Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

sang kien kinh nghiem tin 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.42 KB, 30 trang )

Trường THCS Hoà Hưng
LỜI NGỎ
♦♦♦♦♦♦
“ Phương pháp dạy học tích cực” là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở
nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc
hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập
trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào
phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích
cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Theo định hướng của ngành giáo dục Việt Nam, luôn luôn đổi mới phương
pháp giảng dạy để người dạy và người học ngày càng chủ động, tích cực hơn
trong việc truyền thụ và tiếp nhận tri thức. Qua thời gian công tác giảng dạy ở
trường trung học cơ sở, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế ở trường trung học
cơ sở Hoà Hưng – Huyện Cái Bè. Nhằm tìm ra giải pháp tối ưu cho việc thực hiện
đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng học tập của học sinh, giúp
các em chủ động tìm tòi kiến thức trong học tập, rèn luyện tư duy sáng tạo cho
các em, nên tôi đã tập trung nghiên cứu đề tài: Vận dụng phương pháp dạy học
tích cực trong quá trình dạy học môn Tin học 8. Với đề tài nghiên cứu này,
trong điều kiện thời gian và cơ sở vật chất của nhà trường còn hạn chế cho nên
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tuy vậy, với sự tập trung nghiên cứu
kết hợp kinh nghiệm công tác bản thân đã rút ra được những kinh nghiệm, những
bài học về cách thức thực hiện.
Qua đề tài này một lần nữa bản thân xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận
tình của lãnh đạo nhà trường, các thầy, cô giáo bộ môn cùng với các em học sinh
giúp cho tôi hoàn thành được đề tài này.
Cuối cùng rất mong được sự đóng góp chân thành của quí thầy cô, quý
đồng nghiệp, Tôi chân thành cám ơn.
Hoà Hưng, ngày 28 tháng 01 năm 2013



Trần Nguyễn Minh Đăng
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
1
Trường THCS Hoà Hưng
Tên đề tài:
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 8
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I/. Lý do chọn đề tài:
Trong cuộc sống hiện đại, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh
vực ngày càng nhiều. Nhận thấy tầm quan trọng của nó nên trong những năm gần
đây, bộ môn Tin học đã được giảng dạy rộng rãi ở hầu hết các trường trung học cơ
sở trên cả nước. Ngành giáo dục Việt Nam mong muốn các em học sinh được tiếp
cận, tìm hiểu, ứng dụng các tính năng hiện đại và có lợi ích vô cùng to lớn của
công nghệ thông tin. Tuy nhiên vì một số lý do mà bản thân người giáo viên lẫn
học sinh vẫn chưa thấy được tầm quan trọng của việc học tốt môn này.
Bản thân môn Tin học được xếp vào các môn tự chọn nên khi giáo viên
giảng dạy cũng chưa đầu tư đúng mức như các môn chính khoá; học sinh thì học
chiếu lệ, thiếu đam mê. Một số nội dung giảng dạy tương đối trừu tượng, khá khó
hiểu so với sức học hiện tại của các em. Một số trường sắp xếp thời gian học môn
này trái buổi nên dẫn đến tính trạng các em vắng nhiều
Từ những cơ sở, nhận thức như trên, cộng với một số kinh nghiệm của bản
thân tích luỹ được qua những năm tham gia giảng dạy bộ môn Tin học nói chung
và Tin học 8 nói riêng, tôi xin đóng góp một sáng kiến kinh nghiệm “Vận dụng
phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học môn Tin học 8”. Bởi vì
tiết học tích cực là điều mà người giáo viên phải tạo ra cho học sinh trong học tập,
có như thế các em mới tích cực, hăng say tìm tòi, khám phá; qua đó góp phần
nâng cao chất lượng trong giáo dục; xây dựng nền tảng kiến thức vững chắc và
hình thành thói quen học tập tốt cho các em sau này.
II/ Mục đích nghiên cứu:

