Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Định hướng nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho thanh niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.44 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGÔ HẢI TIẾN
ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN HUYỆN VĂN GIANG
TỈNH HƯNG YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI, NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGÔ HẢI TIẾN
ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN HUYỆN VĂN GIANG
TỈNH HƯNG YÊN
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ MINH NGUYỆT
HÀ NỘI, NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, các số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận
văn là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ bất kỳ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn
Ngô Hải Tiến
i
LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban
giám hiệu trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội nay là Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh; cảm ơn các thầy, cô giáo đã
truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS Phạm Thị
Minh Nguyệt- người đã dành nhiều thời gian, tạo điều kiện thuận lợi, hướng
dẫn về phương pháp khoa học và cách thức thực hiện các nội dung của đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân, cơ quan, bạn bè
đồng nghiệp và các anh chị em học viên lớp Quản trị kinh doanh C – K21 đã chia
sẻ, động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện
luận văn này.
Trong quá trình làm nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn
thành luận văn, đã tham khảo nhiều tài liệu và đã trao đổi, tiếp thu ý kiến của
thầy, cô và bạn bè. Song, do điều kiện về thời gian và trình độ nghiên cứu của
bản thân còn nhiều hạn chế nên nghiên cứu khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì
vậy, tôi rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của thầy, cô và các
bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn
Ngô Hải Tiến
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CAM ĐOAN i
4.1.3.2 Các chương trình, chính sách có liên quan đến giải quyết việc làm việc làm cho thanh niên
huyện Văn Giang 50
4.1.3.3 Thực trạng mạng lưới giải quyết việc làm cho thanh niên 51
d/ Các tổ chức chính trị xã hội 53

Các phòng ban tham gia tạo nghề, bao gồm; Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu
chiến binh, phòng Lao động – TBXH, phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, phòng Công
thương 53
Như vậy, gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội đóng vai trò quan trọng trong định hướng nghề
nghiệp cho thanh niên. Vì vậy cần phải kết hợp 3 tổ chức trên một cách nhuần nhuyễn để tìm đúng
hướng đi cho thanh niên trong việc lựa chọn nghề nghiệp 54
4.1.4.2 Nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho thanh niên 54
+ Chất lượng của lao động là thanh niên trong huyện còn thấp 54
+ Thiếu vốn cho sản xuất – kinh doanh 56
+ Chính sách hỗ trợ cho học nghề của nhà nước còn hạn chế 56
+ Điều kiện khó khăn của bản thân người học 57
DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang
Bảng 3.1 Tình hình sử dụng đất đai của huyện qua 3 năm từ 2011 – 2013 24
Bảng 3.2 Tình hình dân số và lao động của huyện Văn Giang 25
Bảng 3.3. Hiện trạng hệ thống giao thông cuả huyện 27
Bảng 3.4 Tình hình sản xuất kinh doanh của huyện 28
Bảng 3.5 Quy mô mẫu điều tra 29
Bảng 4.1 Tình hình lao động là thanh niên ở Văn Giang 33
Bảng 4.2 Số lượng thanh niên được định hướng nghề nghiệp 3 năm 42
iii
Bảng 4.3. Tình hình việc làm của thanh niên 44
Bảng 4.4 Số lượng thanh niên được đào tạo ngắn hạn trong 3 năm 45
Bảng 4.5 Số lượng thanh niên được tập huấn, chuyển giao tiến bộ KHKT 3 năm từ năm 2011 – 2013. 47
Bảng 4.6. Số lao động thanh niên trong hộ gia đình 49
Bảng 4.7 Mạng lưới tạo việc làm cho lao động thanh niên 52
Bảng 4.8 Các làng nghề 53
iv
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Thanh niên là lực lượng lao động lớn của xã hội và là nguồn lực quan
trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trước yêu cầu
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và sự
biến đổi nhanh chóng của lực lượng thanh niên cũng như yêu cầu của công
tác chăm lo, bồi dưỡng và phát huy vai trò, sức mạnh của thanh niên trong
thời kỳ mới, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Thanh niên Việt Nam nói chung và thanh niên Văn Giang nói riêng luôn
coi trọng vấn đề phát triển nghề nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng
nhằm góp phần vào sự phát triển chung của vùng. Thế nhưng trước yêu cầu
của thời đại, thanh niên Văn Giang luôn ra sức phấn đấu lao động để hướng
tới tương lai tốt đẹp. Điều đó đòi hỏi thanh niên phải có nghề nghiệp ổn định
trong tầm tay thì mới có thể góp sức của mình phát triển kinh tế - xã hội của
huyện Văn Giang nói chung được. Thế nhưng vấn đề lựa chọn nghề nghiệp
cho mình đang trở thành vấn đề bất cập của thanh niên Văn Giang hiện nay.
Nghề nghiệp luôn được coi là một trong nhiều yếu tố quan trọng quyết
định tương lai của mỗi con người. Vì thế lựa chọn cho mình một ngành nghề
phù hợp là vấn đề được nhiều bạn trẻ quan tâm, đặc biệt là thanh niên. Trong
xã hội hiện nay, thanh niên có rất nhiều lựa chọn cho mình để tìm một công
việc, đó có thể là những công việc lao động chân tay, cũng có thể là những
công việc đòi hỏi phải có trình độ chất xám, …. Mỗi ngành nghề lại có một
đặc thù riêng. Vậy họ sẽ lựa chọn như thế nào?
Trong quá trình lựa chọn ngành nghề cho mình có nhiều yếu tố tác động
như các yếu tố do chính bản thân lựa chọn, cũng có thể do tác động của gia
đình, bạn bề và môi trường xã hội thúc đẩy, hình thành động cơ lựa chọn
1
ngành nghề cho bản thân họ. Trên cơ sở hình thành các mâu thuẫn nảy sinh
đó có người thì chọn đúng ngành nghề phù hợp với bản thân mình nhưng có
người lại không tìm đúng ngành nghề cho mình do đó không phát huy được
hết khả năng làm cho chất lượng nghề nghiệp cũng bị giảm theo. Hay có

