Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

“vận dụng “phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học môn tiếng anh ở trung tâm gdtx yên lạc – vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.7 KB, 28 trang )

1

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Đối tượng nghiên cứu 3
4. Phạm vi nghiên cứu: 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu: Với đề tài này tôi thực hiện các nhiệm vụ sau: 3
6. Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài này tôi tiến hành : 3
7. Thời gian nghiên cứu: Từ năm học 2011-2012 đến năm học 2012-2013 3
PHẦN II: NỘI DUNG 4
Chương I: Lịch sử của vấn đề nghiên cứu 4
1.1. Phương pháp dạy học tích cực là gì? 4
1.2. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực 6
1.3. Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường Trung học phổ thông 10
Chương II:Thực trạng vận dụng PPDH nói chung 16
2.1 Vài nét về Trung tâm GDTX Yên Lạc và đặc điểm của Anh văn 16
2.2. Thực trạng học tập môn Anh văn của Trung tâm GDTX Yên Lạc: 17
2.3. Các nguyên nhân chủ quan, khách quan của thực trạng. 18
Chương III:Thiết kế bài giảng dạy theo PPDH tích cực đối với môn tiếng Anh 19
3.1. Kỹ thuật mở bài - tạo không khí lớp học: 19
3.2. Quy trình dạy Viết theo PPDH tích cực được thực hiện theo 3 bước sau: 21
3.3. Dạy kỹ năng Nói cho học sinh 22
3.4. Dạy kỹ năng Đọc hiểu cho học sinh 23
PHẦN III. Kết quả đạt được, bài học kinh nghiệm và đề xuất 26
1. Kết quả đạt được, khảo nghiệm. 26
2. Bài học kinh nghiệm: 26
3. Những đề xuất kiến nghị : 26
HỘI ĐỒNG NHÀ TRƯỜNG NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 28



















2

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử nhân loại đã bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của thông
tin, tri thức. Thông tin và tri thức được coi là tài sản vô giá, là quyền lực tối ưu
của mỗi quốc gia. Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ
đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng khối lượng tri thức của nhân loại cũng như
tốc độ ứng dụng vào đời sống xã hội tạo nên sự đa dạng của thế giới. Tình hình
đó đã làm thay đổi những quan niệm về giáo dục. Giáo dục không chỉ có chức
năng chuyển tải những kinh nghiệm lịch sử xã hội của thế hệ trước cho thế hệ
sau, mà quan trọng là trang bị cho mỗi người phương pháp học tập, tìm cách
phát triển năng lực nội sinh, phát triển tư duy nội tại, thích ứng được với một xã

hội học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Để giúp người học đáp ứng được
những yêu cầu đó, việc cải cách, đổi mới giáo dục là một việc làm hết sức cần
thiết và cấp bách, trong đó, đổi mới phương pháp giáo dục là khâu then chốt
nhất trong quá trình đạt đến mục tiêu đổi mới giáo dục.
Cùng với xu hướng phát triển của thời đại về các lĩnh vực khoa học - công
nghệ, sự bùng nổ về thông tin, Giáo dục – Đào tạo cũng có những bước phát
triển mới. Trong những năm gần đây, Giáo dục – Đào tạo nước ta có nhiều đổi
mới về nội dung và phương pháp. Để đáp ứng yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực
có đủ khả năng phục vụ cho xã hội phát triển trong tương lai, việc đổi mới
phương pháp giảng dạy là một trong những yêu cầu bức thiết hiện nay. Phương
pháp giảng dạy tích cực lấy người học làm trung tâm là một trong những mục
tiêu giáo dục được nhiều nhà giáo dục nghiên cứu, đúc kết từ thực tiễn và xây
dựng thành những lý luận mang tính khoa học và hệ thống.
Phương pháp dạy học tích cực (PPDHTC) xuất hiện ở các nước phương
Tây từ đầu thế kỷ XX và phát triển mạnh từ nửa sau của thế kỷ, có ảnh hưởng
sâu rộng tới các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là cách thức dạy
học theo lối phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH
tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của
người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học. Giáo
viên là người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm
kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Họ
có vai trò là “trọng tài”, điều khiển tiến trình giờ dạy. PPDH này chú ý đến đối
tượng người học, coi trọng việc nâng cao khả năng cho người học; nêu tình
huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của người
học, từ đó hệ thống hóa các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức
cần nắm vững. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên em chọn đề tài nghiên
cứu: “Vận dụng “phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học môn
tiếng Anh ở Trung tâm GDTX Yên Lạc – Vĩnh Phúc”.

