Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

đổi mới tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên quân đội đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 119 trang )



`ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





NGÔ XUÂN LIỄU






ĐỔI MỚI TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN NGHỀ
VÀ GIỚI THIỆU VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN QUÂN
ĐỘI ĐÃ HOÀN THÀNH NGHĨA VỤ QUÂN SỰ



LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 05








Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. PHẠM TẤT DONG






HÀ NỘI - 2006


MỤC LỤC


1. Lý do chọn đề tài 1
2. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Mục đích nghiên cứu 2
4. Đối tượng và MỞ ĐẦU
khách thể nghiên cứu 2
5. Phương pháp nghiên cứu 3
6. Phạm vi nghiên cứu 3
7. Giả thiết nghiên cứu 3
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3
9. Cấu trúc luận văn 4

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 5
1.2. Những khái niệm cơ bản 6
1.2.1. Khái niệm nghề 6

1.2.2. Khái niệm việc làm 14
1.2.3. Mối quan hệ giữa tư vấn nghề và giới thiệu việc làm 18
1.3. Tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm 19
1.3.1. Khái niệm chung về Quản lý và Tổ chức 20
1.3.2. Tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và an ninh quốc phòng 21
1.3.3. Nội dung và phương pháp tổ chức hoạt động tư vấn nghề
và giới thiệu việc làm tại đơn vị cơ sở 24
1.4. Những đặc trưng của tổ chức hoạt động tư vấn nghề
và giới thiệu việc làm Quân đội 35
1.4.1. Cơ cấu chỉ đạo xúc tiến việc làm Bộ Quốc phòng 35
1.4.2. Mục tiêu, nội dung hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm
Quân đội 36
1.4.3. Các hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động tư vấn nghề
và giới thiệu việc làm trong Quân đội 36
1.5. Các điều kiện đảm bảo. 37
1.5.1. Môi trường kinh tế- xã hội và khoa học- công nghệ 37
1.5.2. Nhận thức của cán bộ quản lý và các tầng lớp nhân dân 37
1.5.3. Đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn nghề và giới thiệu việc làm 37
1.4.4. Nguồn tài chính, cơ sở vật chất và công cụ phục vụ hoạt động
tư vấn nghề và giới thiệu việc làm 38

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TƢ VẤN NGHỀ


VÀ GIỚI THIỆU VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN QUÂN ĐỘI
ĐÃ HOÀN THÀNH NGHĨA VỤ QUÂN SỰ.

2.1. Thực trạng tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm
ở nước ta. 39

2.1.1. Tình hình lao động – việc làm. 39
2.1.2. Thực trạng tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm.
44
2.2. Thực trạng mô hình tổ chức và kết quả hoạt động tư vấn nghề
và giới thiệu việc làm của hệ thống Xúc tiến việc làm Quân đội 49
2.2.1. Thực trạng mô hình tổ chức của hệ thống Xúc tiến việc làm
Quân đội 49
2.2.2. Thực trạng kết quả hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm
của hệ thống Xúc tiến việc làm Quân đội 51
2.3. Thực trạng tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm
tại các đơn vị cơ sở của hệ thống Xúc tiến việc làm Quân đội. 56
2.3.1. Thực trạng biên chế tổ chức và đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ
tư vấn nghề giới thiệu việc làm 56
2.3.2. Thực trạng tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động
tư vấn nghề và giới thiệu việc làm 58
2.3.3. Thực trạng nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động
tư vấn nghề và giới thiệu việc làm 61
2.3.4. Đánh giá chung. 67

Chƣơng 3: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TƢ VẤN NGHỀ
VÀ GIỚI THIỆU VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN QUÂN ĐỘI
ĐÃ HOÀN THÀNH NGHĨA VỤ QUÂN SỰ.

3.1. Một số quan điểm đặt ra cho công tác đổi mới tổ chức hoạt động
tư vấn nghề và giới thiệu việc làm. 69
3.2. Các giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới
thiệu việc làm cho thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. 70
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm đổi mới và nâng
cao nhận thức của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân về vị trí, vai trò và
ý nghĩa của công tác tư vấn nghề và giới thiệu việc làm trong

giai đoạn hiện nay. 70
3.2.2. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước, Quân đội bằng việc đề ra
cơ chế, chính sách tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động
tư vấn nghề và giới thiệu việc làm, làm cơ sở kiện toàn bộ máy
tổ chức tư vấn nghề và giới thiệu việc làm ở đơn vị cơ sở phù hợp
với chức năng nhiệm vụ trong tình hình mới. 72
3.2.3. Đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động gắn liền với công tác


biên soạn tài liệu, xây dựng công cụ và quy trình tư vấn nghề
và giới thiệu việc làm. 76
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế quản lý đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn nghề
và giới thiệu việc làm. 81
3.2.5. Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động tư vấn nghề
và giới thiệu việc làm cho thanh niên Quân đội
đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự 88
3.3. Kiểm chứng tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp
thông qua phiếu khảo sát cán bộ quản lý và chuyên gia. 90

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC






CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN



Xúc tiến việc làm XTVL
Tư vấn nghề TVN
Giới thiệu việc làm GTVL
Thị trường lao động TTLĐ
Lực lượng lao động LLLĐ
Lao động kỹ thuật LĐKT
Chuyên môn kỹ thuật CMKT
Dịch vụ việc làm DVVL
Lao động LĐ
Tổ chức Lao động Quốc Tế ILO


