Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

một số biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên hệ bổ túc trung học phổ thông thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 102 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƢ PHẠM



HOÀNG BÁ THƢỞNG




MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ BỒI DƢỠNG CHUYÊN MÔN
CHO GIÁO VIÊN HỆ BỔ TÚC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG




ĐỀ CƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05





















HÀ NỘI - 2008


1
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: 1
1.1. Một số khái niệm 1
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta 15
và thế giới về giáo dục thƣờng xuyên
1.3. Vị trí của giáo dục thƣờng xuyên 20
trong hệ thống Giáo dục quốc dân
1.4. Vai trò của giáo dục thƣờng xuyên trong việc phát triển 21
nguồn nhân lực
1.5. Quản lí chất lƣợng giáo dục hệ bổ túc trung học phổ thông 24
1.6. Ý nghĩa công tác quản lí bồi dƣỡng chuyên môn 28

cho giáo viên hệ bổ túc trung học phổ thông
1.7. Các yếu tố ảnh hƣởng đến công tác quản lí bồi dƣỡng 32
chuyên môn cho giáo viên hệ bổ túc trung học phổ thông
Kết luận chƣơng 1 32
CHƢƠNG 2 34
2.1. Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế xã hội 34
thành phố Hải Phòng
2.2. Thực trạng ngành học giáo dục thƣờng xuyên Hải Phòng 36
2.3. Thực trạng công tác quản lí bồi dƣỡng chuyên môn 50
cho giáo viên hệ bổ túc trung học phổ thông thành phố Hải Phòng
2.3.1. Cơ cấu, bộ máy quản lí 50
2.3.2. Công tác tổ chức, lập kế hoạch và chỉ đạo 50
bồi dƣỡng chuyên môn
2.3.3. Quản lí nội dung, chƣơng trình 54
2.3.4. Quản lí hoạt động dạy học 55
2.3.5. Quản lí tuyển chọn giáo viên 61
2.3.6. Quản lí công tác kiểm tra - đánh giá và khen thƣởng 61
Kết luận chƣơng 2 62
CHƢƠNG 3 65
3.1. Cơ sở đề xuất các biện pháp 65
3.2. Một số biện pháp 67


2
3.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý và giáo viên 67
về sự cần thiết của việc bồi dƣỡng chuyên môn
3.2.2.Tổ chức và chỉ đạo công tác bồi dƣỡng chuyên môn
70
cho giáo viên
3.2.3.Tăng cƣờng quản lí thực hiện qui chế chuyên môn cho giáo viên 73

3.2.4. Đảm bảo các điều kiện cần thiết 77
cho công tác bồi dƣỡng chuyên môn
3.2.5. Quan tâm đến chính sách đối với giáo viên 78
và công tác tuyển dụng
3.2.6. Phát triển công tác xã hội hoá giáo dục 80
3.2.7. Kiểm tra - đánh giá và khen thƣởng công tác
84
bồi dƣỡng chuyên môn cho giáo viên.
3.3. Khảo sát sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất 86
Kết luận chƣơng 3 87
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 88
1. Kết luận 88
2. Khuyến nghị 89
Tài liệu tham khảo











3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ đầy đủ


BTTHCS Bổ túc trung học cơ sở
BTTHPT Bổ túc trung học phổ thông
BTVH Bổ túc văn hoá
CSVC Cơ sở vật chất
CNTT Công nghệ thông tin
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
GV Giáo viên
GDCQ Giáo dục chính quy
GDKCQ Giáo dục không chính quy
GDPCQ Giáo dục phi chính quy
GDCD Giáo dục công dân
GDNL Giáo dục ngƣời lớn
HS Học sinh
QTDH Quá trình dạy học
SGK Sách giáo khoa
SKKN Sáng kiến kinh nghiệm
TBDH Thiết bị dạy học
THPT Trung học phổ thông
TT GDTX Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên
XMC Xoá mù chữ













4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỉ của khoa học và công nghệ
hiện đại. Đất nƣớc ta đang bƣớc vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
với mục tiêu đến năm 2020 đƣa Việt Nam từ một nƣớc nông nghiệp cơ bản
trở thành một nƣớc công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Viễn cảnh
sôi động, tƣơi đẹp đó đòi hỏi không ít thách thức đối với ngành Giáo dục -
Đào tạo. Do đó ngành phải có những đổi mới căn bản, mạnh mẽ, phải tìm
kiếm các giải pháp để nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện, nâng cao chất
lƣợng con ngƣời để vƣơn lên ngang tầm với sự phát triển chung của khu vực
và thế giới.
Nghị quyết Trung ƣơng 4 khoá VII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Cần phải
thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho mọi người, xác định học tập
suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân”. Giáo dục thƣờng
xuyên có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực,
nhằm thúc đẩy sự phát triển tài nguyên con ngƣời, góp phần thực hiện mục
tiêu giáo dục của Đảng: “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài”. Chính vì vậy, để nâng cao dân trí không thể chỉ dựa vào phƣơng thức
giáo dục chính quy mà phải kết hợp giữa các loại hình chính quy với các loại
hình đào tạo khác. Trong đó giáo dục thƣờng xuyên có một vai trò đặc biệt
quan trọng bởi lẽ mục tiêu của giáo dục thƣờng xuyên là tạo ra một xã hội học
tập nhằm cung cấp những cơ hội học tập thƣờng xuyên, suốt đời phù hợp với
hoàn cảnh cụ thể của từng ngƣời, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
khoa học công nghệ, nhất là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay.
Nghị quyết Trung ƣơng 2 khoá VIII về giáo dục đã chỉ ra rằng giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ là khâu đột phá của thời kì mới, thời kì

công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc, vì thế giáo dục phải đi trƣớc một
bƣớc. Đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ cho phát triển, là đầu tƣ cơ bản quan