Nhằm giúp giáo viên tìm ra phương pháp phù hợp truyền thụ kiến thức với
mọi đối tượng học sinh, phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh.
Giúp cho học sinh có động cơ trong học tập, qua đó tạo sự hứng thú để tiến
tới tự giác trong học tập. Khi đó chúng ta giúp các em hình thành phương pháp
học tập tốt.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
2
Trường THCS Hoà Hưng
Góp phần thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy, khắc phục lối truyền
thụ một chiều, thụ động, triệt tiêu sự sáng tạo của học sinh.
III/ Đóng góp mới về mặt lý luận, về mặt thực tiễn:
Trong giảng dạy Tin học 8, đa số giáo viên chỉ chú trọng đến việc giảng dạy
hết kiến thức của sách giáo khoa, cho học sinh thực hành theo các bài tập có sẵn
mà không chú ý đến việc học sinh sẽ nắm vững được bao nhiêu kiến thức trong
đó; nhất là đối với mảng kiến thức lớn và rất khó đối với học sinh lớp 8: Lập trình
Pascal.
Từ đó đa số giáo viên lẫn học sinh đều ngán ngại khi tiếp xúc với kiến thức
này; khó truyền thụ lẫn khó tiếp thu do các yếu tố chủ quan lẫn khách quan.
“Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học môn
Tin học 8” có thể giúp cho giáo viên lẫn học sinh vượt qua được những khó khăn
này; giúp cho các em ở các trình độ khác nhau cũng có thể tiếp cận, tìm hiểu
những kiến thức khó; xoá bỏ tâm lý ngán ngại khi học tập môn này. Qua đó có thể
rèn luyện và tăng cường khả năng tự học của học sinh.
IV/ Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
1) Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Cách vận dụng phương pháp dạy học
tích cực trong quá trình dạy học môn Tin học 8
2) Khách thể nghiên cứu:
Vì đối tượng nghiên cứu là Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong
quá trình dạy học môn Tin học 8 do vậy, chủ thể tác động trực tiếp vào đối tượng

này chính là giáo viên bộ môn Tin học, ngoài ra còn có khách thể khác tác động
vào đối tượng nghiên cứu là các em học sinh, cơ sở vật chất của nhà trường và đặc
biệt là tâm huyết của người thầy… cũng liên quan đến đối tượng này.
V/ Giả thuyết nghiên cứu:
Việc lười biếng, ham chơi không học bài và làm bài tập ở nhà của học sinh,
trong tiết học thì không mạnh dạng phát biểu, kiến thức tóan học thì khô khan khó
tiếp thu, có nhiều học sinh rất “sợ - ngại” học toán, không đam mê học toán, học
toán không có phương pháp, học hoài mà khó thuộc lý thuyết toán học, không biết
vận dụng lý thuyết toán học vào bài tập, vào thực tế trong cuộc sống.
Cũng có thể là sự chủ quan của giáo viên trong giảng dạy, xem nhẹ sự tìm
tòi sáng tạo của học sinh, coi đây là một bài giảng năm nào cũng giảng chỉ cần
giảng rõ ràng cho học sinh nắm và cho bài tập áp dụng là xong.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
3
Trường THCS Hoà Hưng
Cơ sở vật chất của nhà trường thiếu thốn, thiếu máy tinh đẩ thực hành,
phòng ốc nhỏ hẹp gây ra một số khó khăn trong việc học tập, nhất là khi thực hiện
phương pháp nhóm.
VI/ Phương pháp nghiên cứu:
1) Các phương pháp chủ yếu:
1.1) Phương pháp điều tra trắc nghiệm.
1.2) Phương pháp trò chuyện có mục đích.
2) Các phương pháp hỗ trợ:
2.1) Phương pháp nghiên cứu tư liệu.
2.2) Dạy học thực tiển trên lớp để rút ra kinh nghiệm
2.3) Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
*
Dựa vào kinh nghiệm giảng dạy bộ môn Tin học của các giáo viên ở
trường trong những năm học trước và vốn kinh nghiệm của bản thân đã rút ra
được một số vấn đề có liên quan đến nội dung của đề tài.

VII/ Giới hạn nghiên cứu:
1) Về không gian:
Học sinh khối lớp 8 tổng cộng là 207 học sinh của trường THCS Hoà Hưng.
Giáo viên bộ môn Tin học trường trung học cơ sở Hoà Hưng, và tham khảo một số
giáo viên bộ môn Tin ở các trường bạn.
2) Về thời gian: Trong bốn năm học sau:
* Năm học 2009-2010
- Tìm tài liệu có liên quan đến đề tài, xây dựng đề cương
- Tiến hành điều tra học sinh lớp 8 của trường THCS Hoà Hưng ( Học sinh
các lớp là lớp đại trà)
* Năm học 2010-2011
- Tìm tài liệu có liên quan đến đề tài, hoàn chỉnh đề cương. Thực hiên viết
đề tài.
- Áp dụng đề tài vào giảng dạy học sinh khối lớp 8 của trường THCS Hoà
Hưng và tiến hành điều tra, đánh giá rút kinh nghiệm.
- Trao đổi nội dung và phương pháp của đề tài với đồng nghiệp trong
trường.
* Năm học 2011-2012
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
4
Trường THCS Hoà Hưng
- Tiến hành chỉnh sửa một số nội dung không cần thiết của đề tài rồi tiếp tục
áp dụng đề tài vào giảng dạy, tiến hành điều tra.
- Trao đổi nội dung và phương pháp với các đồng nghiệp.
* Năm học 2012-2013
- Tiếp tục áp dụng đề tài trong giảng dạy, tiến hành điều tra kết quả học kỳ I
và hoàn chỉnh đề tài.
Phần II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN