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong bối cảnh đất nước đang phát triển, từng bước hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới, mở ra nhiều cơ hội học tập cho mọi thành viên trong xã hội,
hàng vạn Bộ đội phục viên xuất ngũ mỗi năm đang đứng trước sự lựa chọn
tương lai cho mình với câu hỏi “sẽ học nghề gì?” và “sẽ làm việc gì?” để lập
thân, lập nghiệp và góp phần xây dựng đất nước. Trước thực trạng đó, hoạt động
tư vấn nghề và giới thiệu việc làm là vấn đề cần tính đến.
Nước ta, với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung theo cơ chế bao cấp kéo
dài nhiều năm, hiện đang dần chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Gần 20 năm đổi mới đã trôi qua, song nhiều hoạt động, trong đó
có hoạt động tư vấn nghề chưa được quan tâm đúng mức. Điều đó đã dẫn đến hậu
quả là việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng. Tại cuộc
hội thảo Đối thoại Pháp - Á về “Vấn đề và hướng đi cho giáo dục hướng nghiệp

tại Việt Nam”, được tổ chức tại khoa Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội, nhiều
đại biểu đã bức xúc nêu rõ: đại đa số học sinh phổ thông sau Trung học không
đánh giá được năng lực của mình, cũng không biết rõ mình thích nghề gì. Những
câu hỏi: đi đâu? học trường nào? làm nghề gì sau khi tốt nghiệp Trung học cơ sở,
Trung học phổ thông? thường là những phương trình có nhiều ẩn số, là những câu
hỏi gay cấn khó giải đáp nhất. Các em đó đang cần được tư vấn chọn nghề. Một
số học sinh khi đã bước vào trường chuyên nghiệp mới vỡ lẽ rằng “mình chọn
nhầm nghề”. Một cuộc thăm dò ý kiến 700 học sinh học nghề cho thấy: 12% thờ
ơ với nghề đang học, 17,4% muốn chuyển nghề [24, tr.129]. Với thanh niên Quân
đội, sau thời gian phục vụ trong quân ngũ theo luật nghĩa vụ quân sự cũng rơi
vào tình trạng tương tự. Tất cả những điều trình bày ở trên nói lên rằng tư vấn
nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên, nói chung và thanh niên Quân đội,
nói riêng là cần thiết và cấp bách.

2
Trước tình hình đó, Nghị quyết 120/HĐBT, ngày 11/04/1992 của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về “Chủ trương, phương hướng và biện
pháp giải quyết việc làm trong những năm tới” được ban hành. Hệ thống Xúc
tiến việc làm Quân đội, theo đó cũng được thành lập nhằm mục đích để giải
quyết việc làm cho thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, công nhân viên
chức quốc phòng diện dôi dư biên chế, con em thương binh, liệt sĩ và các đối
tượng chính sách, xã hội khác, góp phần giải quyết chính sách hậu phương Quân
đội, tăng cường lực lượng quân dự bị động viên, đáp ứng với yêu cầu, đòi hỏi
khi có chiến tranh xảy ra, phù hợp với quan điểm xây dựng Nền Quốc phòng
toàn dân, Chiến tranh nhân dân của Đảng và Nhà nước ta.
Từ khi thành lập và bước vào hoạt động cho đến nay đã được hơn 10 năm,
nhưng, tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm của hệ thống Xúc tiến
việc làm Quân đội vẫn chưa có gì thay đổi đáng kể. Chính vì lý do đó, chúng tôi đã
chọn “Đổi mới tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên
Quân đội đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự” làm nội dung nghiên cứu cho luận văn

của mình.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Xác định cơ sở lý luận tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc
làm cho thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
- Đánh giá thực trạng tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc
làm trong Quân đội.
- Đề xuất một số giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới
thiệu việc làm cho thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
3. Mục đích nghiên cứu.
Đề xuất một số giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động nhằm nâng cao hiệu
quả công tác tư vấn nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên đã hoàn thành
phục vụ tại ngũ, giúp họ chọn đúng ngành nghề phù hợp với khả năng và có
được việc làm để lập thân, lập nghiệp.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu.

3
- Khách thể nghiên cứu: công tác tư vấn nghề và giới thiệu việc làm cho
thanh niên Quân đội.
- Đối tượng nghiên cứu: đổi mới tổ chức hoạt động của công tác tư vấn nghề
và giới thiệu việc làm cho thanh niên Quân đội đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn, khảo sát.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp thử nghiệm.
6. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu
việc làm cho thanh niên Quân đội đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trên địa bàn cả
nước.

7. Giả thuyết của vấn đề nghiên cứu.
Nếu xây dựng được các giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động tư vấn nghề
và giới thiệu việc làm, quán triệt được các yêu cầu, nhiệm vụ thì công tác tư vấn
nghề và giới thiệu việc làm sẽ đạt hiệu quả cao.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
- Ý nghĩa khoa học.
Luận văn là bản tổng kết lý luận về tư vấn nghề và giới thiệu việc làm
trong Quân đội, làm cơ sở cho nhà quản lý đổi mới tổ chức hoạt động tư vấn
nghề và giới thiệu việc làm có hiệu quả, đồng thời, làm tiền đề cho nghiên cứu
vấn đề hướng nghiệp trong Quân đội.
- Ý nghĩa thực tiễn.
Đề tài giúp cho các cấp quản lý trong Quân đội và bên ngoài xã hội nhận
thức được vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tư vấn nghề và giới
thiệu việc làm, từ đó tổ chức hoạt động có hiệu quả để trang bị nghề nghiệp và
giải quyết việc làm cho thanh niên Quân đội đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự

4
đúng với khả năng, mong muốn của bản thân họ, cũng như phù hợp với nhu cầu
nhân lực, sự phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương và cả nước. Đồng
thời, tổ chức tốt hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm cũng giúp cho việc
đào tạo nguồn nhân lực của Quân đội, nói riêng và cả nước, nói chung theo cơ
cấu trình độ và ngành nghề một cách hợp lý.

9. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục
luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm
cho thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
Chƣơng 3: Giải pháp tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm cho

thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
















5




Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Giải quyết việc làm và phát triển nguồn nhân lực đang là mối quan tâm hàng
đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển và
có nguồn nhân lực dồi dào như ở nước ta. Vấn đề lao động - việc làm trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang là một trong những vấn đề kinh tế, xã
hội được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Cùng với phát triển nền kinh tế

thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì lao
động – việc làm cũng được đổi mới một cách căn bản cả về nhận thức, về chủ
trương chính sách và thực tiễn. Trong quá trình phát triển đó, hoạt động tư vấn
nghề và giới thiệu việc làm cũng hình thành và phát triển ở Việt Nam nhằm đáp
ứng một cách khách quan về cung – cầu nhân lực trong thị trường lao động.
Trong nước và quốc tế đã có nhiều đề tài nghiên cứu, tài liệu và báo cáo khoa
học bàn về vấn đề tư vấn nghề và giới thiệu việc làm. Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) đã xuất bản nhiều tài liệu mang tính tổng kết thực tiễn và hướng dẫn tổ chức
hoạt động dịch vụ việc làm, là cẩm nang quan trọng đối với các nước có thị trường
lao động mới hình thành như ở nước ta. Các tài liệu phải kể đến như: “Employment
Service – A Guide Book”, ILO, Bangkok, 1999 (sách hướng dẫn về dịch vụ việc làm
của Tổ chức Lao động Quốc tế, xuất bản tại Băng Cốc năm 1999); hay “The Public
Employment Service in a Changing Labour Market”, ILO, Geneva, 2001 (Dịch vụ
việc làm công trong một thị trường lao động luôn biến động, sách của Tổ chức Lao
động Quốc tế, được xuất bản tại Giơ ne vơ năm 2001) v.v…
Đối với trong nước, nhiều nhà giáo dục học, nhà hoạt động trong lĩnh vực lao
động, nghề nghiệp và việc làm đã có những đóng góp to lớn cho sự hình thành và phát
triển của hoạt động hướng nghiệp, trong đó có hoạt động tư vấn nghề và việc làm cho

6
thanh, thiếu niên và học sinh, như: Phạm Tất Dong, Lê Đức Phúc, Nguyễn Thế
Trường, Phạm Huy Thụ, Đặng Danh Ánh, Đoàn Chi, Phan Ngọc Luận, Nguyễn Thế
Quảng, Phạm Thị Thanh, Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Viết Sự, Đỗ Thị Hòa, Mạc Văn
Trang v.v… Nhiều sách, tài liệu đã được xuất bản, như: “Giúp bạn chọn nghề” (1989)
của tác giả Phạm Tất Dong, cuốn sách đã được Nhà xuất bản Thanh niên tái bản tháng
7 năm 2006 với nhiều tác giả cùng tham gia, đồng thời đã được bổ sung nhiều thông
tin, tri thức mới trong lĩnh vực tư vấn chọn nghề và việc làm trong bối cảnh hiện nay;
“Tài liệu tập huấn tư vấn nghề cho học sinh phổ thông năm 1992, 1994” do Phạm
Huy Thụ chủ biên, đã đưa ra những quy trình và các TEST trắc nghiệm lý thú, sinh
động được sử dụng trong công tác tư vấn hướng nghiệp. Đặc biệt, nhiều bài tham luận

có giá trị của các tác giả tâm huyết với công tác hướng nghiệp đã được tổng hợp trong
Kỷ yếu hội thảo Đối thoại Pháp - Á về “Vấn đề và hướng đi cho giáo dục hướng
nghiệp tại Việt Nam”, tổ chức tại Khoa Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội. Bên
cạnh đó, báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học mã số CB -2001: “Xác định nội dung
hoạt động dịch vụ việc làm và cơ chế chính sách để nâng cao hiệu quả hoạt động dịch
vụ việc làm”, do tác giả Doãn Mậu Diệp trình bày, đã làm sáng tỏ sự hình thành mang
tính tất yếu khách quan của hoạt động dịch vụ việc làm ở nước ta trong bối cảnh nền
kinh tế đang dần chuyển sang cơ chế thị trường.
Những tài liệu nêu trên đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của công
tác tư vấn nghề và giới thiệu việc làm. Tuy nhiên, chưa có tài liệu nào đề cập
đến công tác tư vấn nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên Quân đội đã
hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
1.2. Những khái niệm cơ bản.
Bất cứ việc làm nào cũng gắn bó với một nghề cụ thể (hoặc một chuyên
môn cụ thể), song không thể coi việc làm với nghề là đồng nghĩa. Hoặc, đôi khi,
do xuất phát từ quan niệm về những kỹ năng của một hay nhiều nghề được cá
nhân sử dụng trong quá trình lao động đã dẫn tới sự nhầm lẫn giữa nghề nghiệp
với việc làm. Do vậy, trước hết, chúng ta cần phân biệt giữa nghề và việc làm
bằng cách làm rõ các khái niệm liên quan.

7
1.2.1. Khái niệm Nghề.
Nghề hay nghề nghiệp được nảy sinh, phát triển, tồn tại cùng với sự phát
triển của xã hội. Trong xã hội công xã nguyên thủy, khi trình độ sản xuất còn
thấp kém, chưa có sự phân công lao động theo những chuyên môn nhất định, vì
vậy khái niệm nghề nghiệp chưa được rõ ràng, cụ thể.
Nghề nghiệp, theo chữ La tinh (Professio), có nghĩa là công việc chuyên
môn được hình thành một cách chính thống, là dạng lao động đòi hỏi một trình
độ học vấn nào đó, là hoạt động cơ bản giúp con người tồn tại.
Theo từ điển Tiếng Việt, nghề là “công việc chuyên làm theo sự phân

công lao động của xã hội”.
Theo tác giả E.A. Klimốp thì: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức
mạnh vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã
hội (do sự phân công lao động xã hội mà có), nó tạo cho mỗi con người khả
năng sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cho việc tồn tại
và phát triển” [23, tr.10].
Bất cứ nghề nghiệp nào cũng hàm chứa trong nó một hệ thống giá trị: tri
thức lý thuyết, kỹ năng, kỹ xảo nghề, truyền thống nghề, đạo đức phẩm chất
nghề, hiệu quả do nghề mang lại. Những giá trị này có thể được hình thành theo
con đường tự phát (do tích lũy kinh nghiệm trong quá trình sống với cộng đồng
mà có) hoặc theo con đường tự giác (do được đào tạo).
Tuy có nhiều định nghĩa, nhiều cách diễn tả về nghề, song tóm lại, khái
niệm nghề gồm có những đặc trưng: công việc chuyên làm; phương tiện để kiếm
sống; hoạt động chân tay và trí óc; gắn với con người một phần, hay cả cuộc đời;
và gắn với xã hội…
Nói về “nghề” người ta thường phân biệt “nghề nghiệp” và “chuyên môn”.
Chuyên môn là: “Một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp, trong đó, con người
bằng sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh thần của mình làm ra những giá trị vật
chất hoặc những giá trị tinh thần như là những phương tiện cần cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội” [16, tr.3].