5
trọng nhất. Việc đầu tƣ này thể hiện ở việc ƣu tiên về chính sách, về đội ngũ
cán bộ, giáo viên, tăng cƣờng nguồn nhân lực, tiếp tục đổi mới nội dung,
phƣơng pháp, tăng cƣờng cơ sở vật chất thiết bị nhà trƣờng, chất lƣợng quản
lí giáo dục.
GDTX tạo cơ hội học thƣờng xuyên, học suốt đời cho mọi ngƣời. Tuy
nhiên, vị thế của GDTX chƣa đƣợc xã hội đánh giá đúng mức, sự đầu tƣ, quan
tâm của các cấp cho GDTX còn nhiều hạn chế; quy mô, mạng lƣới chƣa đáp
ứng nhu cầu của ngƣời học và của xã hội ; công tác quản lí còn bộc lộ nhiều
yếu kém; chất lƣợng GDTX còn thấp, các công trình nghiên cứu về GDTX
còn quá ít so với giáo dục chính quy.
Một trong những vấn đề mang tính chất quyết định đến sự thành bại của
sự nghiệp giáo dục đó là vai trò của ngƣời thầy. Sản phẩm của họ khác với
sản phẩm của các loại hình lao động khác ở chỗ sản phẩm này tích hợp cả
nhân tố tinh thần và vật chất, đó là “nhân cách - sức lao động”. Sứ mệnh của
giáo viên, đội ngũ giáo viên có ý nghĩa cao cả đặc biệt. Họ là bộ phận lao
động tinh hoa của đất nƣớc. Lao động của họ trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy
sự phát triẻn của đất nƣớc, cộng đồng đi vào trạng thái phát triển bền vững.
Một ngày thiếu giáo dục, đất nƣớc không thể tồn tại đuợc, giáo dục không có
ngƣời thầy không thể vận động đƣợc. Ngƣời ta luôn nhận thấy rằng thành
công của các cuộc cải cách giáo dục phụ thuộc dứt khoát vào “ý chí muốn
thay đổi” cũng nhƣ chất lƣợng giáo viên. Không có hệ thống giáo dục nào có
thể vƣơn cao quá tầm những giáo viên làm việc cho nó. Sáng kiến giáo dục
mà cội nguồn của nó nằm trong sự cam kết của đội ngũ giáo viên không
những bao hàm triển vọng của sự thành công mà còn cả sự kiên định. Nhiều
kết quả nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng, một học sinh trung bình

trong một năm học làm việc với giáo viên giỏi sẽ tiến bộ nhanh hơn so với sự
tiến bộ của học sinh trung bình làm việc với giáo viên kém trong cả một cấp
học. Nhƣ vậy, vị trí của ngƣời giáo viên là hết sức quan trọng, họ không chỉ là
ngƣời cung cấp tri thức mà còn góp phần đắc lực trong việc hình thành nhân


6
cách của ngƣời học sinh. Nhất là đối với học sinh học tại các trung tâm giáo
dục thƣờng xuyên: sức học yếu, có ngƣời vừa đi học vừa đi làm, nhiều độ tuổi
trong cùng một lớp vì vậy trình độ tiếp thu của học viên phụ thuộc rất nhiều
vào phƣơng pháp truyền thụ của thầy. Do yêu cầu của việc đổi mới chƣơng
trình giáo dục phổ thông hiện nay, từ thực tế trình độ năng lực chuyên môn
giáo viên không đồng đều, còn nhiều yếu kém, chƣa đồng bộ về cơ cấu, chậm
đổi mới về phƣơng pháp, việc quản lí bồi dƣỡng chuyên môn cho giáo viên hệ
BT THPT trên cả nƣớc nói chung và ở Hải Phòng nói riêng còn chƣa đáp ứng
đƣợc yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay. Vì vậy tác giả đã chọn đề
tài nghiên cứu : "Một số biện pháp quản lí bồi dưỡng chuyên môn cho giáo
viên hệ bổ túc trung học phổ thông thành phố Hải Phòng”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đã có nhiều nhà giáo dục nghiên cứu về đề tài này từ lâu, nhƣng đến nay
nhiều vấn đề không còn phù hợp nữa, đặc biệt là vấn đề bồi dƣỡng chuyên
môn cho giáo viên hệ bổ túc trung học phổ thông thành phố Hải Phòng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Một số biện pháp để quản lí bồi dƣỡng chuyên môn cho giáo viên hệ BT
THPT thành phố Hải Phòng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Giáo viên hệ BT THPT thành phố Hải Phòng.
5. Mẫu khảo sát
- Cán bộ quản lí ngành GDTX Hải Phòng
- Lãnh đạo, giáo viên 1 Trung tâm GDTX nội thành, 1 TT GDTX ngoại

thành, 1 TT GDTX hải đảo thành phố Hải Phòng.
6. Vấn đề nghiên cứu
Làm thế nào để quản lí bồi dƣỡng chuyên môn cho giáo viên hệ BT
THPT thành phố Hải Phòng.
7. Giả thuyết nghiên cứu


7
Nếu vận dụng hợp lý, sáng tạo những biện pháp quản lí bồi dƣỡng chuyên
môn cho giáo viên hệ bổ túc trung học phổ thông theo đúng huớng thì sẽ góp phần
quan trọng trong việc đổi mới phƣơng pháp dạy học và giáo dục toàn diện học
sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ngành học GDTX thành phố Hải Phòng.

8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
9. Kết quả nghiên cứu
9.1. Cơ sở lý luận về quản lí và việc quản lí bồi dưỡng chuyên môn cho
giáo viên hệ bổ túc trung học phổ thông thành phố Hải Phòng
9.2. Thực trạng công tác quản lí chuyên môn giáo viên hệ bổ túc trung học
phổ thông thành phố Hải Phòng
9.3. Đề xuất một số biện pháp quản lí bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên
hệ bổ túc Trung học phổ thông thành phố Hải Phòng
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo
luận văn trình bày trong 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chƣơng 2: Thực trạng công tác quản lí bồi dƣỡng chuyên môn cho
giáo
viên hệ bổ túc trung học phổ thông thành phố Hải Phòng

Chƣơng 3: Một số biện pháp quản bồi dƣỡng chuyên môn cho giáo viên
hệ bổ túc trung học phổ thông thành phố Hải Phòng







8






Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Quản lí, quản lí giáo dục
1.1.1.1. Quản lí
Quản lý là một dạng lao động xã hội mang tính đặc thù, gắn liền và phát
triển cùng với lịch sử phát triển của loài ngƣời. Từ khi có sự phân công lao
động trong xã hội đã xuất hiện một dạng lao động đặc biệt, đó là tổ chức, là
điều khiển các hoạt động lao động theo yêu cầu nhất định. Dạng lao động
mang tính đặc thù đó đƣợc gọi là hoạt động quản lý. “Quản lý là những tác
động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng,
điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài
tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ƣu nhằm đạt mục đích của tổ chức
với hiệu quả cao nhất”.
F.W TayLor cho rằng: “Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người

khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất
và rẻ nhất” [4].
Theo thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol thì: “Quản lý hành chính
là dự báo và lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển, phối hợp và kiểm tra” [4].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “ Hoạt động quản lý là
tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể ( người quản lý) đến khách
thể quản lý ( người bị quản lý), nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức” [5, tr.1].