những người không có tư tưởng lập trường vững vàng mà lựa chọn nghề
nghiệp theo ý kiến của người khác, không tìm ra điểm mạnh điểm yếu của
mình trong việc áp dụng vào việc lựa chọn nghề nghiệp tạo nên sự bị động
trong lựa chọn…Tất cả những vấn để bất cập nêu trên là một động lực thúc
dẩy chúng ta nghiên cứu đề tài “Định hướng nghề nghiệp và giải quyết việc
làm cho thanh niên”, qua đó tìm ra đặc điểm, tính chất và xu thế chung của
thanh niên hiện nay trong việc định hướng nghề nghiệp cho mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
- Đánh giá thực trạng định hướng nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho
thanh niên, tìm ra những nhân tố ảnh hưởng từ đó đưa ra giải pháp giúp thanh
niên có định hướng nghề nghiệp phù hợp và việc làm phù hợp.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về định hướng nghề
nghiệp và giải quyết việc làm cho thanh niên.
- Đánh giá thực trạng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến định
hướng nghiệp và giải quyết việc làm cho thanh niên ở huyện Văn giang, tỉnh
Hưng Yên.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để định hướng và giải quyết việc
làm cho thanh niên ở huyện Văn Giang , tỉnh Hưng Yên.
1.3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thanh niên bao gồm:
- Thanh niên trong độ tuổi học phổ thông
2
- Thanh niên nông thôn
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Phạm vi về thời gian: nguồn số liệu phục vụ đề tài được thu thập
giai đoạn 2011 – 2013. Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra, phỏng
vấn thanh niên, hộ gia đình thanh niên, mạng lưới tạo việc làm, các cơ quan

năm 2014.
1.3.2.2. Phạm vi về không gian
Tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
1.3.2.3. Phạm vi nội dung
Nghiên cứu thực trạng hướng nghiệp và việc làm cho thanh niên huyện
Văn Giang, tỉnh Hưng Yên từ đó đề xuất giải pháp hướng nghiệp và giải
quyết việc làm cho thanh niên.
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm liên quan
2.1.1.1. Định hướng nghề nghiệp
3
- Định hướng: Định hướng là việc giúp người khác có sự chọn lựa đúng
đắn nhất trong công việc cũng như trong cuộc sống để thực hiện mang lại kết
quả tốt đẹp cho bản thân [13].
- Nghề nghiệp: Nghề nghiệp hay hoạt động nghề nghiệp được hiểu là
hoạt động phục vụ cho cơ sở tồn tại và hướng vào việc kiếm sống, việc này
phải được làm lâu dài và để hoàn thành cần có kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm (trình độ chuyên môn) theo tổ hợp đặc biệt thân [13].
- Định hướng nghề nghiệp: là việc giúp con người xác định nghề
nghiệp và đi tới quyết định một cách có ý thức trong việc lựa chọn con đường
nghề nghiệp phù hợp với những đặc điểm tâm lý, thể chất dựa trên cơ sở các
kết quả chuẩn đoán tâm lý, tâm sinh lý và y tế [13].
2.1.2. Các hình thức định hướng nghề nghiệp
a) Hướng nghiệp qua các môn học:
Dựa vào đặc trưng của bộ môn, các môn học đều có thể và cần phải
giáo dục hướng nghiệp một cách thích hợp để qua các kiến thức khoa học mà
cung cấp cho học sinh những tri thức về tiềm năng đất nước, khả năng và
thành tựu của nhân dân trong lao động, sự phát triển các ngành nghề nông
nghiệp, tiểu thủ công, công nghiệp then chốt; giáo dục ý thức chọn ngành,

chọn nghề đúng đắn, tinh thần sẵn sàng đi vào các ngành nghề đang cần phát
triển để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và quê hương.
Đặc biệt qua các phân môn kỹ thuật phổ thông (trồng trọt, chăn nuôi,
lâm nghiệp, thuỷ sản, cơ khí, kỹ thuật điện, vô tuyến điện, v.v ) cần giới
thiệu cho học sinh các nghề cơ bản có liên quan trực tiếp tới môn học và tổ
chức cho học sinh thực hành kỹ thuật, sản xuất trong những ngành nghề đó.
Các phân môn kỹ thuật phục vụ giới thiệu cho học sinh ngành dệt, nghề may,
chế biến thực phẩm, các nghề thuộc lĩnh vực phục vụ
4
Để tiến hành hướng nghiệp qua các môn học, các nhà trường phải cải
tiến phương pháp giảng dạy, tăng cường thực hành môn học, kết hợp giảng
dạy với lao động sản xuất, tổ chức tham quan, xây dựng phòng bộ môn
Phải chấn chỉnh tình hình giảng dạy kỹ thuật hiện nay, tăng cường đào
tạo và bồi dưỡng nâng cao chất lượng của giáo viên giảng dạy kỹ thuật; kết
hợp với các cơ sở sản xuất tạo điều kiện cho nhà trường có thể tổ chức thực
hành kỹ thuật, có công nhân lành nghề và cán bộ kỹ thuật giúp đỡ nhà trường
trong giảng dạy kỹ thuật.
b) Hướng nghiệp qua hoạt động lao động sản xuất:
Tổ chức lao động sản xuất trong nhà trường là biện pháp rất quan trọng
để thực hiện công tác hướng nghiệp. Qua lao động sản xuất, giáo dục quan
điểm, thái độ, ý thức lao động cho học sinh; trên cơ sở đó giáo dục ý thức
đúng đắn đối với nghề nghiệp, tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với nghề và
lao động trong các dạng nghề nghiệp khác nhau, phát triển hứng thú, năng lực
của học sinh đối với một vài dạng lao động nhất định, hướng dẫn học sinh lựa
chọn nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và phù hợp với năng
lực của bản thân.
Trong thời gian tới, các trường cần tích cực tổ chức hướng dẫn học sinh
lao động sản xuất, chấm dứt những hình thức lao động tuỳ tiện, gắn nội dung
lao động với phương hướng sản xuất và các nghề đang cần phát triển. Các
trường vừa học vừa làm càng phải cần nâng cao chất lượng học lao động và