3


2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng “Phương pháp dạy học tích cực” trong dạy học tiếng Anh nhằm
phát huy tính tích cực, sáng tạo trong học tập và nâng cao chất lượng dạy và học
của học viên, học sinh Trung tâm GDTX Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
3. Đối tượng nghiên cứu
“Phương pháp dạy học tích cực” trong dạy học môn tiếng Anh cho học
viên, học sinh Trung tâm GDTX Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Vì thời gian có hạn nên tôi chỉ tập trung làm nổi bật cơ sở lý luận về phương
pháp dạy học tích cực, vận dụng “Phương pháp dạy học tích cực” vào hoạt động
dạy học môn tiếng Anh ở Trung tâm GDTX Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu: Với đề tài này tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của phương pháp dạy học nói chung, phương pháp
dạy học tích cực nói riêng.
5.2. Nghiên cứu thực trạng việc sử dụng các phương pháp dạy học và phương
pháp tích cực nói riêng trong Trung tâm GDTX Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
5.3. Vận dụng “Phương pháp dạy học tích cực” trong quá trình dạy học môn
tiếng Anh cho học viên, học sinh Trung tâm GDTX Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
6. Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài này tôi tiến hành sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau đây:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận. Đọc và phân tích, hệ thống hoá,
khái quát hoá những tài liệu liên quan đến đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát: Tôi dự giờ, chủ động quan sát việc dạy và học
tiếng Anh của học sinh, học viên Trung tâm GDTX Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
6.2.2. Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn, trò chuyện: Tôi đàm thoại, trao đổi
cùng với đồng nghiệp, học sinh, học viên, nhằm tìm hiểu thực trạng dạy và học
ở Trung tâm GDTX Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
6.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Trao đổi kinh nghiệm với các thầy, cô

giáo, các bạn đồng nghiệp và của bản thân.
6.2.4. Phương pháp thực nghiệm: Được tiến hành theo một quy trình xác định nhằm
so sánh 2 phương pháp: truyền thống và phương phương pháp dạy tích cực.
7. Thời gian nghiên cứu: Từ năm học 2011-2012 đến năm học 2012-2013

4

PHẦN II: NỘI DUNG
Chương I: Lịch sử của vấn đề nghiên cứu
1.1. Phương pháp dạy học tích cực là gì?
1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học:
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12 - 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005).
Luật Giáo dục, Điều 5.2, có ghi: “Phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người
học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.
Điều 28.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập
chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
1.1.2. Thế nào là tính tích cực học tập?
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn tại và
phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi trường tự nhiên,
cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển xã hội là một trong những nhiệm
vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực học tập - về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở

khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh
tri thức. Tính tích cựu nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với
động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự
giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản
sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại,
phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi
dưỡng động cơ học tập. Tính tích cựu học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như:
hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích
phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải
thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã
học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn
thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn…
Tính tích cựu học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
5

- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau về một số vấn đề…
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực:
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn,
được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ
động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái
với tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học
chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên
để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy

theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy.
Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng
giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng
PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích ứng, vẫn quen
với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động
để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa
sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả
của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì
mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân
biệt với "Dạy và học thụ động".
1.1.4. Mối quan hệ giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm
trung tâm.
Từ thập kỉ cuối cùng của thế kỷ XX, các tài liệu giáo dục ở nước ngoài và
trong nước, một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới việc cần
thiết phải chuyển dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh
làm trung tâm.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm còn có một số thuật ngữ tương đương
như: dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học
hướng vào người học… Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh
hoạt động học và vai trò của học sinh trong qúa trình dạy học, khác với cách tiếp
cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của giáo viên.
6

Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho
một lớp đông học trò, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên
khó có điều kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã hình thành kiểu dạy "thông
báo - đồng loạt". Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm
của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương trình và sách

giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều giáo viên
giảng. Cách dạy này đẻ ra cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy
nghĩ, cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng yêu
cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng này, các
nhà sư phạm kêu gọi phải phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, thực
hiện "dạy học phân hóa"
*
quan tâm đến nhu cầu, khả năng của mỗi cá nhân học
sinh trong tập thể lớp. Phương pháp dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm
trung tâm ra đời từ bối cảnh đó.
Trên thực tế, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt
động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới
sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về
kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình
được. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có
phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.
Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì
đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy
học lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ
thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy
học chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp,
phương tiện, tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến phương pháp
dạy và học.
1.2. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
1.2.1. Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động
"dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt
động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá
những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã
được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế,

người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra
theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm
được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn
mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
7

Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà
còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh
biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
1.2.2. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy
học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa
học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét vào đầu
óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học
sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng
phải được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện
cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo
cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập
sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học
trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự
học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ
tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo
viên.
1.2.3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự
phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học

được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này
càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ
đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi
học sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều
được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường
giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên
con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong
tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người
học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và
kinh nghiệm sống của người thầy giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm,
tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác
8

trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất
là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối
hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo
nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành
viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương
trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các
thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia,
liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà
trường phải chuẩn bị cho học sinh.
1.2.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện
nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.

Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp
tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự
điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận
lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều
chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà
nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá
không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học
mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những
tình huống thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là
một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời
hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người
thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học
sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ
năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là
chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên
đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới
có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố
vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học
sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành
9

nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi
diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Có thể so sánh đặc trưng của dạy học cổ truyền và dạy học mới như sau:
Dạy học cổ truyền Các mô hình dạy học mới

Quan niệm

Học là qúa trình tiếp thu và lĩnh
hội, qua đó hình thành kiến
thức, kĩ năng, tư tưởng, tình
cảm.
Học là qúa trình kiến tạo; học
sinh tìm tòi, khám phá, phát
hiện, luyện tập, khai thác và xử
lý thông tin,… tự hình thành
hiểu biết, năng lực và phẩm
chất.
Bản chất
Truyền thụ tri thức, truyền thụ
và chứng minh chân lí của giáo
viên.
Tổ chức hoạt động nhận thức
cho học sinh. Dạy học sinh cách
tìm ra chân lí.
Mục tiêu
Chú trọng cung cấp tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo. Học để đối phó
với thi cử. Sau khi thi xong
những điều đã học thường bị bỏ
quên hoặc ít dùng đến.
Chú trọng hình thành các năng
lực (sáng tạo, hợp tác,…) dạy
phương pháp và kĩ thuật lao
động khoa học, dạy cách học.
Học để đáp ứng những yêu cầu

của cuộc sống hiện tại và tương
lai. Những điều đã học cần
thiết, bổ ích cho bản thân học
sinh và cho sự phát triển xã hội.
Nội dung
Từ sách giáo khoa + giáo viên Từ nhiều nguồn khác nhau:
SGK, GV, các tài liệu khoa học
phù hợp, thí nghiệm, bảng tàng,
thực tế…: gắn với:

- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và
nhu cầu của HS.

- Tình huống thực tế, bối cảnh
và môi trường địa phương

- Những vấn đề học sinh quan
tâm.
Phương Các phương pháp diễn giảng, Các phương pháp tìm tòi, điều
10

pháp truyền thụ kiến thức một chiều. tra, giải quyết vấn đề; dạy học
tương tác.
Hình thức
tổ chức
Cố định: Giới hạn trong 4 bức
tường của lớp học, giáo viên đối
diện với cả lớp.
Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp,
ở phòng thí nghiệm, ở hiện

trường, trong thực tế…, học cá
nhân, học đôi bạn, học theo cả
nhóm, cả lớp đối diện với giáo
viên.
1.3. Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường Trung
học phổ thông
1.3.1. Phương pháp vấn đáp:
Vấn đáp ( đàm thoại ) là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để
học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên;
qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động
nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:
- Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến
thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện
không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng
khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.
- Vấn đáp giải thích – minh hoạ : Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài
nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ
để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ
trợ của các phương tiện nghe – nhìn.
- Vấn đáp tìm tòi: giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp
lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật
của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ
chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò
với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, giáo viên
giống như người tổ chức sự tìm tòi, còn học sinh giống như người tự lực phát
hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có được niềm
vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy.

1.3.2. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh

gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh
doanh. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những
11

vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng
đồng không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như
một mục tiêu giáo dục và đào tạo.
Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải
quyết vấn đề thường như sau:
+ Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức
- Tạo tình huống có vấn đề;
- Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;
- Phát hiện vấn đề cần giải quyết
+ Giải quyết vấn đề đặt ra
- Đề xuất cách giải quyết;
- Lập kế hoạch giải quyết;
- Thực hiện kế hoạch giải quyết.
+ Kết luận:
- Thảo luận kết quả và đánh giá;
- Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;
- Phát biểu kết luận;
- Đề xuất vấn đề mới.
Có thể phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề:
Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện
cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả
làm việc của học sinh.
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề.
Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần.
Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.

Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát
hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải
pháp. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng
đánh giá.
Mức 4: Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình
hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh
giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.