9
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành phối hợp các lực lƣợng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [2].
Tuỳ theo cách phân loại khác nhau mà chúng ta có những khái niệm khác
nhau về các lĩnh vực quản lý khác nhau. Phân loại về quản lý là vô cùng đa
dạng và phức tạp.
Mặc dù đa dạng, phức tạp và có nhiều khái niệm khác nhau nhƣ đã dẫn ở
trên, nhƣng chúng ta có thể nhận thấy điểm chung của quản lý và các khái
niệm đã đề cập là:
- Quản lý bao giờ cũng có mục tiêu. Hoạt động quản lý đƣợc thực hiện
với một tổ chức hay một nhóm xã hội. Đây là điểm hội tụ cho những hoạt
động cùng nhau của xã hội loài ngƣời.
- Quản lý là thực hiện những tác động có tính hƣớng đích từ chủ thể đến
đối tƣợng yếu tố con ngƣời, trong đó ngƣời quản lý và ngƣời bị quản lý, giữ
vai trò trung tâm trong hoạt động quản lý.
- Nói đến hoạt động quản lý là phải nói tới công tác tổ chức: Xây dựng tổ
chức, điều phối tổ chức, phát triển tổ chức vì nếu không thì quản lý không có
mục tiêu. Ngƣợc lại nói đến tổ chức là phải nói đến quản lý: Quản lý nhân,
tài, vật lực của tổ chức, vì một tổ chức không có quản lý là tổ chức đã đi vào

quá khứ, đã diệt vong. Quản lý nhằm hƣớng tới chất lƣợng tổng thể và hiệu
quả bền vững, thích ứng với mọi sự thay đổi. Đòi hỏi nhà tổ chức, nhà quản lý
vừa biết “làm việc” đúng và biết làm “đúng việc” theo trách nhiệm và bổn
phận của mình. Suy nghĩ và hành động của nhà tổ chức, nhà quản lý không
phải là tổ hợp của “Trái tim nóng, cái đầu nóng”, cũng không phải là tổ hợp
của “Trái tim lạnh, cái đầu lạnh”, mà phải là “Cái đầu lạnh và trái tim hồng”.
Từ những dấu hiệu đặc trƣng nêu trên, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động
hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý bằng tổ hợp những
cách thức, những phƣơng pháp nhằm khai thác và sử dụng tối đa các tiềm


10
năng, các cơ hội của cá nhân cũng nhƣ của tổ chức, để đạt đƣợc mục tiêu của
tổ chức trong một môi trƣờng luôn biến đổi.
1.1.1.2. Quản lý giáo dục
* Khái niệm
Khái niệm quản lý giáo dục (QLGD) cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
- Quản lí giáo dục là quá trình tác động có chủ đích, hợp qui luật của chủ thể
quản lí giáo dục/đối tƣợng (giáo dục nhà trƣờng) nhằm đạt đƣợc mục tiêu dự kiến.
- Quản lý giáo dục đƣợc hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các
mắt xích của hệ thống (từ cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trƣờng) nhằm
thực hiện có chất lƣợng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế
hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành Giáo dục.
- Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hƣớng đích của
chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính trồi (emergence) của hệ
thống ; sử dụng một cách tối ƣu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống nhằm
đƣ hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện đảm bảo sự cân
bằng với môi trƣờng bên ngoài luôn luôn biến động.
Dù có khác nhau về từ ngữ trong các định nghĩa, nhƣng bản chất của quản

lý giáo dục là vận hành các hoạt động GD đạt đến mục tiêu đã định. QLGD là
hoạt động điều hành, phối hợp các lực lƣợng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác
đào tạo theo yêu cầu phát triển xã hội. Đó là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý, là sự điều hành hệ thống
giáo dục quốc dân, các trƣờng trong hệ thống GD quốc dân nhằm thực hiện
mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài.
* Nội dung quản lý Nhà nước về giáo dục
Quản lý nhà nƣớc về giáo dục là việc các cơ quan nhà nƣớc các cấp thực
hiện quyền lực công của mình theo quy định của pháp luật, để điều hành các
hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội nhằm đạt đƣợc các mục tiêu của
nhà nƣớc. Điều 100 của Luật Giáo dục đã quy định với quản lý nhà nƣớc về


11
giáo dục nhƣ sau: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục. Chính
phủ trình Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnh hưởng
đến quyền và nghĩa vụ của công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương
về cải cách nội dung chương trình của cả một cấp học; hàng năm báo cáo Quốc
hội về hoạt động giáo dục và việc thực hiện ngân sách giáo dục” [27].
Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nƣớc về giáo dục.
Bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ GD&ĐT thực hiện quản lý nhà
nƣớc về giáo dục theo thẩm quyền.
Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nƣớc về giáo dục sự
phân cấp của Chính phủ và có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện về đội
ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các trƣờng công
lập thuộc phạm vi quản lý, đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao
chất lƣợng và hiệu quả giáo dục tại địa phƣơng.
Nội dung quản lý nhà nƣớc về giáo dục đƣợc phân thành 2 cấp quy định
tại Điều 99 của Luật Giáo dục:

- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển giáo dục;
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giáo
dục; ban hành điều lệ nhà trƣờng; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động
của các cơ sở giáo dục khác;
- Quy định mục tiêu, chƣơng trình, nội dung giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo,
tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trƣờng học; việc biên soạn, xuất bản, in và
phát hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ;
- Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lƣợng giáo dục và kiểm định chất
lƣợng giáo dục;
- Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục;
- Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục;