có tác dụng thực sự hướng nghiệp.
Ở vùng nông thôn cần chú trọng ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, tiểu thủ công như các nghề trồng trọt, chăn nuôi (trồng cây lương
thực, cây lấy gỗ, cây thuốc nam, xây dựng vườn cây Bác Hồ, ao cá Bác Hồ,
chăn nuôi gia cầm, gia súc ); nghề phổ biến như mộc, nề, rèn, cơ khí ;
nghề truyền thống, xuất khẩu (đan, thêu, v.v ) ở thành phố và vùng công
nghiệp là ngành công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ
5
Muốn vậy, phải xây dựng đội ngũ giáo viên chỉ đạo lao động và làm
nòng cốt cho công tác hướng nghiệp của nhà trường. Phải có kế hoạch kết
hợp với các cơ sở sản xuất của địa phương như hợp tác xã nông lâm trường,
nhà máy, xí nghiệp, cơ sở đào tạo nghề, trại, trạm thí nghiệm nhằm tạo điều
kiện cho học sinh có thể tham gia lao động sản xuất ngành nghề gắn bó với
địa phương. Ngoài ra, các địa phương cần trang bị kỹ thuật tối thiểu để cung
cấp cho nhà trường.
c) Hướng nghiệp qua việc giới thiệu các ngành nghề:
- Để giúp học sinh hiểu biết các ngành nghề, các trường tạm thời sử
dụng mỗi tháng 1 buổi lao động giới thiệu, tuyên truyền, giải thích ngành
nghề. Nội dung chủ yếu của những buổi này là giới thiệu cho học sinh khái
quát về sự phát triển kinh tế của đất nước và địa phương, nhu cầu sử dụng
nguồn lao động dự trữ xã hội, những hiểu biết về những ngành nghề cơ bản,
và nghề truyền thống của địa phương.
- Khi giới thiệu nghề nghiệp, cần tập trung vào một số điểm cơ bản như
vị trí, vai trò, triển vọng, những hoạt động cơ bản của nghề; những phẩm chất
năng lực lao động cần có, những môn học phổ thông cần thiết đối với nghề
- Nhà trường tự sưu tầm, sử dụng tài liệu, sách báo, tranh ảnh, phim, vô
tuyến truyền hình, dựa vào các cơ sở sản xuất, phụ huynh học sinh, cán bộ kỹ
thuật của địa phương để giới thiệu nghề cho học sinh. (Bộ sẽ từng bước biên
soạn cung cấp tài liệu cho các trường).
d) Hướng nghiệp qua các hoạt động ngoại khoá:

- Xây dựng các tổ ngoại khoá, đặc biệt là các tổ ngoại khoá về kỹ thuật,
nhằm phát triển hứng thú học tập và hứng thú nghề nghiệp của học sinh. Đối
với những học sinh có xu hướng và năng khiếu về các ngành nghề thuộc lĩnh
vực nghiên cứu khoa học, văn hoá, nghệ thuật, hoạt động xã hội, cũng cần
phát hiện và tổ chức các tổ ngoại khóa bộ môn để bồi dưỡng.
- Tổ chức xây dựng góc hoặc phòng hướng nghiệp.
6
- Kết hợp với đoàn thanh niên và đội thiếu niên tổ chức những buổi toạ
đàm hướng dẫn học sinh lựa chọn nghề, vận động nam nữ thanh niên đi vào
những nghề Nhà nước, địa phương đang cần nhiều nhân lực.
- Kết hợp với hội cha mẹ học sinh giúp đỡ, chỉ dẫn sự chọn nghề cho
học sinh.
- Phối hợp với các cơ sở sản xuất ở địa phương tạo điều kiện cho học
sinh tham quan cơ sở sản xuất, giới thiệu các nghề và có thể tổ chức cho học
sinh tham gia lao động nghề nghiệp.
2.1.3. Việc làm và thất nghiệp
2.1.3.1. Việc làm
Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội,
là vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Tại hội nghị quốc tế lần thứ 13
của tổ chức lao động thế giới (ILO), các nhà thống kê lao động đã đưa ra khái
niệm người có việc làm như sau: Người có việc làm là những người làm việc
gì đó có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật,
hoặc người tham gia và các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi
ích hay thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật [8].
Theo Bộ luật lao động thì: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [8].
Còn theo từ điển Tiếng việt (xuất bản năm 1992) xác định việc làm như
sau: 1. Hành động cụ thể; 2. Công việc được giao cho làm và được trả tiền công.
Như vậy, việc làm được nhận thức là những hoạt động lao động có ích
cho bản thân, gia đình và xã hội và được thể hiện dưới các hình thức:

- Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật
hoặc để đổi công.
- Các công việc tự làm để thu lợi cho bản thân.
- Làm các công việc nhằm tạo thu nhập (bằng tiền hoặc hiện vật) cho gia
đình mình nhưng không hưởng tiền lương tiền công.
7
Hiện nay quan niệm về việc làm đã có nhiều thay đổi, trong thời kỳ bao
cấp, người lao động được coi là có việc làm khi họ tiến hành những công việc
đòi hỏi một chuyên môn nào đó, tạo thu nhập nhất định; người có việc làm
hoặc phải thuộc biên chế Nhà nước, hoặc làm việc trong các hợp tác xã
Theo cách hiểu này, khái niệm việc làm không tính đến những người lao động
đang làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân, cá thể, hay làm việc tại nhà. Do
quan niệm máy móc như vậy và để đảm bảo tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
nên trong xã hội không thừa nhận thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư
thừa Quan niệm này đã hạn chế rất lớn hoạt động lao động sản xuất của con
người, triệt tiêu nhiều tiềm năng sáng tạo, tính chủ động của họ trong quá
trình hoạt động thực tiễn. Hiện nay quan niệm này đã thay đổi, người có việc
làm không thất thiết phải vào biên chế nhà nước mà có thể làm việc ở mọi
thành phần kinh tế hoặc do bản thân người lao động tự tạo ra để có thu nhập.
Việc đổi mới nhận thức về việc làm đã đưa đến sự đổi mới nhận thức, quan
niệm về chính sách, biện pháp giải quyết việc làm trong điều kiện cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo hướng khơi dậy mọi nguồn lực và
và khả năng to lớn nhằm giải phóng sức lao động, giải quyết việc làm cho
người lao động ở mọi thành phần kinh tế, ở mọi khu vực, trong đó đặc biệt
chú ý đến khả năng tự tạo việc làm của chính bản thân người lao động. Hơn
nữa, quan niệm mới hiện nay không chỉ chú ý đảm bảo có đủ việc làm cho
người lao động, mà còn coi trọng nâng cao chất lượng việc làm tiến tới việc
làm có năng suất, có thu nhập cao và được tự do lựa chọn việc làm, tức là
đảm bảo tính nhân văn của việc làm.
- Người có việc làm là người có đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong

các ngành kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ liền kề trước thời điểm điều tra
có thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là
có việc làm. ở nhiều nước sử dụng mức chuẩn này là 1 giờ, còn ở nước ta
mức chuẩn này là 8 giờ.
8
Riêng với những người trong tuần lễ tham khảo không có việc làm vì
các lý do bất khả kháng hoặc do nghỉ ốm, thai sản, nghỉ phép, nghỉ hè, đi học
có hưởng lương, nhưng trước đó họ đã có một công việc nào đó với thời gian
thực tế làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có
việc làm và họ sẽ tiếp tục trở lại làm việc bình thường sau thời gian tạm nghỉ,
vẫn được tính là người có việc làm.
Căn cứ vào chế độ làm việc, thời gian thực tế và nhu cầu làm thêm của
người được xác định là có việc làm trong tuần lễ trước điều tra. Người có việc
làm chia thành hai nhóm: Người đủ việc làm và người thiếu việc làm.
- Người đủ việc làm: Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham
khảo lớn hơn hoặc bằng 36 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm hoặc có số
giờ làm việc nhỏ hơn 36 giờ nhưng bằng hoặc lớn hơn số giờ quy định đối với
người làm các công việc nặng nhọc, độc hại.
- Người thiếu việc làm: Là người có số thời gian làm việc trong tuần lễ
tham khảo dưới 36 giờ, hoặc ít hơn giờ chế độ quy định đối với các công việc
nặng nhọc, độc hại, có nhu cầu làm thêm giờ và sẵn sàng làm việc khi có việc
làm.
2.1.3.2. Thất nghiệp
Thất nghiệp là từ Hán - Việt (thất: mất mát, nghiệp là việc làm) chỉ tình
trạng không có việc làm mang lại thu nhập, người cần có việc làm nhưng lại
không có việc sẽ gặp khó khăn hoặc không thể chi trả các khoản đóng góp, thuế,
nợ nần…Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội như cờ
bạc, rượu chè, nghiện hút, mại dâm…Theo luật lao động nước ta sửa đổi và bổ
sung năm 2002: “Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động muốn làm
việc nhưng chưa tìm được việc làm”. Căn cứ vào thời gian thất nghiệp mà người

ta chia thất nghiệp ra thành thất nghiệp dài hạn và thất nghiệp ngắn hạn.
Thất nghiệp dài hạn là thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên tính từ
ngày đăng ký thất nghiệp hoặc tính từ thời điểm điều tra trở về trước.
9
Ở nông thôn tình trạng thất nghiệp hiếm thấy nhưng tình trạng thiếu
việc làm thì phổ biến.
* Những người không thuộc lực lượng lao động trong độ tuổi lao động
(còn được gọi là dân số không hoạt động kinh tế) bao gồm: Toàn bộ số người
chưa đủ từ 15 tuổi trở lên nên không thuộc bộ phận người có việc làm và thất
nghiệp.Những người không hoạt động kinh tế vì các lý do: Đang đi học, đang
làm công việc nội trợ cho gia đình, già cả ốm đau kéo dài, tàn tật không có
khả năng lao động, tình trạng khác.
- Người thất nghiệp
Năm 2006, khái niệm “người thất nghiệp” đã được luật hóa và trở
thành thuật ngữ pháp lý tại khoản 4 điều 3 Luật BHXH. Theo đó, người thất
nghiệp được định nghĩa là: “người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất
việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp dồng làm việc nhưng chưa
tìm được việc làm”
* Căn cứ vào thời gian thất nghiệp,người thất nghiệp được chia thành:
Thất nghiệp ngắn hạn và thất nghiệp dài hạn.
- Thất nghiệp ngắn hạn: Là người thất nghiệp liên tục từ dưới 12 tháng
tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc từ thời điểm điều tra trở về trước.
- Thất nghiệp dài hạn: Là người thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên
tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc từ thời điểm điều tra trở về trước.
Phần lớn các nước đều sử dụng khái niệm trên để xác định người thất
nghiệp. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt khi xác định mức thời gian không có
việc làm.
* Trong khi phân loại cơ cấu các thị trường lao động hiện nay, thất
nghiệp phân ra thành ba loại khác nhau: Thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp
theo chu kỳ và thất nghiệp có tính cơ cấu.

- Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do sự di chuyển không ngừng của con
người giữa các vùng, các công việc hoặc là các giai đoạn khác nhau của cuộc
10
sống. Thậm chí trong nền kinh tế có đầy đủ việc làm, vẫn luôn có một số
chuyển động nào đó do người ta đi tìm việc làm khi tốt nghiệp các trường
hoặc chuyển đến một nơi sinh sống mới. Hay phụ nữ có thể trở lại lực lượng
lao động sau khi sinh con. Do những công nhân thất nghiệp tạm thời thường
chuyển công việc hoặc tìm những công việc mới tốt hơn, cho nên người ta
thường cho rằng họ là những người thất nghiệp “Tự nguyện”.
- Thất nghiệp có tính cơ cấu xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung
và cầu lao động, sự mất cân đối này có thể diễn ra vì mức cầu đối với một loại
lao động tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại lao động khác giảm đi,
trong khi đó mức cung không được điều chỉnh nhanh chóng. Như vậy trong
thực tế xảy ra sự mất cân đối trong các ngành nghề hoặc các vùng do một số
lĩnh vực phát triển so với một số lĩnh vực khác và do quá trình đổi mới công
nghệ. Nếu tiền lương rất linh hoạt trong những khu vực có nguồn cung cao và
tăng lên trong những khu vực có mức cầu cao.
2.1.4 Thanh niên và đặc điểm của thanh niên
2.1.4.1 Thanh niên
Trong lịch sử đã diễn ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi giữa các nhà
khoa học về định nghĩa TN. Có thể tiếp cận đối tượng này dưới nhiều góc độ
khác nhau: Triết học, tâm lý hoc, xã hội học, khoa học thể chất…
Tiêu điểm của các cuộc tranh luận là vấn đề có nên coi TN là một
nhóm nhân khẩu - xã hội độc lập hay không? Do quan điểm giai cấp chi phối,
nếu coi TN là một tầng lớp độc lập thì sợ bị nhầm lẫn với “giai cấp thanh
niên” – theo quan điểm của một số nhà xã hội học phương Tây xuyên tạc. Còn
nếu không coi TN là một nhóm nhân khẩu xã hội độc lập thì không thấy được
đặc thù của tầng lớp này, dễ hoà tan lợi ích của nó vào các tầng lớp xã hội khác.
Tuy nhiên, cuộc tranh luận dần dần cũng được thống nhất. Quan điểm
cho rằng TN là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù ấy là: Đặc trưng về độ

11
tuổi, đặc điểm tâm sinh lý và đặc điểm về địa vị xã hội. Chẳng hạn, giáo sư
tiến sỹ Côn (người Nga) đã cho một định nghĩa về TN như sau: “Thanh niên
là một tầng lớp nhân khẩu – xã hội được đặc trưng bởi một độ tuổi xác định,
với những đặc tính tâm lý xã hội nhất định và những đặc điểm cụ thể của địa
vị xã hội. Đó là một giai đoạn nhất định trong chu kỳ sống và các đặc điểm
nêu trên là có bản chất xã hội – lịch sử, tuỳ thuộc vào chế độ xã hội cụ thể,
vào văn hoá, vào những quy luật xã hội hoá của xã hội đó” [12].
Theo quy ước hiện nay độ tuổi thanh niên Việt Nam hiện nay được tính từ
16 - 30 tuổi.Thanh niên là lứa tuổi đã trưởng thành, có đầy đủ tố chất của người
lớn, là thời kỳ dồi dào về trí lực và thể lực do đó thanh niên có đầy đủ những
điều kiện cần thiết để tham gia hoạt động học tập, lao động, hoạt động chính trị
xã hội đạt hiệu quả cao, có khả năng đóng góp cống hiến thể lực và trí lực cho
công cuộc đổi mới đất nước.
2.1.4.2. Đặc điểm của thanh niên
- Đa số thanh niên đã nhận thức được về tình hình nhiệm vụ của đất
nước, về nhiệm vụ chiến lược trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
- Thanh niên đã thể hiện rõ ý thức chính trị - xã hội qua tính cộng
đồng, tinh thần xung phong, tình nguyện, lòng nhân ái, sẵn sàng nhường cơm
xẻ áo, xả thân vì nghĩa lớn. Thanh niên đã nhận thức rõ vai trò và trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với đất nước và tích cực tham gia.
- Thanh niên có tính tình nguyện, tính tự giác trong mọi hoạt động. Tính tự
trọng phát triển mạnh mẽ , tính độc lập của thanh niên cũng phát triển mạnh mẽ .
Thanh niên luôn tự chủ trong mọi hoạt động của mình (học tập, lao động và hoạt
động xã hội). Họ luôn có tinh thần vượt khó, cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Tuổi thanh niên có tính năng động, tính tích cực. Thế hệ trẻ rất nhạy
bén với sự biến động của xã hội. Thanh niên ngày nay không thụ động, không
trông chờ ỷ lại vào người khác mà tự mình giải quyết những vấn đề của bản
12
thân. Thanh niên thường giàu lòng quả cảm, gan dạ, dũng cảm và giàu đức