12

Các
mức
Đặt vấn đề Nêu giả
thuyết
Lập kế
hoạch
Giải quyết
vấn đề
Kết luận,
đánh giá
1 GV GV GV HS GV
2 GV GV HS HS GV + HS
3 GV + HS HS HS HS GV + HS
4 HS HS HS HS GV + HS

Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học sinh vừa
nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát
triển tư duy tích cực, sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời
sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh.
1.3.3. Phương pháp hoạt động nhóm

Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích,
yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ
định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao
cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công
mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc
tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các
thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi
đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết
quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước
toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình
bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành :
Làm việc chung cả lớp :
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ
- Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm
Làm việc theo nhóm
- Phân công trong nhóm
13

- Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong
nhóm
- Cử đại diện hoặc phân công trình bày kết quả làm việc theo nhóm
Tổng kết trước lớp
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả
- Thảo luận chung
- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong
bài.
Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các

băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng
cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết
của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở
thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo
viên.
Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi
thành viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia. Tuy
nhiên, phương pháp này bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi
thời gian hạn định của tiết học, cho nên giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học
sinh đã khá quen với phương pháp này thì mới có kết quả. Cần nhớ rằng, trong
hoạt động nhóm, tư duy tích cực của học sinh phải được phát huy và ý nghĩa
quan trọng của phương pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành
viên trong tổ chức lao động.Cần tránh khuynh hướng hình thưc và đề phòng lạm
dụng, cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới
PPDH và hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng
đổi mới.
1.3.4. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử
nào đó trong một tình huống giả định.
Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau :
- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái
độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành
vi đạo đức và chính trị – xã hội
14

- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai
diễn.

Cách tiến hành có thể như sau :
- Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy
định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai
- Các nhóm lên đóng vai
- Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai
+ Vì sao em lại ứng xử như vậy ?
+ Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử ? Khi nhận được
cách ứng xử ( đúng hoặc sai )
+ Lớp thảo luận, nhận xét : Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay
chưa phù hợp ? Chưa phù hợp ở điểm nào ? Vì sao ?
+ Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
Những điều cần lưu ý khi sử dụng :
o Tình huống nên để mở, không cho trước “ kịch bản”, lời thoại
o Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai
o Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc
đề
o Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia
o Nên hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai
1.3.5. Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được
nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin
làm tiền đề cho buổi thảo luận.
* Cách tiến hành
- Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước
nhóm
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt
- Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to, không
loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp

15

- Phân loại ý kiến
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.



























16

Chương II:
Thực trạng vận dụng PPDH nói chung và PPDH tích cực nói riêng trong
quá trình dạy học môn tiếng Anh ở Trung tâm GDTX Yên Lạc

2.1 Vài nét về Trung tâm GDTX Yên Lạc và đặc điểm của Anh văn
2.1.1. Vài nét về Trung tâm GDTX Yên Lạc và học viên, học sinh của
Trung tâm GDTX Yên Lạc:
Trung tâm GDTX Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập
bởi Quyết định số 378/QĐ-CT ngày 29/02/1996 của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh
Phú.
Cơ quan quản lý trực tiếp là Sở GD&ĐT Vĩnh Phúc.
Nhà trường nằm trên diện tích đất 6,298m
2
tại Thị trấn Yên Lạc
Nhiệm vụ của Trung tâm GDTX cấp huyện được ban hành tại Quyết định
số 01/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 02/01/2007 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT như
sau:
1. Tổ chức thực hiện các chương trình giáo dục:
a) Chương trình xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ;
b) Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học, cập nhật kiến
thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ;
c) Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ bao gồm: chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học ứng dụng, công nghệ
thông tin - truyền thông; chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn; chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ; chương trình
dạy tiếng dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức công tác tại vùng dân tộc, miền
núi theo kế hoạch hằng năm của địa phương;
d) Chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở và trung học

phổ thông.
2. Điều tra nhu cầu học tập trên địa bàn, xác định nội dung học tập, đề xuất
với sở giáo dục và đào tạo, chính quyền địa phương việc tổ chức các chương
trình và hình thức học phù hợp với từng loại đối tượng.
3. Tổ chức các lớp học theo các chương trình giáo dục thường xuyên cấp
trung học cơ sở và trung học phổ thông quy định tại điểm d khoản 1 của Điều
này dành riêng cho các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người tàn tật,
khuyết tật, theo kế hoạch hằng năm của địa phương.
17

4. Tổ chức dạy và thực hành kỹ thuật nghề nghiệp, các hoạt động lao động
sản xuất và các hoạt động khác phục vụ học tập.
5. Nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục góp phần phát triển hệ thống giáo dục thường
xuyên.
6. Tổ chức liên kết đào tạo
Trường trung cấp chuyên nghiệp, cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện
chương trình giáo dục thường xuyên lấy bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên
nghiệp, được phép liên kết với trung tâm giáo dục thường xuyên với điều kiện:
a) Trung tâm giáo dục thường xuyên phải bảo đảm các yêu cầu về cơ sở vật
chất, thiết bị và cán bộ quản lý phải phù hợp với yêu cầu của từng ngành được
liên kết đào tạo;
b) Việc liên kết đào tạo được thực hiện trên cơ sở hợp đồng liên kết đào
tạo; trường trung cấp chuyên nghiệp, cơ sở giáo dục đại học chịu trách nhiệm
toàn diện về việc liên kết đào tạo.
Ngày 20/4/2005, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc có Quyết định số
04/2005/QĐ-CT về việc bổ sung chức năng hướng nghiệp và dạy nghề.
2.1.2. Đặc điểm của môn Anh văn tại Trung tâm GDTX Yên Lạc:
- Là môn học không bắt buộc đối với học sinh học hệ BTTHPT, môn học
này chỉ là môn học khuyến khích nhưng nếu học thì vẫn được tính TBM học, và