12
- Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dƣỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục;
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục;
- Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực giáo dục;
- Tổ chức, quản lý công tác quan hệ quốc tế về giáo dục;
- Quy định việc tặng các danh hiệu thi đua cho những ngƣời có nhiều
công lao đối với sự nghiệp giáo dục;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm luật về giáo dục [27].
Quản lý cơ sở giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (các cấp quản lý của hệ thống giáo
dục) nhằm làm cho các cơ sở giáo dục vận hành theo nguyên lý giáo dục để
đạt tới mục tiêu giáo dục đặt ra. Quản lý cơ sở giáo dục thực chất là quản lý
tất cả các mặt, các khía cạnh liên quan đến hoạt động giáo dục và đào tạo

trong phạm vi cơ sở giáo dục.
Có thể phân tích nhà trƣờng nhƣ một hệ thống gồm 6 thành tố cơ bản kết
hợp chặt chẽ với nhau:
- Mục tiêu giáo dục;
- Nội dung giáo dục;
- Phƣơng pháp giáo dục;
- Giáo viên;
- Học viên;
- Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học.
Tóm lại: Nội dung quản lý nhà nƣớc về giáo dục thƣờng xuyên và cơ sở
giáo dục thƣờng xuyên cũng bao hàm những nội dung quản lý nhà nƣớc về
giáo dục nhƣ trên.
1.1.2. Bồi dưỡng và bồi dưỡng chuyên môn
1.1.2.1. Bồi dưỡng


13
Theo quan niệm của UNESCO: Bồi dƣỡng có ý nghĩa là nâng cao nghề
nghiệp, quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao
kiến thức hoặc kĩ năng chuyên môn - nghiệp vụ cho bản thân nhằm đáp ứng
nhu cầu lao động nghề nghiệp [37].
Theo tác giả Nguyễn Minh Đƣờng trong Đề tài KX-07-14: Bồi dƣỡng là
quá trình cập nhật; bổ sung những kiến thức và kỹ năng đã lạc hậu hoặc còn
thiếu ở một cấp học, bậc học; thƣờng đƣợc xác nhận bằng một chứng chỉ[15].
Từ các quan niệm trên, ta thấy điểm khác biệt giữa đào tạo, đào tạo lại,
bồi dƣỡng là:
- Đào tạo: là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình
thành và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ để hoàn
thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề
một cách năng suất và hiệu quả.

- Đào tạo lại: cũng là quá trình hình thành và phát triển hệ thống tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo, thái độ mới, nhằm tạo cho ngƣời lao động có cơ hội để học
tập một lĩnh vực chuyên môn mới nhằm mục đích thay đổi công việc, thay đổi
nghề; đào tạo lại giúp ngƣời lao động có khả năng thích ứng với điều kiện và
hoàn cảnh mới.
- Bồi dưỡng: chủ thể bồi dƣỡng đã đƣợc đào tạo để có trình độ chuyên
môn nhất định. Bồi dƣỡng là quá trình cập nhật, bổ sung tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo để nâng cao trình độ trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn nào đó qua
hình thức đào tạo nào đó.
Nhƣ vậy, mục đích của bồi dƣỡng là nhằm nâng cao năng lực phẩm chất
và năng lực chuyên môn để ngƣời lao động có cơ hội củng cố, mở rộng và
nâng cao hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn - nghiệp vụ đã có, từ
đó nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công việc đang làm. Trong hoạt động bồi d-
ƣỡng thì yếu tố quyết định đến chất lƣợng các hoạt động vẫn là vai trò chủ thể
của ngƣời đƣợc bồi dƣỡng thông qua con đƣờng tự học, tự đào tạo, tự bồi
dƣỡng nhằm phát huy nội lực các nhân.


14
1.1.2.2. Chuyên môn
Theo từ điển Tiếng Việt thì: chuyên môn là lĩnh vực riêng, những kiến
thức riêng nói chung của một ngành khoa học kĩ thuật.[36]
1.1.2.3. Bồi dưỡng chuyên môn
- Đây là quá trình tác động của các nhà quản lý giáo dục đến tập thể
GV, tạo cơ hội cho các giáo viên tham gia các hoạt động dạy học, giáo
dục, học tập trong và ngoài nhà trƣờng để cập nhật, bổ sung kiến thức,
kỹ năng chuyên môn - nghiệp vụ; bồi dƣỡng tƣ tƣởng, tình cảm nghề nghiệp
nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực sƣ phạm đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp GD-ĐT.
- Có nhiều loại hình bồi dƣỡng cho GV, tuy nhiên theo chúng tôi thì có 4

loại hình cơ bản nhƣ sau:
+ Hoạt động bồi dƣỡng chuẩn hoá và nâng chuẩn.
+ Hoạt động bồi dƣỡng thƣờng xuyên theo chu kì.
+ Hoạt động bồi dƣỡng cập nhật tại trƣờng của tập thể sƣ phạm .
+ Hoạt động tự bồi dƣỡng của cá nhân.
Trong thực tế, các Trung tâm GDTX thƣờng tiến hành theo hình thức bồi
dƣỡng cụ thể sau:
+Bồi dƣỡng tƣ tƣởng chính trị đạo đức, lí tƣởng nghề nghiệp.
+ Bồi dƣỡng chuyên môn - nghiệp vụ sƣ phạm.
+ Bồi dƣỡng kĩ năng hoạt động và nghệ thuật tiếp cận cá biệt và ứng xử
trƣớc những tình huống sƣ phạm.
Từ đó có thể nói: Bồi dƣỡng chuyên môn cho GV là con đƣờng, là cách
thức tốt nhất để khai thác mọi tiềm năng và phát huy nội lực của tập thể đội
ngũ GV trong nhà trƣờng nhằm thực hiện có kết quả mọi nhiệm vụ giáo dục,
thực hiện tốt các mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trƣờng.
1.1.2.4. Quản lý việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên


15
- Mục đích của hoạt động quản lý bồi dƣỡng chuyên môn là không ngừng
nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho các tổ viên, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu nâng cao chất lƣợng dạy học, giáo dục.
- Đổi mới nâng cao năng lực của giáo viên là khâu then chốt để thực hiện
đổi mới chƣơng trình giáo dục phổ thông. Việc đổi mới chƣơng trình đƣợc
tiến hành đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phƣơng pháp, phƣơng tiện; trong đó
việc đổi mới phƣơng pháp dạy học là một công việc rất khó khăn và phức tạp.
Đổi mới phƣơng pháp đòi hỏi giáo viên phải đầu tƣ nhiều hơn trong việc
chuẩn bị một tiết dạy và nhất là phải chiến thắng thói quen cũ ở chính bản
thân mình. Đồng thời, việc thiếu các điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, tài
chính cũng là những trở ngại chính của việc đổi mới. Chính vì vậy đòi hỏi

phải có sự nỗ lực cao trong quá trình tổ chức thực hiện mà phòng chuyên
môn, giám đốc và tổ chuyên môn phải là những ngƣời biết ủng hộ, tạo điều
kiện tốt nhất cho giáo viên thực hiện nhiệm vụ dạy học.
- Quản lý việc bồi dƣỡng chuyên môn cho giáo viên là một mặt của công
tác quản lý đội ngũ GV, là quản lý quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện,
chỉ đạo và kiểm tra - đánh giá hoạt động bồi dƣỡng của các cấp, các tổ chức, cá
nhân trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình để đạt mục tiêu bồi dƣỡng đề ra.
- Quản lý việc bồi dƣỡng chuyên môn cho GV gồm các nội dung sau:
+ Quản lý mục tiêu bồi dƣỡng, nội dung bồi dƣỡng, hình thức bồi dƣỡng.
+ Quản lý nề nếp hoạt động bồi dƣỡng của các tổ chuyên môn và cá nhân
GV trong việc thực hiện nhiệm vụ bồi dƣỡng (chấp hành các nội quy, quy
định, chế độ ).
+ Quản lý thực hiện kế hoạch bồi dƣỡng: kiểm tra - đánh giá, phát hiện
nguyên nhân yếu kém; đề xuất biện pháp thực hiện; tổ chức thực hiện.
1.1.3. Giáo dục thường xuyên, Trung tâm Giáo dục thường xuyên
1.1.3.1. Giáo dục thường xuyên


16
Thuật ngữ “giáo dục thƣờng xuyên” (fermarent education) đƣợc hiểu là
sự giáo dục dành cho hay tiến hành bởi những ngƣời đã hoàn thành vòng giáo
dục ban đầu trong thời niên thiếu. Với tƣ cách trên, trong nhiều trƣờng hợp,
thuật ngữ này đƣợc coi là đồng nghĩa với “giáo dục ngƣời lớn” (aduet
education).
Tuy nhiên, đây là một khái niệm mà nội hàm của nó đang phát triển và
hoàn thiện dần. Khái niệm GDTX trong mỗi thời gian cũng đƣợc hiểu theo
cách khác nhau và ở mỗi nƣớc cũng có cách hiểu khác nhau.
Để thúc đẩy GDTX phát triển cả về quy mô và chất lƣợng, UNESCO khu
vực Châu Á Thái Bình Dƣơng đã xây dựng một quan niệm về GDTX tƣơng
đối phù hợp với các nƣớc trong vùng.

Trong khuôn khổ của “chƣơng trình giáo dục cho mọi ngƣời: Châu Á
Thái Bình Dƣơng, GDTX đƣợc hiểu là “ một khái niệm rộng lớn, bao gồm
tất cả các cơ hội học tập và mọi ngƣời muốn hoặc cần có sau xoá mù chữ
và giáo dục tiểu học”.
Theo quan niệm này GDTX là một khái niệm rộng, bao gồm cả GDCQ
(formal education), GDKCQ (non-formal education) và GDPCQ (informal
educations) cho những ngƣời lớn hoặc thanh niên cần và có nhu cầu sau khi
biết chữ hoặc tƣơng đƣơng tiểu học, không bao gồm XMC (illiteracy
eradication). Định nghĩa này ta có thể hiểu là:
- GDTX là dành cho ngƣời lớn (hoặc ngƣời đƣợc xã hội coi là ngƣời lớn).
- GDTX đáp ứng các nhu cầu mong muốn học tập của mọi ngƣời.
- GDTX có thể bao gồm những bộ phận do các bộ phận giáo dục chính
quy, giáo dục không chính quy.
- GDTX đƣợc định nghĩa là “cơ hội tham gia vào quá trình học tập suốt
đời sau khi kết thúc tiểu học hoặc tƣơng đƣơng”.
Định nghĩa trên cũng chứa đựng một gợi ý là XMC không thuộc lĩnh vực
“GDTX”. Với quan niệm này của UNESCO khu vực thì GDTX và GDKCQ
không đồng nhất với nhau. GDTX là một khái niệm rộng, nó vừa là GD chính


17
quy vừa là GD không chính quy và GD phi chính quy. Ba bộ phận này của
GDTX không đứng riêng lẻ, tách rời nhau mà chúng xen kẽ, kế tiếp nhau
trong suốt cuộc đời của mỗi ngƣời.
Ở Việt Nam, thuật ngữ GDTX chƣa đƣợc phân biệt rạch ròi nhƣ thế,
GDTX đƣợc hiểu và quan niệm dựa trên các bình diện khác nhau.
Tại hội thảo về chiến lƣợc phát triển giáo dục đến năm 2020, báo cáo của
Vụ giáo dục thƣờng xuyên - Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu: “Giáo dục
thường xuyên được hiểu một cách khái quát là cung ứng cơ hội cho mọi
người để học tập suốt đời nhằm thúc đẩy tài nguyên con người thông qua các