8
Chuyên môn là một khái niệm hẹp so với khái niệm nghề, nhiều chuyên môn
tập hợp lại thành nghề. Nhưng chuyên môn lại hoàn toàn quy định hình thức của
một dạng hoạt động lao động và mang tên gọi đặc trưng của nghề đó. Do vậy, khi
xem xét nghề thì cũng phải phân biệt được từng chuyên môn trong nghề (Ví dụ:
Nghề dạy học thì không có nghề dạy học chung chung mà phải gắn liền với giáo
viên toán, giáo viên văn, giáo viên hóa v.v…, hoặc là giáo viên cấp 1, giáo viên
cấp 2 v.v…).
Tóm lại, nghề nghiệp là một phạm trù lịch sử xã hội, có nghĩa là nghề được

nảy sinh phát triển trong quá trình phát triển tiến bộ của xã hội, của khoa học kỹ
thuật. Có những nghề ra đời và phát triển lâu dài từ đời này qua đời khác và trở
thành nghề truyền thống, như: nghề chạm khắc gỗ, gốm sứ, sơn mài,…, nhưng
cũng có những nghề dần bị thay thế bằng các tiến bộ khoa học kỹ thuật như nghề
đánh máy chữ được thay bằng đánh máy vi tính. Đồng thời, cũng có những nghề
mới ra đời do thành tựu của khoa học kỹ thuật đem lại, như: lập trình, nghề lắp
ráp sửa chữa máy vi tính, video, nuôi rắn, nuôi tôm, nuôi ba ba v.v…
1.2.1.1. Phân loại nghề nghiệp trong xã hội:
Để phân loại nghề nghiệp trong xã hội, trước hết, chúng ta cần phân biệt
nghề xã hội và nghề đào tạo. Nghề xã hội là nghề mà người hành nghề theo
đúng sự phân công lao động xã hội trong thực tế đời sống sản xuất và dịch vụ;
trong khi đó, nghề đào tạo lại được tổ chức trong nhà trường. Thường thì nghề
đào tạo là do nhiều nghề xã hội hợp thành, đôi khi nghề đào tạo cũng trùng với
nghề xã hội. Như vậy, số nghề xã hội nhiều hơn so với nghề đào tạo. Ví dụ:
danh mục nghề đào tạo lần thứ nhất ở Việt Nam được ban hành theo quyết định
số 206/NĐ-KHDN tháng 8/1985 có 396 nghề đào tạo; lần thứ hai được ban hành
theo quyết định số 89/TKCN-DN ngày 9/1/1992 có 288 nghề đào tạo.
Trong xã hội có nhiều nghề khác nhau, đồng thời cũng có nhiều cách phân
loại và mỗi cách chỉ thâu tóm được những đặc trưng cơ bản nhất của nghề theo
bình diện nào đó. Trên thế giới và Việt Nam, đã có nhiều nhà khoa học bàn đến
việc phân loại nghề trong thế giới nghề nghiệp, điển hình như:

9
Tác giả Phạm Tất Dong và Nguyễn Thế Trường, trong cuốn “Giúp bạn
chọn nghề”, đã đưa ra cách phân loại nghề theo yêu cầu của nghề đối với người
lao động. Theo đó, các nghề được phân vào 8 lĩnh vực, gồm: 1) Những nghề
thuộc lĩnh vực hành chính; 2) Những nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con
người; 3) Những nghề thợ (công nhân); 4) Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật;
5) Những nghề trong lĩnh vực văn học nghệ thuật; 6) Những nghề thuộc lĩnh vực
nghiên cứu khoa học; 7) Những nghề tiếp xúc với thiên nhiên; và 8) Những nghề

có điều kiện lao động đặc biệt [25, tr.11].
Tác giả Nguyễn Văn Hộ và Nguyễn Thị Thanh Huyền, trong cuốn “Hoạt
động giáo dục hướng nghiệp và giảng dạy kỹ thuật trong trường THPT”, đã
tổng hợp đề xuất 5 cách phân loại nghề, gồm: 1) Dựa trên đối tượng lao động; 2)
Dựa trên mục đích lao động; 3) Dựa trên công cụ và phương tiện lao động; 4)
Dựa vào điều kiện lao động; và 5) Dựa trên các thao tác lao động [22, tr.15].
Tác giả E.A. Klimốp, trong cuốn “Nay đi học mai làm gì?”, đã lấy đối
tượng lao động làm dấu hiệu phân loại [23, tr.18].

Nhóm nghề
đối tƣợng lao động
chủ yếu
Ví dụ về các nghề và
chuyên môn
Ngƣời

Thiên nhiên
Các tổ chức hữu cơ, các
quá trình sinh vật và vi
sinh vật.
Trồng lúa, chăn nuôi,
nuôi ong, bác sĩ thú y,
trồng rừng, khai thác gỗ
Ngƣời
_
Kỹ thuật
Hệ thống các thiết bị kỹ
thuật, các nguyên vật
liệu, năng lượng, các đối
tượng vật chất…

Thợ rèn, nguội, tiện, thợ
xây, thợ máy, lái xe…
Ngƣời
_
Ngƣời
Con người, nhóm tập thể
Bán hàng, y tá, giáo viên,
nhà giáo dục, bác sĩ,
quản lý…
Ngƣời
_
Hệ thống ký hiệu
Những dấu hiệu, con số
mã số, công thức, ngôn
ngữ.
Nhân viên thủ quỹ, kế
toán, đánh máy, thợ xếp
chữ in…
Ngƣời
_
Nghệ thuật
Các hình ảnh nghệ thuật
các bộ phận và các thuộc
tính của nó.
Thêu, sơn mài, dệt thảm,
điêu khắc, thợ sơn, họa
sĩ, nhạc sĩ…

Bảng 1: Phân loại nghề lấy đối tƣợng lao động làm dấu hiệu phân loại


10
Để thuận lợi cho việc nhận biết nghề, nhóm nghề trong công tác tư vấn
nghề, người ta thường lấy đối tượng lao động làm dấu hiệu phân loại.
1.2.1.2. Tư vấn nghề.
Tư vấn nghề là khâu trung gian giữa hai khâu định hướng nghề và tuyển
chọn nghề (Hình1). Người chọn nghề nhiều khi do chưa thật hiểu về mình, cũng
có thể do ảnh hưởng của dư luận xã hội hoặc thiếu cái nhìn thực tế về nhu cầu
của thị trường lao động mà có những quyết định chọn nghề thiếu chín chắn,
chính xác, có thể dẫn tới hậu quả chán nghề, xin đổi nghề hoặc bỏ nghề. Nhờ có
công tác tư vấn nghề, đối tượng tư vấn có thể có sự định hướng nghề đúng đắn
hơn hoặc sẽ chuẩn bị tốt hơn để theo đuổi một nghề nào đó. Thực chất của tư
vấn nghề là căn cứ vào những biện pháp chuyên môn cho đối tượng tư vấn
những lời khuyên về chọn nghề sát hợp và có cơ sở khoa học, giúp họ chọn
được cho mình một nghề yêu thích, thực sự phù hợp với mình, để lập thân, lập
nghiệp, cống hiến tài năng và trí tuệ của mình. Đồng thời, để có được sự tiến bộ
trong nghề nghiệp và trụ vững trong cuộc đời