I) Cơ sở lý luận của đề tài:
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12 -
1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ thể hóa trong
các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999).
Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh". Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt
động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Như chúng ta đã biết năm học 2011-2012 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là
năm thứ hai thực hiện phương pháp dạy học tích cực, năm thứ sáu của cuộc vận
động “Hai không” của Bộ GD & ĐT, năm thứ tư thực hiện chỉ thị của Bộ GD &
ĐT về “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” với mục tiêu chủ yếu
là làm sao tạo nên môi trường giáo dục an toàn, bình đẳng, lành mạnh, đảm bảo sự
gần gũi, gắn bó với nhân dân, xã hội, phụ huynh, học sinh, luôn tạo được sự thoải
mái, bình yên, phấn khởi cho từng học sinh, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng
tạo của học sinh trong học tập và trong các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội
một cách phù hợp và có hiệu quả cao
Ngày nay, với đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là: Không
ngừng đổi mới phương pháp dạy học, đa dạng hoá các loại hình giáo dục-đào tạo
và xã hội hoá giáo dục, thì hoạt động dạy - học ở từng trường phải đặt đúng vị trí
chức năng để đạt được mục tiêu đề ra. Do đó, để thực hiện tốt việc đổi mới
phướng pháp dạy học thì bản thân mỗi thầy cô giáo phải tự chủ động tìm tòi
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
5
Trường THCS Hoà Hưng
những phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh thì mới đạt
được kết quả cao.

II) Cơ sở thực tiển:
Tin học 8 là một nội dung học mà đa số học sinh THCS sau khi đã trải qua
đều cho rằng khó học nhất trong tất cả các môn mà các em đã học. Chính vì vậy
đa số giáo viên khi tham gia giảng dạy luôn cố gắng tìm kiếm phương pháp phù
hợp nhất theo từng nội dung bài học, theo từng đối tượng học để có thể đạt kết quả
tốt nhất.
Ở góc độ là một giáo viên tham gia giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy ngành
giáo dục chúng ta đang hướng tới việc “lấy người học làm trung tâm”; luật giáo
dục cũng đã quy định : “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh”.
Nhưng dường như chúng ta chưa thật sự sẵn sàng, chưa có được sự chuẩn bị
đầy đủ để làm tốt công việc này. Nếu trong các tiết học có nội dung khó như lập
trình Pascal ở bộ môn Tin học 8 thì giáo viên cần phải có sự chuẩn bị, đầu tư chu
đáo để có thể vận dụng sáng tạo và linh hoạt các phương pháp giảng dạy nhằm
khơi gợi niềm đam mê, khả năng sáng tạo của học sinh; qua đó góp phần xây dựng
phương pháp học tập, kỹ năng chiếm lĩnh tri thức thật sự chứ không chỉ thụ động
tiếp thu. Để cho học sinh thấy được “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui” chứ
không phải là tâm lý lo sợ, nhàm chán.
III) Khảo sát đánh giá thực trạng:
Qua quá trình giảng dạy, tôi theo dõi và nhận thấy các em còn rất khó khăn
trong việc tiếp nhận kiến thức.
* Đây là bảng khảo sát khả năng vận dụng kiến thức của các em học sinh
khối 8 trong việc thực hành lập trình Pascal:
Năm
học
Tổng
số HS

Tự lập trình được
chương trình mới
Lập trình lại
chương trình đã
được học
Không thể viết
hoàn chỉnh chương
trình
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
2009
-2010
207 6 2,9 84 40,6 117 56,5
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
6
Trường THCS Hoà Hưng
* Bảng khảo sát điểm thi cuối học kỳ II môn Tin (bao gồm lý thuyết + thực
hành) của học sinh khối 8 như sau:
Năm
học
Tổng
số
Giỏi Khá Trung bình Yếu-kém
Số
lượng
Tỉ
lệ
Số
lượng
Tỉ
lệ