chương trình XMC, chương trình tương tương, chương trình nâng cao chất
lượng cuộc sống, chương trình tạo thu nhập, chương trình đáp ứng sở thích
cá nhân, chương trình định hướng tương lai” [17].
Với quan niệm này, GDTX đồng nghĩa với giáo dục tiếp (continuing
education), tức là mở rộng chủ yếu của xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu
học nhằm thúc đẩy sự phát triển tài nguyên con ngƣời. Giáo dục thƣờng
xuyên có chức năng thay thế, nối tiếp, bổ sung và hoàn thiện kiến thức cho
giáo dục chính quy. GDTX không phải hoạt động xảy ra một lần rồi chấm dứt
mà là một quá trình kéo dài suốt cả cuộc đời. ở Việt Nam, nhiều thuật ngữ đã
đƣợc sử dụng nhƣ “Bình dân học vụ, “Bổ túc văn hoá”, “Giáo dục bổ túc”,
“Giáo dục phổ thông ngƣời lớn”, “Giáo dục thƣờng xuyên, “GDKCQ” đã
phản ánh đƣợc sự tiến triển trong quan niệm về GDTX ở Việt Nam và xu thế
hoà nhập với các nƣớc trong khu vực. Quan niệm về GDTX ngày càng mở
rộng, từ chỗ chỉ quan tâm đến xoá mù chữ, bổ túc văn hoá, nay đã quan tâm
đến nhiều loại hình học tập khác nhau.
Qua những khái niệm trên ta có thể nói GDTX, học tập thƣờng xuyên sẽ
mở rộng thành giáo dục suốt đời, học tập suốt đời, trở thành một nguyên tắc
chi phối cả nền giáo dục, kết hợp hài hoà với nguyên tắc giáo dục cho mọi
ngƣời, ai cũng đƣợc học hành. Đó chính là nguyên tắc cơ bản của nền giáo
dục thế kỉ 21 của nƣớc ta.


18
1.1.3.2. Trung tâm Giáo dục thường xuyên
Trung tâm GDTX đƣợc coi là đồng nghĩa với Trung tâm giáo dục ngƣời
lớn. Hai thuật ngữ này đƣợc hiểu là diễn ra những hoạt động có tổ chức cho
việc giáo dục ngƣời lớn.
Trong Hội nghị về Trung tâm GDTX đƣợc tổ chức tại Sri Lanca tháng 11
năm 1994 đã định nghĩa: “Trung tâm GDTX là tổ chức giáo dục địa phƣơng,
ngoài hệ thống giáo dục chính quy, thuộc các làng hoặc các cộng đồng thành

phố, thƣờng đƣợc quản lý bởi nhân dân địa phƣơng, có nhiệm vụ cung cấp
nguồn lực cho sự phát triển địa phƣơng và việc học tập định hƣớng theo gia
đình và cung cấp thông tin về câu hỏi: Cái gì? Làm sao? ở đâu? Khi nào? Các
cá nhân có thể tham gia vào các hình thức học tập khác nhau của GDTX”.
Ở nƣớc ta, Trung tâm GDTX đƣợc hiểu là tổ chức căn bản của hệ thống
GDTX. Vai trò của Trung tâm GDTX trong hệ thống GDTX cũng tƣơng tự
nhƣ vai trò của nhà trƣờng trong hệ thống giáo dục chính quy truyền thống.
Trung tâm GDTX vừa là nơi trực tiếp, vừa là đầu mối liên kết với các tổ
chức khác nhau trong cộng đồng cung cấp các cơ hội học tập cho những
ngƣời không có điều kiện học trong nhà trƣờng chính quy. Các Trung tâm
GDTX đƣợc bố trí thành một mạng lƣới, mỗi Trung tâm GDTX phục vụ cho
một địa bàn dân cƣ. Hiện nay trong hệ thống GDTX của nƣớc ta có các Trung
tâm GDTX cấp tỉnh và Trung tâm GDTX cấp huyện. Tuy nhiên quan hệ giữa
các Trung tâm GDTX này không phải là quan hệ “trên, dƣới” trong quản lý.
1.1.4. Giáo viên, giáo viên Bổ túc trung học phổ thông
1.1.4.1. Giáo viên
Ngày 02/12/1998, Luật Giáo dục đầu tiên của nƣớc Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đƣợc ban hành và xác định rõ:
- Nhà giáo là ngƣời làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trƣờng
hoặc các cơ sở giáo dục khác.
- Nhà giáo dạy ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp, gọi là giáo viên.


19
1.1.4.2. Giáo viên bổ túc trung học phổ thông
Giáo viên bổ túc trung học phổ thông là nhà giáo dạy ở các trung tâm giáo
dục thƣờng xuyên.
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta và thế giới về Giáo dục thƣờng xuyên
1.2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Giáo dục thường xuyên

Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về GDTX ở Việt Nam bắt đầu từ khi
Đảng Cộng sản Việt Nam đƣợc thành lập. Phong trào học chữ quốc ngữ, xóa
nạn mù chữ cho ngƣời lớn phát triển mạnh mẽ. Trƣớc Cách mạng tháng Tám,
cả nƣớc ta chỉ có 3% dân số đƣợc học hành, chủ yếu là những ngƣời đƣợc đào
tạo ra nhằm phục vụ cho bộ máy cai trị của thực dân Pháp; do đó chống nạn
thất học, nâng cao dân trí là nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nƣớc ta. Ngay
trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở
một chiến dịch để chống nạn mù chữ”. Sau đó liên tục các sắc lệnh 17, 19, 20
đã ra đời nhằm chống nạn thất học, bắt buộc và miễn phí cho mọi ngƣời học
chữ quốc ngữ. Cuối năm 1958, chiến dịch 3 năm (1956 - 1958) xoá mù chữ kết
thúc, vùng đồng bằng và trung du miền Bắc đã căn bản xóa xong nạn mù chữ;
93,4% dân số từ 12 đến 50 tuổi đã biết đọc, viết chữ quốc ngữ.
Sau chiến dịch xóa mù chữ, miền Bắc bƣớc vào giai đoạn phát triển với
quy mô lớn, Đảng và Nhà nƣớc đã chỉ đạo tổ chức dạy bổ túc văn hoá nhằm
nâng cao trình độ văn hóa cho đội ngũ cán bộ, công nhân - viên chức. Nghị
quyết 93/TW, ngày 2/12/1959 của Trung ƣơng Đảng đã chỉ rõ: “Trình độ
văn hóa thấp kém của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo ngày càng trở ngại lớn
đến công cuộc xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà. Yêu
cầu bức thiết là phải ra sức đẩy mạnh và lãnh đạo tốt phong trào BTVH”.
Chỉ thị 97 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng, ngày 18/5/1965 đã nêu rõ:
“Công tác bổ túc văn hoá phải đƣợc đặt ra cấp thiết hơn trƣớc và bƣớc vào
một thời kỳ phát triển mới. Trên miền Bắc, toàn dân đã đƣợc huy động thành
một lực lƣợng sản xuất và chiến đấu hùng hậu, đang đòi hỏi có một trình độ