Hình 1: Vị trí của tƣ vấn nghề trong hƣớng nghiệp

Trong khi đó, định hướng nghề là xác định những nghề mà người cần tư
vấn có thể tham gia, lựa chọn, phù hợp với hứng thú sở trường của mình, đồng
thời hứa hẹn có thể làm việc lâu dài và đạt thành tích trong nghề. Trong số
những nghề nói trên, ta có thể sắp xếp theo thứ tự ưu tiên cho sự lựa chọn. Muốn
định hướng đúng, người chọn nghề phải có những thông tin cần thiết về yêu cầu

đặt ra đối với người lao động cũng như những thông tin về thị trường lao động.
Tƣ vấn
nghề
Định
hƣớng nghề
Tuyển
chọn nghề

11
Thiếu một trong hai loại thông tin đó, việc định hướng sẽ sai lệch, không thể
chọn được nghề phù hợp. Chẳng hạn, không có hiểu biết về yêu cầu của nghề,
rất dễ chọn những nghề không phù hợp với năng lực của mình. Mỗi con người
sinh ra ở trên đời đều có những sắc thái độc đáo của riêng mình. Muốn thành
công cần có sự phù hợp giữa yêu cầu của nghề với năng lực của mình, với bản
tính của mình. Song, như thế vẫn chưa đủ. Muốn học xong có thể tìm được “đất
dụng võ”, tìm được công ăn việc làm thích hợp, người chọn nghề phải thấy được
nhu cầu của thị trường lao động. Người làm công tác tư vấn sẽ giúp người chọn
nghề nắm và hiểu rõ vấn đề này.
Như vậy, miền chọn nghề tối ưu cho đối tượng tư vấn là miền giao nhau
của năng lực cá nhân (tôi có thể); hứng thú, sở thích, khuynh hướng (tôi muốn)
và nhu cầu địa phương, xã hội (tôi phải) [25, tr.35].








Hình 2: Điều kiện chọn nghề tối ƣu


Tư vấn nghề xuất phát từ người đến nghề, giúp đối tượng tư vấn hiểu về
mình, trong khi tuyển chọn nghề lại xuất phát từ nghề đến người, tuyển chọn
người vào học hay vào làm việc.
Qua nghiên cứu trên, chúng ta thấy rằng, tư vấn nghề là công việc đòi hỏi
người làm công tác này phải có tinh thần trách nhiệm rất cao trước việc đưa ra
những lời khuyên, đồng thời phải tôn trọng nguyên tắc tự do chọn nghề của mỗi
cá nhân. Rõ ràng, trong giai đoạn hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, khi mà
thương trường như là chiến trường, và con người phải đối mặt với một thực tế



Tôi muốn
(hứng thú)
Tôi có thể
(năng lực)

Tôi phải
(nhu cầu
xã hội)

12
cạnh tranh khốc liệt thì việc chọn nghề thiếu những luận cứ khoa học sẽ tác hại
đến bản thân người chọn nghề cũng như đối với lợi ích của cộng đồng.
Tóm lại, tư vấn nghề được hiểu là “hệ thống các biện pháp tâm lý – giáo
dục và y học nhằm phát hiện và đánh giá nhân cách của người cần tư vấn,
giúp họ chọn nghề trên cơ sở khoa học. Nói cách khác, tư vấn nghề là việc
đối chiếu yêu cầu của nghề, yêu cầu của thị trường lao động với hứng thú,
khuynh hướng của người cần tư vấn, rồi cho họ lời khuyên nên học nghề nào
thì phù hợp” [24, tr.129].



1.2.1.3. Sự phù hợp nghề.
Về phía người chọn nghề, theo tác giả Phạm Tất Dong [25, tr.21], nếu
không chọn được nghề phù hợp (sự phù hợp nghề), lao động với họ sẽ không
còn là niềm vui, không trở thành hạnh phúc và sự tự hào, mà chỉ còn là những
công việc máy móc, buồn tẻ. Còn đối với công việc lao động sản xuất, do thiếu
hứng thú và năng lực làm việc, người lao động không tạo ra được năng suất cao,
chất lượng tốt. Do đó, sự phù hợp nghề của một người cụ thể trong tương lai thể
hiện ở sự phù hợp đồng bộ những đặc điểm trong cấu trúc nhân cách với những
yêu cầu của một nhóm nghề nào đó. Thông thường, có 4 mức độ của sự phù hợp
nghề, gồm: 1) không phù hợp; 2) phù hợp một phần; 3) phù hợp phần lớn; và 4)
phù hợp hoàn toàn. Song, thực tế chỉ ra rằng: sự phù hợp nghề (lý tưởng!) không
bao giờ được hoàn toàn đầy đủ, chọn vẹn, nhất là trong thời đại ngày nay, khi
mà các tiến bộ khoa học công nghệ như vũ bão đã và đang làm thay đổi một
cách nhanh chóng nội dung lao động cũng như sự tổ chức và phân công lao đông
xã hội, khiến người lao động dù có được đào tạo và chuẩn bị tốt đến mấy vẫn
phải học tiếp tục, học thường xuyên, học suốt đời mới đáp ứng được yêu cầu
thực tế. Vì thế trong quá trình làm một nghề, người lao động phải tăng tính thích
ứng của mình với những thay đổi khách quan đó, và cần phải có năng lực di
chuyển sang nghề khác. Đây chính là tinh thần mới của công tác tư vấn nghề nói

13
riêng và công tác hướng nghiệp nói chung. Các quy tắc “sống với nghề, chết với
nghề” ngày nay không còn phù hợp nữa.