được đưa và để xếp loại học lực của học viên nếu được học (các môn học chính
là: Văn, Toán, Lý, Hoá, Sinh, Văn, Sử, Địa); (Các môn học khuyến khích: Tiếng
Anh, Tin học, GDCD)
- Là môn học trong các môn cơ sở của chương trình đào tạo Trung cấp
nghề; là môn chung đối với các lớp đào tạo TCCN, Cao đẳng và ĐH mà nhà
trường liên kết đào tạo các chuyên ngành đáp ứng nhu cầu người học.
2.2. Thực trạng học tập môn Anh văn của Trung tâm GDTX Yên Lạc:
- Học viên BTTHPT không muốn học vì là môn học không bắt buộc.
- Chất lượng đầu vào học sinh thấp, vì đối tượng tuyển sinh là mắt sàng
thứ tư trong công tác tuyển sinh đầu vào.
- Học viên các lớp liên kết lười học tiếng Anh, coi tiếng Anh là môn chung,
không trú trọng học tập. Nếu học chỉ là chống đối, cốt sao thi được điểm 5.
- Đội ngũ giáo viên mỏng.
18

2.3. Các nguyên nhân chủ quan, khách quan của thực trạng.
- Không được tăng cường đội ngũ giảng dạy (chỉ có 02 giáo viên, trong đó
01 là CBQL)
- Trang thiết bị nghe, nhìn phục vụ cho công tác dạy học hầu như không
có.
- Chưa được quan tâm đúng mức của các cơ quan QLGD của Sở GD&ĐT
Vĩnh Phúc.
- Phụ huynh học sinh không ủng hộ việc dạy các môn không bắt buộc để
dành thời gian học các môn học học bắt buộc theo quy định và học thêm, học
chuyên đề.





















19

Chương III:
Thiết kế bài giảng dạy theo PPDH tích cực đối với môn tiếng Anh cho học
sinh ở Trung tâm GDTX Yên Lạc, Vĩnh Phúc

3.1. Kỹ thuật mở bài - tạo không khí lớp học:
Để có được một giờ dạy thành công, ngay ở bước hoạt động đầu tiên của
một giờ dạy là bước mở bài, giáo viên cần tạo ra được một không khí học tập
thuận lợi về cả mặt tâm lý lẫn nội dung cho hoạt động dạy học tiếp theo đó.
Những hoạt động gây không khí học tập này thường rất ngắn (5 -7 phút)
nhưng vô cùng quan trọng. Vậy mở bài nên làm những gì và làm thế nào để có
thể thực hiện được các mục đích đó.
Các hoạt động mở bài: Các hoạt động mở bài nhằm một số mục đích sau:
- Ổn định lớp, cho phép học sinh có một thời gian để thích nghi với bài học

mới;
- Tạo môi trường thuận lợi cho bài học mới;
- Gây hứng thú cho bài học mới;
- Giúp học sinh liên hệ những điều đã học với bài học mới;
- Chuẩn bị về kiến thức cần cho bài học mới;
- Tạo tình huống, tạo ngữ cảnh cho phần giới thiệu bài tiếp theo;
- Tạo nhu cầu giao tiếp, hay tạo mục đích cho một hoạt động giao tiếp kế
tiếp.
Các hình thức và thủ thuật vào bài:
Tuỳ theo mục đích và đặc thù của giờ dạy, đồng thời tuỳ theo đối tượng học sinh
cụ thể của mình, giáo viên có thể lựa chọn những hoạt động hay thủ thuật vào
bài cho phù hợp.
3.1.1. Tạo môi trường thuận lợi cho bài học
a) Thiết lập không khí dễ chịu giữa thày và trò ngay giờ phút vào lớp:
- Chào hỏi học sinh;
- Tự giới thiệu về mình;
- Hỏi chuyện thông thường tự nhiên;
- Kể chuyện vui
b) Tạo thế chủ động, tự tin cho học sinh:
20

- Thăm hỏi học sinh;
- Tạo cơ hội cho học sinh được giới thiệu/nói về mình, hỏi các câu hỏi đáp
lại
c) ổn định lớp, tập trung sự chú ý, gây hứng thú bằng cách bắt đầu ngay bằng
một hoạt động học tập nào đó liên quan đến bài học, ví dụ:
- A short listening task;
- Observing a picture then ask and answer about the picture;
- A riddle
- A language game (crosswords, noughts and crosses, etc)