Số
lượng
Tỉ
lệ
Số
lượng
Tỉ
lệ
2009
-2010
207 25 71 64 47

Năm học 2008-2009 điều tra ở giai đoạn học kỳ II, qua số liệu cho thấy các
em thực sự rất thích học môn Toán chiếm tỉ lệ thấp chỉ có 10.6%, hơn phân nữa số
học sinh xem môn Toán là bình thường. Từ đó, kết quả điểm thi của môn Toán
cuối năm cũng còn thấp chỉ chiếm 8.2% giỏi, còn yếu kém thì 62.9%.
Tiểu kết:
Để thực hiện tốt cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” của ngành đưa ra thì mỗi giáo viên chúng ta phải xây dựng kế hoạch
giảng dạy như thế nào để thu hút được học sinh, làm sao cho học sinh ham thích
môn học của mình, tạo được mối quan hệ thân thiện, gần gũi các em để từ đó các
em cảm nhận được kiến thức phổ thông là rất cần thiết cho cuộc sống sau này.
CHƯƠNG II:
GIỚI THIỆU TRÒ CHƠI VÀ CÁCH THỨC TỔ CHỨC TRÒ CHƠI.
I. Thực trạng:
Học sinh vùng nông thôn ít được quan tâm đầu tư cho việc vui chơi giải trí
lành mạnh, trong xã thì chưa có nhà văn hóa, khu công viên Vì vậy, chơi game
là hình thức tốt nhất để các em lựa chọn trong lúc đi học. Từ đó các em bị lôi cuốn
bởi những trò chơi hấp dẫn, đầy bạo lực dần dần quên đi sự học hành.
Chuyện vui chơi chẳng phải chỉ của trẻ em. Con người ở mọi lứa tuổi, giới

tính đều muốn được vui chơi, giải trí. Hoạt động vui chơi giải trí cũng là một trong
những hoạt động cơ bản của con người. Tuy nhiên ở lứa tuổi học sinh vui chơi
càng có ý nghĩa quan trọng vì thông qua các trò chơi nó giáo dục nhân cách của
một con người.
Bản thân là một giáo viên dạy môn Toán bậc THCS, một môn học mà nhiều
học sinh rất “Sợ-ngại” học và cho rằng là môn học khô khan dễ nhàm chán. Chính
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
7
Trường THCS Hoà Hưng
vì lý do đó mà tôi đã đưa một số trò chơi toán học vào các bài dạy của mình nhằm
để gây hứng thú học tập cho học sinh và qua đó các em có thể tự tổ chức trò chơi
Toán học vào những giờ giải lao, lúc rảnh rỗi để khắc sâu kiến thức và đặc biệt có
thể xa rời trò chơi điện tử kém tính giáo dục thể chất và tinh thần.
Trên thực tế những giờ dạy mà tôi đã đan xen tổ chức trò chơi Toán học tôi
thấy học sinh rất thích thú, rất hào hứng đoán nhận kiến thức một cách bất ngờ.
II. Cách tổ chức trò chơi trong tiết dạy học Toán:
1) Những điều cần thiết khi tổ chức trò chơi trong tiết dạy Toán:
a) Về giáo viên:
Giáo viên bộ môn là người đóng vai trò hướng dẫn luật chơi rõ ràng, là
trung tâm thu hút học sinh tham gia và là trọng tài của các trò chơi.
Giáo viên phải có những phong thái chững chạc, nghiêm túc nhưng lại vui
vẻ, gần gũi, hòa đồng với các em.
Lời nói phải thật rõ ràng, dễ hiểu, ấn tượng, luôn gây sự chú ý, tạo sự hấp
dẫn và pha trộn hài hước trong mỗi trò chơi. Nhằm tác động tình cảm, tâm lý đem
lại niềm vui tươi, sự hứng thú trong học tập cho học sinh.
Biết phân phối hài hòa giữa lời nói và các động tác cần thiết (cơ mặt, tay,
chân, ) để học sinh dễ dàng nắm bắt nội dung và hóa thân vào trò chơi một cách
tự nhiên.
Sau mỗi trò chơi phải có tổng kết, thưởng phạt phân minh để gây cảm xúc
hào hứng cho học sinh. Tuy nhiên, đây là trò chơi chủ yếu phục vụ cho các em

nắm bắt được kiến thức của tiết dạy, cho nên giáo viên tránh xử phạt đối với đội
thua, người thua, mà nên tập trung tuyên dương, khen thưởng đối với đội thắng,
người thắng. Nhằm động viên, khích lệ tinh thần cho các em một cách kịp thời,
kích thích sự hưng phấn, hào hứng học tập cho học sinh.
Tránh tổ chức trò chơi quá ồn ào, náo nhiệt gây ảnh hưởng không tốt đến
các lờp học lân cận.
Thời gian tổ chức trò chơi không quá 10 phút
b) Đối với học sinh:
Nghiêm túc chấp hành luật chơi, chơi nhiệt tình, không gian lận trong quá
trình chơi, thể hiện tinh thần đồng đội.
2) Chọn lựa trò chơi:
Giáo viên phải biết chọn lựa trò chơi cho phù hợp với bài dạy về cả nội
dung và thời lượng.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
8
Trường THCS Hoà Hưng
Xác định được mục tiêu của trò chơi. Qua trò chơi giáo dục được kĩ năng
gì?, phẩm chất gì? và tiếp thu được kiến thức gì? Đây là đều quan trọng nhất để
chúng ta tiến hành trò chơi.
Trò chơi đưa ra phải đa dạng, phong phú, có tác dụng khích lệ tinh thần học
tập cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, tránh bỏ rơi học sinh yếu – kém
ngoài cuộc.
Không nên chọn những trò chơi chỉ được mặt vui nhộn, nhưng lại thiếu tác
dụng về tính giáo dục về phẩm chất, nhân cách, kiến thức, kĩ năng học tập.
3) Hướng dẫn cách chơi:
Trước hết, giáo viên ổn định các đội chơi, người chơi cho phù hợp, cân đối
lực lượng giữa các đội.
Giới thiệu trò chơi, cách chơi: Đây là khâu rất quan trọng, giáo viên nên
giới thiệu trò chơi một cách ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, thu hút và hấp dẫn người
chơi. Có những trò chơi hơi khó thì giáo viên phải cho chơi thử trước.

