học sinh phát huy được khả năng trình bày miệng (nói)
một cách hiệu quả nhất từ đó bồi dưỡng lòng yêu văn, hứng thú học văn cho học sinh.
Với vai trò là giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi mạnh dạn đề xuất một số vấn đề:
* Đối với giáo viên:
+ Giáo viên dạy các cấp mầm non và tiểu học cần chú ý hơn đến việc rèn kĩ năng phát
âm chuẩn cho học sinh .
+ Giáo viên dạy Ngữ văn THCS cần có sự đầu tư giảng dạy trong việc rèn kĩ năng nói
và phải thực hiện thường xuyên đồng bộ từ các lớp 6,7,8 đến lớp 9 .
* Đối với các cấp lãnh đạo :
- Tiếp tục phát huy việc tổ chức các hoạt động sinh hoạt chuyên môn, học tập chuyên
đề về việc rèn kĩ năng nói cho học sinh để giáo viên các trường được giao lưu, trao
đổi,học hỏi…
- Cung cấp tài liệu, băng hình về việc rèn kĩ năng nói cho học sinh trong dạy -học Ngữ
văn.
- Tăng tiết luyện nói trong chương trình Ngữ văn ở khối lớp 8, 9 để học sinh có nhiều
thời gian hơn cho việc rèn kĩ năng nói cũng là kĩ năng nhận thức, cảm thụ văn học của

bản thân.
Trên đây chỉ là kinh nghiệm chủ quan rút ra từ quá trình giảng dạy và tham khảo
tài liệu của riêng bản thân tôi mặc dù kết quả chưa cao nhưng đó cũng là sự cố gắng nỗ
lực của thầy và trị chúng tơi. Vì điều kiện nghiên cứu cịn hạn chế nên khơng thể tránh
hết những thiếu sót vì vậy rất mong q thầy cơ, các bạn đồng nghiệp, Hội đồng khoa
GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

17


Phòng GD – ĐT Phù Cừ
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9
học các cấp xét duyệt sáng kiến kinh nghiệm này góp ý, bổ sung thêm để SKKN của
bản thân tơi được hồn chỉnh hơn./.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Tống Trân, ngày 28 tháng 11 năm 2012
Người viết

Hà Thị Nhung

GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân


18


Phòng GD – ĐT Phù Cừ

Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 9.
- Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn.
- Các chuyên đề bồi dưỡng Gv về đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra
đánh giá học sinh.
- Tài liệu hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn bậc THCS.
---------------------------------------------------------

GV: Hà Thị Nhung



Trường THCS Tống Trân

19



×