- A challenging task on vocabulary,
3.1.2. Chuẩn bị tâm lý và kiến thức cho bài học mới
a) Khai thác kiến thức đã biết của học sinh bằng thủ thuật gợi mở (eliciting), hay
nêu vấn đền để cả lớp đóng góp ý kiến (brainstorming).
b) Liên hệ những vấn đề của bài cũ có liên quan đến bài mới, có thể bằng các
hình thức khác nhau như: hỏi các câu hỏi có liên quan; ra bài tập về các nội
dung đã học có liên quan; sử dụng một trong những hoạt động gây hứng thú và
ổn định lớp (kể trên), dùng vốn kiến thức và nội dung bài cũ;
c) Tạo ngữ cảnh, tình huống hoặc các cớ/lý do giao tiếp (Communicative needs)
cho các hoạt động tiếp theo của bài. Có thể dùng các hình thức như: giáo cụ trực
quan (đồ vật, tranh, bưu ảnh ); các mẩu chuyện có thật hoặc tự tạo; các bài đọc
ngắn; các bài tập hoặc câu hỏi, v.v
Một số lưu ý:
Trong thực tế, những hoạt động và thủ thuật dùng cho phần mở bài có thể
cùng một lúc đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau. Vì vậy, nên tìm cách
sáng tạo để có được một cách vào bài sao cho cùng một lúc có thể đáp ứng được
nhiều nhiệm vụ đặt ra ở phần mở bài. Ví dụ, ngay khi bước vào lớp, giáo viên có
thể bắt đầu bài bằng một hoạt động nêu vấn đề và giải quyết vấn đề (problem-
solving), hoặc khai thác vốn kiến thức có sẵn của cả lớp về một nội dung có liên
quan đến bài cũ và bài mới (brainstorming). Bằng cách đó, giáo viên đã cùng
một lúc gây được sự chú ý, gây hứng thú cho bài học, ổn định được lớp, kiểm
tra, ôn lại được bài cũ, đồng thời cũng đã giúp cho học sinh chuẩn bị được tâm
lý và kiến thức cần thiết cho bài mới.
Giáo viên có thể sử dụng các thủ thuật và bài tập có sẵn trong sách giáo
khoa hoặc GV tự sáng tạo như:
Dựa vào tranh ở mục đầu của bài, hỏi, gợi ý về chủ đề mới:
21

- Sử dụng tranh ảnh, bản đồ, vật thực tự chuẩn bị thay cho tranh trong
sách để gây hấp dẫn.

- Hỏi các kiến thức bài cũ có liên quan đến bài mới.
- Khai thác các kiến thức có sẵn của học sinh.
- Liên hệ đến thực tế của chính học sinh, của địa phương hay các tình
huống gần gũi với học sinh và thay thế các tình huống trong sách nếu cần.
Khi tiến hành phần này, cần chú ý một số điểm sau:
- Có thể sử dụng cả tiếng Anh và tiếng Việt.
- Cần tạo cơ hội cho học sinh hỏi lại giáo viên hoặc hỏi lẫn nhau để gây
hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh.
- Luôn quan tâm đến tâm lý lứa tuổi và sở thích của học sinh để đưa ra
những thủ thuật phù hợp, ví dụ như kích thích trí tò mò, yêu cầu đoán tranh,
đoán câu trả lời v.v
- Cần chú ý thay đổi hình thức mở bài để gây hứng thú cho học sinh.

Như đã đề cập, mục đích của các hoạt động mở bài là để học sinh làm
quen và cảm thấy hứng thú với chủ đề sắp học trong bài, đồng thời ôn luyện lại
những kiến thức đã học có liên quan đến bài mới hoặc để giáo viên tạo những
nhu cầu giao tiếp cần thiết cho các hoạt động của bài mới. Với ý nghĩa đó, phần
mở bài đôi khi không có ranh giới cụ thể mà luôn được tiến hành phối hợp với
phần giới thiệu ngữ liệu.
3.2. Quy trình dạy Viết theo PPDH tích cực được thực hiện theo 3 bước
sau:
3.2.1. Trước khi viết (Pre-writing)
- Giới thiệu bài viết mẫu (phần a).
- Yêu cầu học sinh đọc kĩ để tìm hiểu cấu trúc của bài viết (lưu ý cách
diễn đạt ngôn ngữ trong văn bản viết).
- GV cần làm rõ nghĩa từ mới và mẫu câu.
3.2.2. Trong khi viết (While-writing)
- GV nêu yêu cầu bài viết (phần b) và có thể cho gợi ý.
- HS thảo luận theo cặp hoặc nhóm, sau đó cá nhân HS tự viết.
- HS cần bám sát bài viết mẫu, các gợi ý để viết theo yêu cầu.