Động viên học sinh chơi nhiệt tình, hết mình. Song, phải đảm bảo nề nếp,
không ồn ào.
4) Giới thiệu trò chơi và cách thức tổ chức trò chơi:
4.1 Trò chơi mang tên “ SỰ SẮP XẾP NGẪU NHIÊN”.
* Trò chơi này được áp dụng sau khi học sinh học bài “ĐỊNH LÝ” trong
chương trình hình học lớp 7. Từ đây, có thể áp dụng cho tất cả các bài có các định
lý, tính chất, ôn tập chương trong chương trình học từ lớp 7; 8; 9.
Chuẩn bị: Các mẫu giấy hoặc các bảng phụ giáo viên ghi sẵn từ “Nếu”
hoặc từ “Thì”.
Cách chơi:
Tổ chức bóc thăm chọn ra 2 cặp đội cùng chơi (Ví dụ như: cặp thứ nhất là
đội 1 và 2, cặp thứ hai là đội 3 và 4)
* Đội 1: điền nội dung sau từ “Nếu
* Đội 2: điền nội dung sau từ Thì ”
Sau đó ghép ngẫu nhiên một tờ giấy của đội 1 và một tờ giấy của đội 2 xem
mệnh đề có đúng không? Cặp nào có nhiều mệnh đề đúng thì cặp đó thắng.
* Ví dụ: Bài 2: “ QUAN HỆ GIỮA ĐƯỜNG VUÔNG GÓC VÀ ĐƯỜNG
XIÊN, ĐƯỜNG XIÊN VÀ HÌNH CHIẾU”.
Đội 1 Đội 2
Nếu đường xiên có hình chiếu lớn hơn Thì lớn hơn.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
9
Trường THCS Hoà Hưng
Thì có hình chiếu lớn hơn.
Thì hai hình chiếu bằng nhau.
Tác dụng: Trò chơi này giúp các em khẳng định được mệnh đề đúng chính
là những định lý hay là những tính chất đã học, còn với những mệnh đề sai các em
có một trận cười sảng khoái, giảm căng thẳng trong giờ học toán.
4.2 Trò chơi mang tên “ XÂY TƯỜNG” .
* Trò chơi này được sử dụng trong các bài giảng về các phép toán cộng, trừ,

nhân, chia trong các tập số: N; Z; Q; R, tùy theo từng bài mà giáo viên đưa ra quy
tắc “xây tường” khác nhau
Chuẩn bị:
Giáo viên chuẩn bị hai tờ giấy có kẻ sẵn các viên gạch và ghi đề bài toán
trên từng viên gạch.
Hình minh họa:
Đội 1:
3
1−
4
3
3
5
7
2

5
3
8
7
Đội 2:
Cắt mẫu giấy thành những viên gạch (bằng những viên gạch ban đầu), số
lượng tùy theo giáo viên tính xây tường cho mỗi đội, tất cả các mẫu giấy này đều
có keo 2 mặt dán mặt sau ( hoặc dùng nam châm nếu là bảng sắt)
Cách chơi:
Tổ chức bốc thăm chọn ra 2 đội chơi. Mỗi thành viên đều có ít nhất một
viên gạch, thành viên của mỗi đội lần lượt cầm từng viên gạch xây chồng lên trên
theo qui tắc là tổng hoặc hiệu hoặc nhân, hoặc chia, theo yêu cầu của giáo viên.
Hình minh họa (xem thêm bài tập 53 trang 30 sách giáo khoa toán 6 tập 2.)
Tác dụng: Trò chơi này giúp các em vận dụng bài đã học tính toán nhanh

nhẹn chính xác, mang tính đồng đội mới chiến thắng.
4.3 Trò chơi mang tên “ AI NHANH HƠN” .
* Trò chơi này được sử dụng trong nhiều bài dạy với yêu cầu mỗi lần tổ
chức trò chơi là một yêu cầu khác nhau.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
5
4−
7
6
3
4