hy sinh.
- Thanh niên có tinh thần đổi mới, rất nhạy cảm với cái mới, nhanh
chóng tiếp thu cái mới. Trong học tập, lao động và hoạt động xã hội , thanh
niên thể hiện tính tổ chức, tính kỷ luật rõ rệt.
- Nhu cầu của thanh niên: Nhu cầu của TN ngày nay khá đa dạng và
phong phú và phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội . Mối quan tâm
lớn nhất của TN là việc làm, nghề nghiệp . tiếp theo là nhu cầu học tập, nâng
cao nhận thức, phát triển tài năng. TN có nhu cầu nâng cao thu nhập và ổn định
cuộc sống. Bên cạnh đó TN còn có các nhu cầu về vui chơi giải trí, thể thao, nhu
cầu về tình bạn, tình yêu và hôn nhân gia đình…TN đã thể hiện tích cực, chủ động
trong việc thoả mãn nhu cầu của mình thông qua hoạt động lao động học tập, giao
tiếp, giải trí… bằng chính sức lực và trí tuệ của thế hệ trẻ. Tuy nhiên vẫn còn một
bộ phận TN có những nhu cầu lệch lạc, lười lao động, thích hưởng thụ đòi hỏi
vượt quá khả năng đáp ứng của gia đình và xã hội nên đã có biểu hiện lối sống
không lành mạnh hoặc vi phạm pháp luật.
- Hứng thú của thanh niên: Hứng thú của TN có tính ổn định bền vững,
liên quan đến nhu cầu. Hứng thú có tính phân hoá cao, đa dạng, ảnh hưởng đến
khát vọng hành động và sáng tạo của TN. Nhìn chung TN rất hứng thú với cái
mới, cái đẹp.
- Lý tưởng của thanh niên: TN là lứa tuổi có ước mơ, có hoài bão lớn
lao và cố gắng học tập, rèn luyện, phấn đấu để đạt ước mơ đó. Nhìn chung TN
ngày nay có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn đem sức mình cống hiến cho xã
hội, phấn đấu vì một xã hội tốt đẹp hơn.
- Về thế giới quan: Do trí tuệ đã phát triển, TN đã xây dựng được thế
giới quan hoàn chỉnh với tư cách là một hệ thống. TN đã có quan điểm riêng
với các vấn đề xã hội, chính trị, đạo đức, lao động [12].
2.2. Nội dung định hướng nghề nghiệp
13
2.2.1. Cơ quan định hướng, giải quyết việc làm
Cơ quan đinh hướng, giải quyết việc làm bao gồm: Đoàn TN, Hội Phụ

nữ, Hội nông dân và một số cơ quan , phòng ban khác có liên quan.
2.2.2. Các đặc điểm của thanh niên liên quan đến định hướng nghề
nghiệp và giải quyết việc làm
a) Sở thích nghề nghiệp
Sở thích là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự
lựa chọn của thanh niên. Nếu thích làm việc trong môi trường tự do, thích
được thể hiện mình thì họ sẽ chon các ngành nghề như: kinh doanh , bảo
hiểm, marketting Mặt khác nếu thích môi trường ổn định , ít biến động và có
thu nhập cao thì họ sẽ chọn các ngành như kế toán, tài chính, ngân hàng…
b) Tiềm năng bẩm sinh
Tiềm năng bẩm sinh là yếu tố quan trọng quyết định việc định hướng
nghề nghiệp của thanh niên. Nếu lúc còn nhỏ đã được phát hiện có khả năng
về một lĩnh vực nào đó thì nó là cơ sở , tiền đề để khi lớn nên thanh niên sẽ
tìm cho mình một nghề phù hợp với tiềm năng của mình mà từ nhỏ đã được
phát hiện.
c) Xu hướng xã hội
Trong xã hội hiên nay thì thu nhập của các ngành nghề sẽ là nhân tố
không nhỏ quyết định đến sự lựa chọn của thanh niên mặc dù nghành nghề đó
không phù hợp với sở thích của họ mà họ sẽ tìm cho mình một ngành nghề
mà có khả năng đáp ứng được cuộc sống của họ vì vậy thanh niên hiên nay
có xu hướng theo các ngành như Kinh doanh, tài chính, ngân hàng, nghệ
thuât… Điều đó chứng tỏ xu hướng xã hội là một trong những yếu tố quan
trọng trong việc định hướng nghề nghiệp của thanh niên hiện nay.
14
2.3. Cơ sở thực tiễn
2.3.1. Tình hình định hướng nghề nghiệp trên thế giới và Việt Nam.
2.3.1.1. Tình hình định hướng nghề nghiệp ở một số nước trên thế giới
Ở các quốc gia phát triển, việc định hướng nghề nghiệp được bắt đầu từ
rất sớm, ngay từ trong môi trường phổ thông. Thông thường, việc hướng
nghiệp được tổ chức một cách bài bản thông qua trao đổi định hướng, chuyên