- GV gọi vài HS (đại diện nhóm) trình bày bài viết trước lớp.
22

- GV sửa lỗi và đưa ra đáp án gợi ý.
3.2.3. Sau khi viết (Post-writing)
- HS có thể trình bày lại bài viết (dưới dạng nói).
- GV có thể yêu cầu HS viết một bài theo tình huống gợi ý tương tự (bài
viết mới liên hệ thực tế, mang tính sáng tạo và tự do hơn).

Nói tóm lại, các bài luyện viết thường bắt đầu bằng một bài mẫu ở mục 3.2.1.
Thông qua hoạt động đọc hiểu, học sinh nắm bắt cách trình bày viết một bài viết
theo mục đích hay yêu cầu nhất định. Phần 3.2.2 sẽ là phần học sinh thực hiện
các bài tập viết theo yêu cầu đề ra, có hướng dẫn, hoặc có gợi ý; sau đó là bài
viết mở rộng mang tính sáng tạo và tự do hơn.
- Để thực hiện bài này, giáo viên cần làm tốt phần hướng dẫn mẫu qua các
bài tập đọc và phát hiện, sau đó giải thích yêu cầu bài viết.
- Cần làm rõ tình huống và yêu cầu bài viết. Nên cho các gợi ý nếu cần.
Để làm tốt phần gợi ý, nên khai thác sự đóng góp ý kiến của cả lớp hay nhóm
trước khi học sinh làm việc cá nhân.
- Nhìn chung, để tiết kiệm thời gian trên lớp, các bài tập viết sau khi đã
hướng dẫn, đều có thể dành làm bài tập về nhà và chữa tại lớp.
3.3. Dạy kỹ năng Nói cho học sinh
Sau phần giới thiệu ngữ liệu là phần luyện tập nói (Speak), với các hình thức bài
tập và hoạt động ở mỗi bài có khác nhau nhằm luyện tập sử dụng các trọng tâm
cấu trúc ngữ pháp, hay từ vựng để diễn đạt các chức năng ngôn ngữ theo các chủ
đề và tình huống có liên quan đến bài học.
Quy trình luyện nói theo PPDH tích cực bao gồm:
3.3.1. Chuẩn bị nói (Pre-speaking)
- Giới thiệu bài nói mẫu (Những phát ngôn riêng lẻ hay một bài hội thoại).
- Yêu cầu học sinh luyện đọc (Chú ý cách phát âm và nghĩa của từ mới)

- Giáo viên dùng câu hỏi gợi mở để HS tự rút ra cách sử dụng từ và cấu trúc
câu.
- Giáo viên yêu cầu bài nói.
3.3.2. Luyện nói có kiểm soát (Controlled practice)
- Học sinh dựa vào tình huống gợi ý (qua tranh vẽ, từ ngữ, cấu trúc câu
cho sẵn hoặc bài hội thoại mẫu) để luyện nói theo yêu cầu.
23

- HS luyện nói theo cá nhân/ cặp /nhóm dưới sự kiểm soát của của GV
(sửa lỗi phát âm, lỗi ngữ pháp, gợi ý từ …)
- GV gọi cá nhân hoặc cặp HS trình bày (nói lại) phần thực hành nói theo
yêu cầu.
3.3.3. Luyện nói tự do (Free practice/ Production)
- HS nói về kinh nghiệm bản thân, bạn bè, người thân trong gia đình hoặc
về quê hương, đất nước hay địa phương nơI mình ở.
- GV không nên hạn chế về ý tưởng cũng như ngôn ngữ; nên để HS tự do
nói, phát huy khả năng sáng tạo của bản thân.
Để thực hiện mục này giáo viên cần lưu ý một số điểm sau:
- Cần phối hợp sử dụng thường xuyên các hình thức luyện tập nói theo
cặp (pairs) hoặc theo nhóm (groups) để các em có nhiều cơ hội sử dụng tiếng
Anh trong lớp qua đó các em có thể cảm thấy tự tin và mạnh dạn hơn trong giao
tiếp.
- Cần hướng dẫn cách tiến hành, làm rõ yêu cầu bài tập hoặc gợi ý hay
cung cấp ngữ liệu trước khi cho học sinh làm việc theo cặp hoặc nhóm. Việc
hướng dẫn và gợi ý cho phần luyện nói rất cần sự sáng tạo và thủ thuật phong
phú của giáo viên, không nên chỉ bám sát thuần tuý vào sách.
- Ngữ cảnh cần được giới thiệu rõ ràng. Sử dụng thêm các giáo cụ trực
quan để gợi ý hay tạo tình huống.
- Có thể mở rộng tình huống, khai thác các tình huống có liên quan đến
chính hoàn cảnh của địa phương, khuyến khích liên hệ đến tình hình cụ thể của