2
11
4
7−
11
1
10
Trường THCS Hoà Hưng
Chuẩn bị: Những tấm bìa màu biểu hiện các phân số như dạng hình minh
họa ( nếu có 2 đội chơi thì cắt thành 2 bộ như hình
minh họa)
Cắt những tấm giấy trắng hình chữ nhật
(2x2cm) rồi viết các phân số theo yêu cầu của bài
toán, xếp lại để cho mỗi đội lên bốc thăm.
Đố em ghép các miếng bìa thành?
* Lần 1: Đội 1:
4
1

hình tròn; Đội 2:
12
7
hình tròn
* Lần 2: Đội 1:
2
1
hình tròn ; Đội 2:
3
2
hình tròn

Cách chơi: Cho các đội trưởng lên bốc thăm chọn ra 2 đội chơi.
Yêu cầu mỗi lần 1 học sinh ở mỗi đội lên bốc 1 thăm mà giáo viên đã chuẩn
bị sẵn rồi chọn các tấm bìa đặt theo yêu cầu của thăm bốc được (chú ý qui định
thời gian), lần lượt như vậy cho đến hết những lá thăm rồi giáo viên tổng kết chọn
ra đội có nhiều lần đặt đúng và nhanh nhất là chiến thắng.
Tác dụng: Rèn luyện tính toán nhanh nhẹn, xử lý tình huống trực quan,
chính xác thì mới có thể chiến thắng được đội bạn và đây cũng là thành công lớn
nhất trong dạy và học.
Ví dụ: Sau khi học xong bài “ PHÉP NHÂN PHÂN SỐ” toán lớp 6 tập 2
giáo viên có thể tổ chức trò chơi “Ai nhanh hơn” như sau:
* Chuẩn bị: Các chữ cái mà giáo viên chọn là kết quả và ghi lên bìa cứng,
kèm theo đó là các phép tính phân số.
Minh họa
.
?
4
3
.

3
2
=
−−
.
?
5
18
.
16
5
=
−−
.
?
13
19
.
19
13
=

.
?
3
1
.
5
3
=



.
?
32
17
.
17
16
=

.
?
14
36
.
6
7
=
.
?
9
8
.
4
3
.
2
1
=


.
?
35
84
.
49
15
=

.
?1.
7
6
=
.
?
29
3
.0.
7
1
.
6
11
=

Hai bảng kết quả. Hình minh họa
Đội 1:
7

6

9
8

2
1

2
1−
0 -1
5
1−

3
1−

49
36−
-1 3
8
9

Đội 2:
7
6

9
8


2
1

2
1−
0 -1
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
11
T
E
G
N
V
U
H
O
I
L
Trường THCS Hoà Hưng
5
1−

3
1−

49
36−
-1 3
8
9


* Cách chơi: Giáo viên cho các đội trưởng bốc thăm chọn ra 2 đội chơi.
Hai đội chơi ngồi ở 2 bàn riêng biệt, và giải lần lượt các bài toán trên, có kết quả
thì dùng viết lông ghi chữ cái vào ô tương ứng, cuối cùng dán kết quả của đội
mình lên bảng và đọc kết quả, đội nào đọc kết quả trước và đúng đáp án của giáo
viên (LUONGTHEVINH) là đội đó chiến thắng, đội còn lại giáo viên vẫn cho dán
kết quả lên để học sinh và giáo viên nhận xét và tuyên dương khen thưởng.
4.4 Trò chơi mang tên “ NHANH MẮT - NHANH TAY” .
* Trò chơi này được sử dụng trong nhiều bài dạy với yêu cầu mỗi lần tổ
chức trò chơi là một yêu cầu khác nhau, có thể tổ chức cho hai đội cùng chơi hoặc
hai học sinh cùng chơi.
Chuẩn bị: Những miếng mica có đủ các màu và gắn sẵn các nam châm
(hoặc keo hai mặt), với những miếng mica này giáo viên có thể ghi tất cả các nội
dung cần học sinh quan tâm, dụng cụ này có thể sử dụng rất nhiều lần.
Cách chơi: Cho bốc thăm chọn ra hai đội cùng chơi hoặc chọn hai học sinh
cùng chơi. Ai lấy nhiều miếng mica đúng theo yêu cầu của đề bài hơn thì chiến
thắng.
Tác dụng: Tạo hứng thú, niềm vui trong toán học, giúp cho các em có thói
quen nghe tốt, suy nghĩ nhanh nhẹn, nhạy bén, linh hoạt mới có khả năng chiến
thắng. Trò chơi này các em có thể tự tổ chức chơi với nhau và có thể áp dụng cho
tất cả các môn học.
Ví dụ: Luyện tập về cộng hai số nguyên (số học lớp 6)
* Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các miếng mica có viết số như hình minh
họa gắn trên bảng.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
12
1 9
-2
-3
4