đề giữa phụ huynh với HS, nhà trường với HS, đồng thời có cả các bài trắc
nghiệm hướng nghiệp được thiết kế trên cơ sở khoa học… giúp các em đánh
giá bản thân xem phù hợp với nghề nào. Các buổi nói chuyện với những
người thành đạt cũng là một biện pháp hiệu quả.
Ở Liên bang Nga HN được thực hiện nhằm mục tiêu:
- Đảm bảo quyền tự chọn nghề của học sinh giúp các em tự thể hiện nhân
cách trong điều kiện quan hệ thị trường
- Tôn trọng hứng thú nghề nghiệp của con người cũng chỉ rõ nhu cầu của
thị trường lao động.
- Không ngừng nâng cao trình độ thạo nghề của cá nhân như là điều kiện quan
trọng nhất được thoả nguyện yêu cầu phát triển của con người trong lao động
Nhật Bản sớm quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa học vấn văn hoá
phổ thông với kiến thức và kỹ năng lao động - nghề nghiệp ở tất cả các bậc
học. Có khoảng 27,9% số trường phổ thông trung học vừa học văn hoá phổ
thông vừa học các môn học kỹ thuật thuộc các lĩnh vực cơ khí, ngư nghiệp,
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ vv… Sau cấp II có đến 94% học sinh vào
cấp III, trong đó 70% học sinh theo học loại hình trường PT cơ bản và 30%
HS theo hướng học nghề.
Tại Hàn Quốc, trong các loại hình trường phổ thông, nội dung giảng dạy
kỹ thuật - lao động là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chương trình
GD. Hết cấp II học sinh sẽ đi theo hai luồng chính: phổ thông và chuyên
15
nghiệp. Các trường kỹ thuật nghề nghiệp tuyển sinh trước rồi mới chọn HS
theo luồng phổ thông.
Trung Quốc khuyến khích GD suốt đời một cách tích cực. Hiện nay,
GD dựa trên cộng đồng đang được phát triển mạnh mẽ. Trong chương trình
giảng dạy thường có các môn học tự chọn với mục tiêu trang bị cho HS
những kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để HS có khả năng tham
gia lao động nghề nghiệp ở các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau hoặc tiếp
tục học lên trình độ nghề nghiệp cao hơn ở bậc đại học.

Nội dung giáo dục HN trong trường trung học của Cộng hoà Pháp được
phân hoá theo nhiều phân ban hẹp trong đó phần lớn là các ban kỹ thuật -
công nghệ đào tạo kỹ thuật viên. Kế hoạch dạy học ở các chuyên ban kỹ thuật
- công nghệ bao gồm nhiều môn văn hoá PT và kỹ thuật nghề nghiệp theo tỷ
lệ khoảng 50/50. Việc cải cách chương trình GD công nghệ ở Pháp nhằm
hoàn thiện hệ thống GD kỹ thuật công nghệ ở tất cả các bậc học, làm cho nội
dung GD công nghệ phù hợp với từng giai đoạn GD và trình độ phát triển
khoa học kỹ thuật
Định hướng nghề nghiệp là điều tối cần thiết, cần được bắt đầu từ sớm.
Từ định hướng, HS sẽ giải đáp được băn khoăn nên học ngành nào, thi trường
nào… Các em HS cần quan tâm sớm hơn đến việc hướng nghiệp, tốt nhất là
từ cuối cấp THCS, cần chú trọng cân nhắc khi chọn ban để học THPT, cần
thay đổi quan niệm rằng phải học ĐH mới thành công… Hướng nghiệp được
tiến hành ở ngay từ THCS, đặc biệt là đẩy mạnh hơn ở cuối cấp THCS là một
điều phù hợp nhất với sự phát triển tâm lý ở HS. Ở lứa tuổi tiểu học, HS còn
có những ước mơ trẻ con về nghề nghiệp, những mơ ước viển vông mang tính
chất lãng mạn, cổ tích và anh hùng như trở thành siêu nhân để trừ gian diệt ác,
trở thành cô tiên để giúp đỡ người nghèo, trở thành phi hành gia để bay vào
vũ trụ… Nhưng khi bước vào giai đoạn lứa tuổi thiếu niên, HS THCS bắt đầu
suy nghĩ về nghề nghiệp một cách hiện thực, có tính đến những khả năng của
16
bản thân, bắt đầu xuất hiện hành vi thu thập thông tin nghề nghiệp và bàn luận
nghề nghiệp với bạn bè. Bắt nguồn từ đặc điểm tâm lý này mà HS THCS đã
có sự thay đổi trong xu hướng học tập khi các em tập trung nhiều hơn vào các
môn liên quan đến nghề nghiệp mà mình quan tâm. Vì lẽ đó, giai đoạn này
cần có sự tác động của công tác hướng nghiệp để có thể kịp thời điều chỉnh
những xu hướng nghề không chín chắn và chưa phù hợp với HS. Bởi sự định
hướng này ít nhiều ảnh hưởng và chi phối đến kết quả học tập, đến việc lựa
chọn ban học khi lên THPT và đương nhiên điều này chi phối khá lớn trong
việc xác định nghề nghiệp sau này.