chính cuộc sống thật của các em.
3.4. Dạy kỹ năng Đọc hiểu cho học sinh
Khi tiến hành một bài dạy kỹ năng, cần tiến hành theo 3 bước: trước khi
vào bài, trong khi thực hiện bài và sau khi thực hiện xong bài (pre-task, while-
task and post-task). Những yêu cầu hoạt động được thiết kế theo các bước này sẽ
giúp học sinh hiểu bài và thực hành được các kỹ năng lời nói một cách thấu đáo
và có suy nghĩ hơn, trên cơ sở đó sẽ khắc sâu bài lâu bền hơn.
Mục đích của từng bước
a/ Các hoạt động trước khi vào bài:
Các hoạt động trước khi vào bài giúp học sinh hình dung trước nội dung
chủ điểm hay nội dung tình huống của bài các em sẽ nghe, đọc, nói về hoặc viết
về chúng.
Các hoạt động cho bước này sẽ được lựa chọn tuỳ theo từng kỹ năng cụ thể và
tuỳ theo từng nội dung và yêu cầu cụ thể của bài. Các hoạt động đó có thể là:
24

+ Trao đổi, thu thập các ý kiến, những hiểu biết và kiến thức hoặc quan
điểm của học sinh về chủ điểm của bài trước khi các em nghe, nói đọc, viết về
nó qua các hoạt động dạy học hay thủ thuật như brainstorming, discussions
- Đoán trước nội dung sắp học bằng các câu hỏi đoán về nội dung bài
hoặc về từ vựng sẽ xuất hiện trong bài;
- Trả lời các câu hỏi về nội dung bài qua các câu hỏi đặt trước;
- Giới thiệu trước từ vựng hay kiến thức ngữ pháp có liên quan đến bài sắp
học.
- Thực hiện các bài tập thông qua một trong những kỹ năng để từ đó có
thể thực hiện các kỹ năng khác (ví dụ, nghe trước khi nói về một chủ điểm nào
đó; nói trước khi viết, hoặc đọc trước khi viết v.v…)
b/ Các hoạt động trong khi thực hiện bài:
Các hoạt động ở bước này gồm các yêu cầu bài tập giúp học sinh thực
hành các kỹ năng đặt ra. Các yêu cầu bài tập có thể là các câu hỏi đọc hiểu hay

nghe hiểu; sắp xếp trật tự nội dung; những bài tập chuyển hoá, bài tập viết theo
mẫu v.v.
c/ Các hoạt động sau khi thực hiện bài:
Các hoạt động sau khi thực hiện bài thường gồm những bài tập ứng dụng
mở rộng dựa trên bài vừa học, thông qua các kỹ năng nói hoặc viết.
d/ Ba bước luyện đọc hiểu:
3.4.1. Trước khi đọc (Pre-reading):
Các hoạt động trước khi đọc gồm những hoạt động nhằm đạt được những mục đích
sau:
- Gây hứng thú;
- Giới thiệu ngữ cảnh, chủ đề;
- Tạo nhu cầu , mục đích đọc;
- Đoán trước nội dung bài đọc;
- Nêu những điều muốn biết về nội dung sắp đọc;
- Giới thiệu trước từ vựng, ngữ pháp mới giúp cho học sinh hiểu được bài đọc;
3.4.2. Trong khi đọc (While-reading):
Các hoạt động luyện tập trong khi đọc nhằm giúp học sinh hiểu bài đọc.
Tuỳ theo mục đích nội dung của từng bài đọc, sẽ có những dạng câu hỏi và bài
tập khác nhau. Những dạng bài tập phổ biến gồm:
25

- Check/tick the correct answers;
- True/ false
- Complete the sentences;
- Fill in the chart;
- Make a list of
- Matching;
- Answer the questions on the text;
- What does mean?
- What does stand for/ refer to?

- Find the word/ sentence that means ;
3.4.3. Sau khi đọc (Post-reading):
Các hoạt động và bài tập sau khi đọc là những bài tập cần đến sự hiểu biết
tổng quát của toàn bài đọc, liên hệ thực tế, chuyển hoá nội dung thông tin và
kiến thức có được từ bài đọc, qua đó thực hành luyện tập sử dụng ngôn ngữ đã
học.
Các hình thức bài tập có thể là:
- Summarize the text;
- Arrange the events in order;
- Give the title of the reading text;
- Give comments, opinions on the characters in the text;
- Rewrite the stories from jumbled sentences/ words/visual cues;
- Role- play basing on the text;
- Develop another story basing on the text;
- Tell a similar event on
- Personalized tasks (write/ talk about your own school )






×