7
2-7
-4
3
-16
-10
-15
16
19
-1
Trường THCS Hoà Hưng
Các câu hỏi:
1) Tìm số đối của -3
2) Tìm kết quả của: 2 + (-12)
3) Tìm giá trị của -19 
4) Tìm số liền sau của -16
5) Tìm các số nguyên thỏa mãn -3 < x < 0

* Cách chơi: Cho bóc thăm chọn 2 học sinh cùng chơi, các em tự trả lời
những câu hỏi và chọn miếng mica thích hợp, em nào chọn được nhiều miếng
mica có kết quả đúng là chiến thắng.
4.5 Trò chơi mang tên “ GIẢI Ô CHỮ” .
* Trò chơi này có thể áp dụng cho các bài có liên quan đến các khái niệm,
tổng kết chương, tổ chức thi đố vui để học, tổ chức trong lớp, ngoài sân trường.
* Giáo viên có thể thiết kế trò chơi này trên phần mềm Microsoft Office
PowerPoint 2003, hoặc download phần mềm thiết kế trò chơi ô chữ tại mục tài
nguyên trên trang web của sở giáo dục và đào tạo Tiền Giang hoặc giáo viên thiết
kế trên bảng phụ. Dưới đây tôi xin gợi ý thiết kế trò chơi trên bảng phụ.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị một tấm bảng kẻ các ô hàng ngang, hàng dọc
theo ý đồ của bài toán, các ô hàng ngang là dùng để ghi kết quả của từng câu hỏi

do giáo viên đặt ra xung quanh kiến thức đã học, chọn một cột hàng dọc làm kết
quả cuối cùng của cuộc chơi ( thường là tên của nhà toán học, tên của một
chương, nội dung trọng tâm trong chương ).
Minh họa:


Cách chơi: Giáo viên có thể cho cả lớp cùng chơi, hoặc chia thành hai dãy,
hoặc chia thành hai đội cùng chơi. Giáo viên giới thiệu luật chơi: Mỗi đội lần lượt
chọn một câu hỏi, mỗi câu hỏi chỉ được trả lời một lần, nếu trả lời không đúng thì
nhường quyền trả lời cho đội kia, nếu trả lời không đúng thì tiếp tục nhường
quyền trả lời cho kháng giả (là các em không nằm trong đội chơi). Nếu đội nào dự
đón đúng các ô chữ ở cột hàng dọc thì chiến thắng, nếu dự đón sai sẽ bị trừ điểm.
Tác dụng: Học sinh được ôn lại một số khái niệm cơ bản đã học, qua trò
chơi học sinh lại có thêm kiến thức mới, biết thêm được tên của nhiều nhà toán
học nổi tiếng trên thế giới hay là các nội dung trọng tâm của chương
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
13
Ô chữ hàng ngang.
ngang
Ô chữ hàng dọc
Là kết quả cuối
cùng của cuộc chơi.
Các câu hỏi giáo viên có
thể ghi sẵn dán lên bảng,
hay giáo viên cho học
sinh chọn câu rồi giáo
viên đọc.
Thứ tự câu hỏi.
Trường THCS Hoà Hưng
Ví dụ: Tôi xin giới thiệu một dạng khác của trò chơi giải ô chữ, thiết kế đơn

giản hơn không mất nhiều thời gian thiết kế, cũng như thời gian tổ chức chơi trên
lớp. Sau khi học xong bài “SỐ NGUYÊN TỐ. HỢP SỐ. BẢNG SỐ NGUYÊN
TỐ” sách giáo khoa lớp 6 tập 1 trang 45, giáo viên có thể thiết kế trò chơi ô chữ
như hình minh họa.

* Học sinh trả lời câu hỏi rồi điền chữ cái vào ô kết quả tương ứng. Xong
rồi giáo viên cho học sinh đọc kết quả trong ô chữ, nếu học sinh đọc không được
thì giáo viên sẽ đặt câu hỏi gợi mở.
* Kết quả: ƠRATÔXTEN
Ví dụ: Sau khi học xong bài “HÌNH BÌNH HÀNH” sách giáo khoa lớp 8
giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi giải ô chữ như hình minh họa.