20
văn hóa cao hơn để nhanh chóng tiếp thu đƣợc kỹ thuật sản xuất, nghiệp vụ
quản lý cũng nhƣ hiểu biết cần thiết về chiến tranh nhân dân và quốc phòng
toàn dân”. Từ đó việc học BTVH đƣợc phát triển rộng rãi; nội dung học tập

cũng đƣợc xác định phù hợp với từng loại đối tƣợng. Ngày 29/9/1996 Hội
đồng Chính phủ có chỉ thị số 114-CP xác định đầy đủ hơn về nội dung dạy -
học bổ túc văn hoá: “Nội dung học tập phải tinh giản thiết thực, phải kết hợp
chặt chẽ việc học văn hóa với kỹ thuật và chính trị, vừa đảm bảo kiến thức
khoa học cơ bản cần thiết, vừa gắn liền với thực tiễn sản xuất, chiến đấu và
đời sống”. Chỉ thị 110-CP ngày 13/71968 của HĐ Chính phủ đã bổ sung
thêm: “Nội dung bổ túc văn hoá phải phù hợp đến từng loại đối tƣợng, ngƣời
đứng tuổi chỉ cần học những kiến thức trực tiếp cho công tác sản xuất, thanh
niên học tƣơng đối toàn diện hơn”.
Sau thời kì xoá mù chữ và bổ túc văn hoá, Nhà nƣớc bổ sung thêm ngoài
BTVH còn tổ chức học theo quy trình cấp lớp, tổ chức giảng dạy học tập tri
thức phổ thông cơ bản gắn với nghề nghiệp quy định cấp lớp. Từ đó chuyển đổi
từ trƣờng BTVH đơn chức năng thành trung tâm GDTX đa chức năng để đáp
ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
- Nghị quyết Trung ƣơng 4 khoá VII đã khẳng định: Cần phải thực hiện
một nền GDTX cho mỗi ngƣời, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách
nhiệm của mỗi công dân. Đổi mới giáo dục bổ túc và đào tạo tại chức, khuyến
khích phát triển các loại hình GD-ĐT không chính quy, khuyến khích tự học.
Mở rộng dạy học ngoại ngữ.
- Nghị quyết Trung ƣơng 2 khoá VIII cũng đƣa ra chủ trƣơng nhằm thực
hiện công bằng xã hội: “tạo điều kiện để ai cũng đƣợc học hành”, “tạo cơ hội
cho mọi ngƣời có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh
của mình”, “mở rộng các hình thức học tập thƣờng xuyên, đặc biệt là hình
thức học tập từ xa. Quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, kỹ thuật
nghiệp vụ và công nhân các doanh nghiệp, tăng cƣờng đào tạo và bồi dƣỡng
cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp các ngành” [13].


21
- Trong mục tiêu đến năm 2020, nghị quyết Trung ƣơng 2 đề ra hoàn

thành phổ cập THCS vào năm 2010 và THPT vào năm 2020. Phát triển giáo
dục ở các vùng dân tộc thiểu số, các vùng khó khăn. Phấn đấu giảm sự chênh
lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng lãnh thổ.
- Cũng trong nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục đƣa
ra định hƣớng về phát triển giáo dục và đào tạo đó là đổi mới cơ bản công tác
quản lý và tổ chức giáo dục; xây dựng hệ thống giáo dục nhằm tạo điều kiện
cho mọi ngƣời có thể học tập suốt đời theo hƣớng thiết thực, hiện đại, gắn chặt
với yêu cầu của xã hội. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật để bảo đảm
sự nghiệp giáo dục phát triển ổn định, chất lƣợng, hiệu quả đáp ứng nhu cầu về
con ngƣời và nguồn nhân lực cho đất nƣớc phát triển nhanh và bền vững.
Thực hiện theo tinh thần của Đảng: “Tạo điều kiện để ai cũng đƣợc học
hành. Ngƣời nghèo đƣợc Nhà nƣớc và cộng đồng giúp đỡ để học tập”. Trong
giai đoạn 2001-2010 phải tập trung vào:
- Thực hiện XMC cho đồng bào các dân tộc miền núi vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những ngƣời nghèo, ngƣời
thiệt thòi đƣợc nâng cao trình độ dần từng bƣớc, đặc biệt là phụ nữ.
- Xây dựng loại chƣơng trình giáo dục phù hợp với nhiều loại đối tƣợng.
- Đa dạng hóa các loại hình học tập, địa phƣơng hóa các cách tổ chức quản
lý học tập nhƣ các trung tâm học tập cộng đồng, các lớp linh hoạt để tạo điều
kiện ai cũng đƣợc học hành.
- Có chính sách thỏa đáng giúp những ngƣời gặp nhiều khó khăn có thể học
tập đƣợc.
Phát triển GDTX nhằm thực hiện giáo dục cho mọi ngƣời với ý tƣởng học
tập suốt đời để tiến tới xã hội hoá học tập. ở đó mọi thành viên của xã hội đều
bình đẳng về quyền học tập để nâng cao trình độ học vấn, nâng cao chất lƣợng
cuộc sống. Và vì thế, GDTX không thể chỉ dựa vào Nhà nƣớc mà phải biết dựa
vào cộng đồng, do cộng đồng mà phát triển các loại hình học tập phù hợp và