Hình 3: Quan niệm hƣớng nghiệp suốt đời

1.2.1.4. Yêu cầu kiến thức đối với nhà tư vấn.
Hiệu quả của công tác tư vấn nghề phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ.
Mặt khác tư vấn nghề là công việc rất phức tạp. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ tư vấn
phải có tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết rộng và phải nắm vững các loại thông tin
chủ yếu sau:
- Thông tin về “thế giới nghề nghiệp” theo phân loại nghề. Đồng thời,
phải biết thông tin về các đặc điểm và yêu cầu của một nghề cụ thể, trong đó,
đặc biệt lưu ý đến các yêu cầu về tâm – sinh lý và các chống chỉ định y học của
nghề.
- Thông tin về đào tạo, như: kế hoạch, hình thức, thời gian, địa điểm, cũng
như quy mô đào tạo.
- Thông tin về thị trường lao động, như: cung lao động, cầu lao động, giá
cả lao động và các thể chế về lao động. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới nhu cầu
nhân lực của từng địa phương, ngành kinh tế, khu công nghiệp, và các doanh
nghiệp trên từng địa bàn và cả nước.
- Thông tin về đối tượng tư vấn, gồm: Tên, tuổi, giới tính, kết quả đào tạo
huấn luyện, hoàn cảnh gia đình (bố mẹ, nghề nghiệp), bạn bè thân thích, đặc biệt
phải nắm thông tin về nhân cách, mà trước hết là hứng thú, khuynh hướng và
năng lực [24, tr. 132].
Những thông tin trên là căn cứ để cán bộ tư vấn giúp đối tượng chọn nghề.
1.2.1.5.Các loại tư vấn chọn nghề.
Định hƣớng
nghề
(Chọn nghề)
Thích ứng nghề
(Học nghề)
Phù hợp nghề

(Hành nghề)
Đào tạo tiếp tục, bồi dưỡng
Đào tạo lại, chuyển nghề

14
Tư vấn chọn nghề thường có hai loại:
- Tư vấn sơ bộ: loại này đơn giản có thể thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi vì
không đòi hỏi phải có các thiết bị, các phương tiện kỹ thuật. Song, để tiến hành
tư vấn có hiệu quả, đòi hỏi chuyên gia tư vấn phải có những kiến thức, kỹ năng
giao tiếp và yêu cầu cơ bản như đã nêu trên.
- Loại tư vấn chuyên sâu: Loại này phức tạp vì việc tư vấn được tiến
hành trên cơ sở khoa học thực sự, bảo đảm độ chính xác cao nhờ một số máy
móc hiện đại (ví dụ: sử dụng máy đo độ chính xác của cử động, sự khéo léo vận
động của 2 tay v.v…). Điều kiện để có loại tư vấn chuyên sâu, là phải có đội ngũ
chuyên gia tư vấn được đào tạo có tay nghề cao, có kinh nghiệm thực tế, gồm
các nhà tâm lý học, giáo dục học, kinh tế học, bác sĩ. Họ phải được huấn luyện
bài bản để có kiến thức rộng về các mặt, như: tâm lý học phát triển, tâm lý học
lao động, tâm lý học người có tật; kiến thức về thế giới nghề nghiệp, về yêu cầu
của nghề, về nhân cách, trước hết về động cơ, hứng thú, khuynh hướng và năng
lực nghề nghiệp của người cần tư vấn, về kinh tế, về nhu cầu phát triển phát
triển nhân lực của các ngành nghề kinh tế quốc dân và của địa phương. Đặc biệt,
phải có kiến thức sâu sắc về hướng nghiệp, tư vấn chọn nghề, kỹ thuật tư vấn,
biết sử dụng thành thạo các phương pháp TEST chẩn đoán khả năng trí tuệ, khả
năng vận động và nhân cách của đối tượng tư vấn [24, tr.133].
1.2.2. Khái niệm việc làm:
Trong cơ chế cũ, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, quan điểm về việc
làm bị hạn chế bởi quan niệm: chỉ có những người trong biên chế Nhà nước mới
được coi là có việc làm. Từ quan niệm bó hẹp đó đã cột chặt người lao động vào
miếng đất, mảnh vườn, nhà máy xí nghiệp và chế độ phân phối bình quân. Khi
ấy dường như không có khái niệm thiếu việc làm, thất nghiệp; mọi người đều có

việc làm dựa vào sự sắp xếp của Nhà nước. Người lao động không được quyền
tự tạo ra việc làm, không được lựa chọn ngành nghề, không được di chuyển lao
động. Đây là nguyên nhân chính, chủ yếu làm cho người lao động thờ ơ với kết
quả lao động, không quan tâm đến năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động của

15
chính mình. Ngày nay, trong cơ chế thị trường, nhiệm vụ đặt ra là phải gắn cơ
chế mới với việc giải phóng con người, tạo điều kiện cho con người có cơ hội
phát triển tài năng, tự do lựa chọn nghề nghiệp, tự do sản xuất kinh doanh, tự do
sáng tạo ra những sản phẩm nghệ thuật v.v Theo đó, thị trường lao động cũng
phải tự do. Đây là sự thay đổi căn bản nhất trong nhận thức về lao động và việc
làm hiện nay.
Với nhận thức này, quan niệm về việc làm, mục tiêu giải quyết việc làm
hay tạo việc làm cũng thay đổi và có nhiều ý kiến khác nhau.
- Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì: việc làm là những hoạt động
lao động được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
- Điều 18, Chương II, Bộ luật lao động nước CHXHCN Việt nam ghi:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm
đều được thừa nhận là việc làm”.
Tuy có nhiều cách diễn giải khác nhau về khái niệm này, nhưng mọi quan
niệm đều cho rằng việc làm bao hàm ba nội dung cơ bản sau đây:
Việc làm là những hoạt động của con người - nhằm mục đích tạo ra thu
nhập - hợp pháp (không bị pháp luật ngăn cấm).
Điều đó cũng có nghĩa là các quan niệm đều thống nhất: Mọi hoạt động
lao động tạo ra thu nhập, hợp pháp đều được thừa nhận là việc làm.
1.2.2.1. Bản chất của hoạt động giới thiệu việc làm.
Để hiểu rõ bản chất của hoạt động giới thiệu việc làm, trước hết, chúng ta
tìm hiểu khái niệm dịch vụ việc làm.
Dịch vụ việc làm là khái niệm xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 tại một số
nước công nghiêp phát triển như Anh, Mỹ, do lo ngại ảnh hưởng tiêu cực về

kinh tế, xã hội của nạn thất nghiệp đang tràn lan. Hoạt động dịch vụ việc làm,
ban đầu chỉ tập trung quan tâm đến người lao động bị mất việc làm, là cơ sở cho
hoạt động dàn xếp để người tìm việc có việc làm và người sử dụng lao động lấp
đầy chỗ làm việc trống, tại một số nước các cơ sở giới thiệu việc làm cũng bắt
đầu tham gia vào hệ thống bảo hiểm thất nghiệp. Năm 1919, ILO mới được