2.3.1.2. Tình hình định hướng nghề nghiệp ở Việt Nam
Ở Việt Nam công tác hướng nghiệp và việc triển khai hoạt động này ở
nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế; Khi hỏi các em học sinh lớp 10 là
chương trình hướng nghiệp có những nội dung gì thì đa số các em vẫn còn
chưa rõ. Sang lớp 11 tình hình cũng không khả quan mấy và tất cả chờ lên lớp
12. Ở lớp 12, việc hướng nghiệp gần như chỉ thực hiện nội dung tư vấn tuyển
sinh. Trong các buổi hướng nghiệp, việc trao đổi giữa học sinh và các chuyên
gia tư vấn chỉ xoay quanh vấn đề chọn khối nào, trường nào. Ở nhiều trường,
hoạt động ngoài giờ lên lớp về hướng nghiệp chỉ là cho phép một cơ sở đào
tạo nào đó đến “tư vấn” (thực chất chỉ là giới thiệu về trường mình, phục vụ
cho việc tuyển sinh của cơ sở đó).
Về phía gia đình, nói một cách công bằng, bố mẹ nào cũng lo lắng cho
con ở giai đoạn chuyển tiếp quan trọng này, ai cũng mong muốn con mình sẽ
có nghề nghiệp tốt để có tương lai tốt đẹp. Nhưng do nhiều yếu tố khách quan
và chủ quan, cách họ triển khai thực hiện hướng nghiệp cũng theo xu hướng
của nhà trường, chủ yếu vẫn bằng mọi hình thức, mọi thời gian cho con học
để “nhồi nhét” kiến thức, để hy vọng thi đỗ một trường nào đó.
Với cách hướng nghiệp như vậy dẫn đến kết quả là học sinh cũng chủ yếu
quan tâm thi vào trường nào, khoa nào, khổi nào “… phần lớn học sinh đến
17
làm tư vấn hướng nghiệp đều hỏi các câu như: “Trường đó có những khối gì,
điểm chuẩn bao nhiêu. Em học khối này thì nên thi vào trường gì?…” (Đỗ
Thị Lệ Hằng (2009) Vài nét về thực trạng tư vấn hướng nghiệp tại Việt Nam)
Tẩt cả những điều trên đây đã làm xuất hiện ý nghĩ: chúng ta đang thực
hiện hướng nghiệp hay hướng trường thi vào cao đẳng, đại học cho học sinh?
Để thực hiện nội dung Quyết định số 126-CP, công tác hướng nghiệp
phải được tiến hành từ lớp đầu cấp của trường phổ thông cơ sở tới lớp cuối
cấp của trường phổ thông trung học; đồng thời hướng nghiệp phải được tiến
hành thông qua các nhiệm vụ giáo dục, qua các hoạt động giáo dục và phải
kết hợp chặt chẽ giữa các hình thức trong nhà trường và ngoài nhà trường.

2.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ định hướng nghề nghiệp ở một số
nước trên thế giới
Qua việc định hướng nghề nghiệp của một số nước trên thế giới ta rút ra
bài học sau:
- Cần phải coi trong công tác đinh hướng từ nhà trường bắt đầu từ bậc
phổ thông. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa học vấn văn hoá phổ thông với
kiến thức và kỹ năng lao động - nghề nghiệp ở tất cả các bậc học.
- Tăng cường trao đổi định hướng, chuyên đề giữa phụ huynh với HS,
nhà trường với HS, đồng thời có cả các bài trắc nghiệm hướng nghiệp được
thiết kế trên cơ sở khoa học… giúp các em đánh giá bản thân xem phù hợp
với nghề nào.
- Cần có sự thay đổi căn bản trong trong chương trình giảng dạy nên có
các môn học tự chọn với mục tiêu trang bị cho HS những kiến thức và kỹ
năng chuyên môn cần thiết để HS có khả năng tham gia lao động nghề nghiệp
ở các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau hoặc tiếp tục học lên trình độ nghề
nghiệp cao hơn ở bậc đại học.
18
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp và giải
quyết việc làm
2.4.1. Nền tảng gia đình
Gia đình là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến định
hướng nghề nghiệp của thanh niên nếu trong gia đình bố mẹ đều làm công
chức nhà nước hoặc bác sỹ thì phần lớn đều muốn định hướng cho con theo
nghiệp mà bố mẹ đã lựa chọn. Mặc khác, truyền thống gia đình luôn quan
trọng với người dân Việt Nam nói riêng và người phương Đông nói chung.
Tuy nhiên tương lai các bạn phải do chính bạn quyết định, bố mẹ là người đi
trước, hiểu thế nào là tốt cho bạn nhưng không thể là người quyết định cho
bạn được vì đơn giản bố mẹ không thể theo bạn đến suốt cuộc đời…
2.4.2. Môi trường xã hội
Môi trường xã hội ảnh hưởng không nhỏ tới việc định hướng nghề

nghiệp của thanh niên hiện nay vì trong xu hướng hiện nay, những ngành
nghề mang tính kinh tế cao như: quản trị kinh doanh, du lịch, công nghệ
thông tin… hay những nghề mới lên như PR, Event, chuyên viên quảng cáo…
đang thu hút khá đông bạn trẻ đăng ký học. Và tương lai còn những ngành
nghề nào mới, thời thượng hơn thì chưa thể đoán trước được. Xã hội đòi hỏi
chúng ta phải phát triển cho kịp tốc độ, nếu không sẽ bị đào thải nhanh chóng.
Theo thống kê cho thấy, nếu trong lớp học có nhiều em chọn thi vào một
trường nào đó thì những học sinh còn phân vân lưỡng lự thường "a dua" thi
theo bạn bè.
Có thể nói bạn bè ảnh hưởng đến cuộc sống của ta không ít, nhưng tương
lai thì phải do chính chúng ta quyết định. Nếu cùng sở thích, chí hướng thì khi đi
cùng con đường bạn sẽ có người chia sẻ, cùng nhau tiến bộ như thời xưa, nhưng
khi thấy không thể đi cùng đường thì bạn hãy mạnh dạn nói lên suy nghĩ của
mình, đừng gò ép theo bạn bè. Bạn cũng nên góp những ý kiến có thể quan trọng
với một người bạn khi người này còn đang phân vân hay đang chọn hướng sai.
Và nên nhớ chỉ khuyên thôi còn quyết định thì là của bạn mình.
19

×