22

xem nhƣ là một hình thức huy động mọi tiềm năng của cộng đồng để xây dựng
xã hội học tập.
- Đến năm 2010 có 90% số xã có trung tâm học tập cộng đồng; trung tâm giáo
dục thƣờng xuyên, trung tâm ngoại ngữ, tin học đƣợc thành lập ở tất cả các huyện.
- Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X trong nghị quyết của Đại hội
phần định hƣớng phát triển về giáo dục và đào tạo tiếp tục khẳng định đổi mới
tƣ duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chƣơng trình, nội dung,
phƣơng pháp đến cơ cấu hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo đƣợc chuyển
biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nƣớc nhà, tiếp cận với trình độ giáo
dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn
tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Xây dựng nền giáo dục của dân, do dân và
vì dân; bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi ngƣời, tạo điều kiện để
toàn xã hội học tập và học tập suốt đời.
- Nghị quyết 90 CP ngày 24/11/1993 đã nêu: “GDTX là một trong năm phân
hệ trong cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân với các chức năng dạy
BTVH, dạy nghề, ngoại ngữ, tin học”. Đến năm 1998 theo Luật Giáo dục thì
GDTX chuyển thành phƣơng thức GDKCQ là một bộ phận của hệ thống GD quốc
dân.
- Điều 44 của Luật Giáo dục cũng đã khẳng định: “Giáo dục thường
xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn
thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn,
nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và
thích nghi với đời sống xã hội. Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục
thường xuyên, thực hiện giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học
tập”[27].
Trong kế hoạch hành động quốc gia cho mọi ngƣời giai đoạn 2003-2015
đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt ngày 02/7/2003, thể hiện rõ quan điểm
của Đảng, Nhà nƣớc về xây dựng và phát triển GDTX/ GDKCQ là:



23
+ Mục tiêu 1: Đảm bảo rằng tất cả thiếu niên thất học (trong độ tuổi tiểu
học và THCS) đều có cơ hội học tập để đạt tới trình độ Tiểu học và THCS.
+ Mục tiêu 2: Đảm bảo rằng tất cả ngƣời lớn, đặc biệt là phụ nữ và các
nhóm thiệt thòi đều đƣợc tiếp cận miễn phí với các chƣơng trình XMC và sau
XMC có chất lƣợng, các chƣơng trình đào tạo có chất lƣợng và ở mức độ phù
hợp với điều kiện kinh tế về kỹ năng sống cũng nhƣ cơ hội học tập suốt đời.
+ Mục tiêu 3: Nâng cao chất lƣợng, sự phù hợp và kết quả của tất cả các
chƣơng trình GDTX (BT Tiểu học; BT THCS, các chƣơng trình XMC, sau
XMC và kỹ năng sống) cho thanh thiếu niên và ngƣời lớn (cho đến 40 tuổi).
+ Mục tiêu 4: Xây dựng một chiến lƣợc quốc gia toàn diện về GDTX và
các cơ hội học tập suốt đời có nội dung phù hợp và có tính khả thi về tài chính
và xây dựng xã hội học tập.
+ Mục tiêu 5: Tăng cƣờng quản lý các chƣơng trình GDKCQ và GDTX ở
cấp địa phƣơng.
Với hệ thống các quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo xuyên suốt, chúng ta có thể
thấy rằng Đảng và Nhà nƣớc luôn chú ý và tạo mọi điều kiện để GDNL/GDTX
phát triển xứng đáng với vị trí và vai trò của nó trong từng thời kỳ cách mạng
của đất nƣớc. GDTX đã đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc đấu
tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục
tiêu dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
1.2.2. Quan điểm của UNESCO về Giáo dục thường xuyên
Đó là học suốt đời, xã hội học tập. ý kiến đƣợc UNESCO nêu lên lần đầu
tiên cách đây hơn 30 năm trong báo cáo nổi tiếng học tập để tồn tại. Theo báo
cáo đó của UNESCO, một xã hội học tập là một xã hội trong đó tất cả các tổ
chức trong xã hội đều là ngƣời cung cấp giáo dục chứ không riêng gì các cơ
quan trách nhiệm chủ yếu là giáo dục. Một khía cạnh của một xã hội học tập
là toàn thể công dân đều phải học tập và quán triệt để lợi dụng các cơ hội do
xã hội học tập cung cấp.



24
Theo APPEAL, Hội thảo tiểu khu vực của UNESCO về giáo dục thƣờng
xuyên họp tại Canberra, Australia, trong tháng 11 năm 1987 đã định nghĩa
giáo dục thƣờng xuyên là “một khái niệm rộng rãi bao gồm toàn thể các cơ hội
học tập mà mọi ngƣời đều mong muốn hoặc cần có sau xoá mù chữ cơ bản và
giáo dục tiểu học”. Định nghĩa này bao hàm những điểm sau đây:
- Giáo dục thƣờng xuyên dành cho ngƣời lớn đã biết chữ.
- Nó đáp ứng những nhu cầu và mong muốn.
- Nó có thể bao gồm những kinh nghiệm do giáo dục chính qui, không chính
qui và phi chính quy cung cấp.
- Nó đƣợc định nghĩa là “cơ hội” học tập suốt đời sau khi học xong bậc tiểu
học hoặc tƣơng đƣơng.
Giáo dục thƣờng xuyên đƣợc coi nhƣ sự mở rộng chủ yếu của xoá mù chữ
và giáo dục tiểu học nhằm thúc đẩy sự phát triển tài nguyên con ngƣời.
1.3. Vị trí của Giáo dục thƣờng xuyên trong hệ thống giáo dục quốc dân
Ngành học giáo dục thƣờng xuyên nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân
Việt Nam. Ngành học giáo dục thƣờng xuyên có nhiệm vụ bồi dƣỡng kiến thức
văn hoá và nghiệp vụ cho toàn dân, đặc biệt là những ngƣời do các hoàn cảnh
khác nhau mà chƣa đƣợc học tập có hệ thống. Trong ngành học giáo dục thƣờng
xuyên có hệ bồi dƣỡng, hệ tại chức, hệ bổ túc văn hoá và hệ giáo dục từ xa, dạy
nghề, ngoại ngữ, tin học, phổ cập Hệ thống giáo dục thƣờng xuyên góp nhiều
công sức, hỗ trợ cho hệ chính quy trong công cuộc nâng cao dân trí và đào tạo
nhân lực cho xã hội.
Nền khoa học và công nghệ phát triển nhanh, xã hội đòi hỏi phải có một
nguồn lao động lớn có trình độ tri thức khoa học kỹ thuật ngày càng cao. Trong
khi đó, hệ thống giáo dục chính quy chủ yếu chỉ chăm lo cho một bộ phận công
dân thành đạt trong một giai đoạn nhất định với nội dung chƣơng trình chọn lọc,
tinh tuý, kinh viện nhiều kiến thức thực tế chóng bị lạc hậu và không đáp ứng
kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hơn nữa, xu hƣớng tập trung hoá, đô

×