16
thành lập lại, đã đề xuất thiết lập hệ thống dịch vụ việc làm công tại các nước
thành viên theo Công ước số 2 về thất nghiệp.
Trong vòng 25 năm sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ II, hệ thống
dịch vụ việc làm công đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới, với
chức năng chính là chắp nối việc làm và thực thi chính sách Bảo hiểm thất
nghiệp. Sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế những năm 1970, tỷ lệ thất nghiệp đã
tăng cao ở nhiều nước, vì vậy hệ thống dịch vụ việc làm công đã được sử dụng
mạnh mẽ như một công cụ để thực thi và giám sát các chính sách việc làm, điều
tiết thị trường lao động nhằm ngăn chặn thất nghiệp lan rộng [33].
Ngày nay, trong bối cảnh thị trường lao động thay đổi và phát triển ở tốc
độ cao, hệ thống dịch vụ việc làm đã được thành lập và hoạt động ở hầu hết các
nước. Cũng ở hầu hết các nước, các cơ sở dịch vụ việc làm công đóng vai trò
nòng cốt trong hệ thống tổ chức giới thiệu việc làm. Các doanh nghiệp dịch vụ
việc làm chỉ tập trung hoạt động giới thiệu việc làm cho một số loại hình lao
động nhất định (Ví dụ: lao động chất lượng cao) (ILO- Công ước 181). Tại Việt
Nam, vào cuối những năm 80 đã bắt đầu hình thành các Trung tâm dạy nghề và
giới thiệu việc làm nhằm đáp ứng yêu cầu bức xúc về việc làm. Nghị quyết 120
của Hội đồng Bộ trưởng (nay là chính phủ) ban hành năm 1992 đã mở ra cho sự
phát triển của hệ thống các Trung tâm xúc tiến việc làm (tiền thân của các Trung
tâm dịch vụ việc làm hay dạy nghề và giới thiệu việc làm ngày nay) nhằm thể
hiện đương lối đổi mới của Đảng trong lĩnh vực lao đông và việc làm. Kể từ đó,
hệ thống các Trung tâm dịch vụ việc làm đã không ngừng phát triển nhanh
chóng cả về số lượng và chất lượng. Từ các Văn phòng môi giới việc làm, các

Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm được thí điểm ở một số địa phương
đến nay đã có 170 Trung tâm giới thiệu việc làm hoạt động trên địa bàn 64 Tỉnh/
Thành trong cả nước, trong đó có hệ thống Xúc tiến việc làm Quân đội. Tuy còn
rất non trẻ, nhưng hoạt động dịch vụ việc làm đã có những đóng góp đáng kể
trong việc tư vấn nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho xã hội.

17
Như vậy, theo các chuyên gia thì Giới thiệu việc làm hay Dịch vụ việc
làm là “toàn bộ các hoạt động nhằm sắp xếp việc làm có hiệu quả cho người lao
động thông qua quá trình chắp nối CUNG – CẦU lao động, hoặc tư vấn, trợ
giúp để người lao động có thể tự tạo việc làm. Sắp xếp việc làm liên quan tới
việc chắp nối kỹ năng, khả năng của người tìm việc với yêu cầu của người sử
dụng lao động. Tư vấn tạo việc làm liên quan đến việc cung cấp các thông tin về
cơ hội tự tạo việc làm, hỗ trợ các kỹ năng cần thiết để tự tạo việc làm. Để đạt
được các mục tiêu trên, giới thiệu việc làm còn bao hàm một số chức năng khác
như tư vấn luật pháp chính sách, tư vấn nghề, tư vấn đào tạo, tư vấn thông tin
thị trường lao động” [17, tr.7].
Theo ILO [32], tổ chức giới thiệu việc làm là các tổ chức mà Nhà nước
cho phép thành lập nhằm:
- Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ người thất nghiệp và giúp đỡ người tìm việc
tham gia hoặc tái tham gia vào thị trường lao động.
- Tổ chức thị trường việc làm nhằm đảm bảo các chỗ làm việc trống được
lấp đầy bằng những ứng viên thỏa mãn tốt nhất các yêu cầu của công việc đòi
hỏi trong thời gian sớm nhất; đảm bảo nhu cầu lao động hiện tại và tương lai
được đáp ứng bởi cung lao động phù hợp.
- Đề xuất và thực hiện các giải pháp nhằm tạo việc làm mới.
1.2.2.2. Tính tất yếu của hoạt động giới thiệu việc làm.
Tính tất yếu của hoạt động giới thiệu việc làm- dịch vụ việc làm, trước hết
thể hiện ở chỗ, thông qua hoạt động này Chính phủ có thể can thiệp được vào thị
trường lao động. Sự can thiệp này là cần thiết không chỉ bởi tầm quan trọng của

nguồn nhân lực và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế- xã
hội mà còn vì nhu cầu nâng cao phúc lợi xã hội của người lao động [33].
Hoạt động giới thiệu việc làm đã làm tăng tính hiệu quả của thị trường lao
động- rút ngắn thời gian tìm việc, thời gian tuyển người, độ dài thời gian thất
nghiệp, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn nhân lực, làm tăng tính minh bạch
của thị trường lao động.

18
Hoạt động giới thiệu việc làm thúc đẩy sự bình đẳng về cơ hội việc làm và
bảo vệ các đối tượng yếu thế. Sự bình đẳng về cơ hội việc làm và bảo vệ các đối
tượng yếu thế là mục tiêu mà các xã hội văn minh mong muốn đạt tới.
Hoạt động giới thiệu việc làm giúp cho việc giảm nhẹ những tác động tiêu
cực của quá trình điều chỉnh cơ cấu về nhu cầu lao động. Đặc biệt, trong bối
cảnh nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay.
Đối với những nước đã triển khai hệ thống trợ cấp thất nghiệp, hoạt động
giới thiệu việc làm có thể xem như công cụ hữu hiệu nhằm đảm bảo cho những
người thất nghiệp được bảo hiểm quay trở lại làm việc trong thời gian ngắn nhất
có thể.
Vai trò, vị trí của hoạt động giới thiệu việc làm được cụ thể hóa bằng sơ
đồ sau:







Hình 4: Vai trò của hoạt động giới thiệu việc làm

1.2.3. Mối quan hệ giữa tư vấn nghề và giới thiệu việc làm .

Để làm rõ mối quan hệ giữa tư vấn nghề và giới thiệu việc làm, trước hết
ta cần phân biệt rõ “nghề” và “việc làm”.
Nghề luôn luôn là cơ sở giúp cho con người có việc làm và từ đó tạo ra
sản phẩm thỏa mãn nhu cầu cá nhân cũng như nhu cầu xã hội. Nếu như một
người nào đó có nghề mà chưa tìm được việc làm, thì đương nhiên người đó
không có thu nhập và tại thời điểm không có việc làm được coi là người thất
nghiệp.
Ngƣời sử
dụng lao
động
Hoạt động
giới thiệu
việc làm
Ngƣời
tìm việc
Môi trƣờng kinh tế- xã hội
Thị trƣờng lao động

19
Bất cứ việc làm nào cũng gắn với một nghề cụ thể (hoặc một chuyên môn
cụ thể), song không thể coi việc làm với nghề là đồng nghĩa. Việc làm, như đã
được trình bày ở trên, là một dạng hoạt động nhằm biến đổi đối tượng lao động
phục vụ cho lợi ích của bản thân và của xã hội. Như vậy, việc làm có thể được
xuất phát từ nghề được đào tạo, và cũng có thể là những công việc nhất thời đáp
ứng mục đích lao động kiếm sống của chủ thể.
Đôi khi, do xuất phát từ quan niệm về những kỹ năng của một hoặc nhiều
nghề được cá nhân sử dụng trong quá trình lao động đã dẫn tới sự nhầm lẫn giữa
nghề nghiệp với việc làm. Nếu việc làm diễn ra trong một thời gian dài, có cơ sở
từ nghề được đào tạo, có thu nhập ổn định, trong quá trình lao động, cá nhân
thường xuyên sử dụng một hệ thống kiến thức lý thuyết về kỹ thuật, công nghệ

và các kỹ năng được huấn luyện tỉ mỷ, có hệ thống (tay nghề), khi đó, cá nhân
không chỉ có nghề mà có cả nghiệp.
Giữa nghề nghiệp và việc làm có sự giống nhau và khác nhau. Việc làm,
đó là công việc đem lại lợi ích cho người lao động tạo thu nhập để nuôi sống gia
đình và bản thân, ở bất kỳ ngành nghề gì và khu vực kinh tế nào (nhà nước, tập
thể, tư nhân hay liên doanh) và không bị pháp luật ngăn cấm. Việc làm cũng có
thể hiểu là hành động cụ thể, là công việc được cho làm và được trả công để sinh
sống.
Nghề nghiệp, được coi là việc làm nhưng không phải việc làm nào cũng là
nghề nghiệp. Những việc làm nhất thời không ổn định, chỉ do con người bỏ sức
lao động ra và được trả công để sinh sống thì không phải là nghề nghiệp. Ví dụ:
người nông dân sau vụ mùa đi các nơi làm thêm các việc như phụ hồ, bán các
loại hàng hóa để được trả tiền công thì đó chỉ là việc làm chứ không phải là
nghề. Giữa việc làm và nghề nghiệp có điểm chung là con người bỏ sức lao
động để tạo ra sản phẩm nhằm để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và xã hội.
Dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt giữa việc làm và nghề nghiệp là ở
chỗ:

20
Nghề nghiệp là sự gắn bó lâu dài với công việc chuyên môn, là trình độ
kỹ năng và kỹ xảo đối với việc làm đó, nhờ quá trình đào tạo ngắn hạn hoặc dài
hạn. Còn việc làm nhiều khi gắn với một phần hoặc một số kỹ năng lao động
nào đó thuộc một, hay một vài nghề, miễn là qua hoạt động cụ thể người lao
động có thể hoàn thành được nhiệm vụ và kiếm tiền được để sinh sống. Có
những người trong quá trình làm việc đã chuyển việc làm thành nghề nghiệp do
phát hiện thấy ý nghĩa của nghề đối với hoạt động của bản thân. Họ tích cực
hoạt động nâng cao trình độ, cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động trong việc
làm biến việc làm thành nghề nghiệp của mình.
Như vậy, xuất phát từ mối quan hệ Việc làm – Nghề nghiệp, chúng ta thấy
hoạt động tư vấn nghề và hoạt động giới thiệu việc làm, tuy có những giới hạn,

phạm vi khác nhau. Nhưng, giữa chúng cũng có những điểm tương đồng:
- Đích cuối cùng là việc làm và thu nhập người lao động.
- Tìm hiểu đặc điểm, nhân cách con người.
- Tác động đến đào tạo và chuyển đổi cơ cấu nguồn nhân lực.
- Tác động lên thị trường lao động và cùng bị chi phối bởi thị trường lao động.
- Tư vấn nghề là một chức năng hỗ trợ của hoạt động giới thiệu việc làm.
Như vậy, tư vấn nghề và giới thiệu việc làm có mối quan hệ khăng khít
với nhau, cùng bổ trợ cho nhau. Nếu hai hoạt động này độc lập với nhau, tách
rời nhau thì sẽ không còn ý nghĩa và hiệu quả sẽ rất hạn chế. Do vậy, tổ chức
hoạt động tư vấn nghề cần gắn với tổ chức hoạt động giới thiệu việc làm và
ngược lại.
1.3. Tổ chức hoạt động tƣ vấn nghề và giới thiệu việc làm.
Để làm rõ tổ chức hoạt động tư vấn nghề và giới thiệu việc làm, trước hết
chúng ta cần phải hiểu thế nào là quản lý và tổ chức.


1.3.1. Khái niệm chung về quản lý và tổ chức.
1.3 1.1. Quản lý và các chức năng của quản lý.

×