* Giáo viên cho học sinh điền từ vào chỗ trống, mỗi kết quả đúng giáo viên
chọn ra một chữ cái đặt vào ô kết quả. Xong rồi cho học sinh đọc kết quả, nếu học
sinh đọc không được giáo viên đặt câu hỏi gợi mở.
* Kết quả: HÌNH VẼ
4.6 Trò chơi mang tên “ ĐUỔI HÌNH BẮT CHỮ” .
* Trò chơi này áp dụng theo bản quyền của trò chơi “Đuổi hình bắt chữ”
trên đài truyền hình, đây cũng là một trong những chương trình mà các em ưa
thích.
* Trò chơi này có thể áp dụng cho các bài có liên quan đến các khái niệm,
định lý đã học, tổng kết chương của môn hình học 6; 7; 8; 9.
Chuẩn bị: Các tờ giấy A
4
, vẽ hình lên trên tờ giấy, các hình này sẽ tùy theo
nội dung của bài toán, kiến thức mà giáo viên cần cho học sinh phát hiện ra.
Cách chơi: Giáo viên có thể cho học sinh toàn lớp dự đón, hoặc chia thành
hai đội cùng chơi. Giáo viên dán hình lên bảng yêu cầu học sinh “Đuổi hình bắt
chữ” và qui định thời gian cho mỗi hình.

Tác dụng: Qua trò chơi này các em học sinh được ôn lại các khai niệm, các
định lý đã được học. Từ các hình vẽ các em phát hiện ra đinh lý, đây là một vấn đề
hết sức là quan trọng mà bất kỳ giáo viên dạy toán nào cũng muốn cho học trò của
mình đạt được.
Ví dụ: Ôn tập kỳ I toán hình lớp 6: Một số hình minh họa như sau:
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
14
Trường THCS Hoà Hưng

• • x • •
( Đọan thẳng AB) (Tia Ox) (Đường thẳng MN)
Ví dụ: Sau khi học xong bài “QUAN HỆ GIỮA ĐƯỜNG VUÔNG GÓC
VÀ ĐƯỜNG XIÊN, ĐƯỜNG XIÊN VÀ HÌNH CHIẾU”. Hình học lớp 7 tập 2.
Tôi đưa một số hình ảnh như sau:

- Trong các đường xiên và đường vuông góc kẻ từ một điểm ở ngoài một
đường thẳng đến đường thẳng đó, đường vuông góc là đường ngắn nhất.

- Trong hai đường xiên kẻ từ một điểm nằm ngoài một đường thẳng đến
đường thẳng đó. Đường xiên nào có hình chiếu lớn hơn thì lớn hơn.
- Trong hai đường xiên kẻ từ một điểm nằm ngoài đường thẳng đến một
đường thẳng đó. Đường xiên nào lớn hơn thì có hình chiếu lớn hơn.
- Trong hai đường xiên kẻ từ một điểm nằm bên ngoài đường thẳng đến
đường thẳng đó. Nếu đường xiên bằng nhau thì có hình chiếu bằng nhau.
4.7 Trò chơi mang tên “ THỬ TÀI TRÍ NHỚ” .
- Trò chơi này áp dụng cho tất cả các môn, các khối lớp, đặc biệt là đối với
các lớp mà các em luời biếng học bài thì giáo viên cho các em chơi ngay sau tiết
học, trò chơi này giáo viên không mất nhiều thời gian nên giáo viên thường thay
đổi cách tổ chức: Tổ chức cho cả lớp, 2 hay 3 nhóm, hay hai học sinh cùng chơi
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các nôi dung cần thiết có liên quan đến trò

chơi (những nội dung chính của bài vừa học, hay là những nội dung chính trong
chương ) rồi ghi sẵn trên bảng phụ (hay đưa lên máy chiếu).
Cách chơi:
Giáo viên cho bốc thăm chọn ra hai đội cùng chơi
Mời hai đội lên bảng đứng hai góc hướng về phía bảng.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
15
O
M NA B
Trường THCS Hoà Hưng
Giáo viên gắn nội dung cần thử tài trí nhớ lên bảng và cho hai đội quan sát
từ 30 giây đến 1 phút, sau đó giáo viên lấy bảng phụ xuống, yêu cầu hai đội ghi lại
(đọc lại) những nội dung mà mình nhìn thấy.
Đội có nội dung ghi lại đúng và nhiều hơn là đội chiến thắng.
Tác dụng: Rèn luyện trí nhớ, tạo niềm vui, thích thú, hăng say, tích cực
trong học tập.
Ví dụ: Khi dạy bài ôn tập chương I môn đại số lớp 9 giáo viên ghi trên
bảng phụ các công thức biến đổi căn thức ( trang 39 sách giáo khoa tập 1). Đối với
những lớp khá giỏi giáo viên có thể ghi thêm các thuật toán ngoài các công thức
đó, vì đây là các câu thường dùng để phân biệt chiến thắng giữa các đội cùng chơi.
Giáo viên treo bảng phụ lên, cho học sinh nhìn từ 30 giây đến 1 phút. Rồi
yêu cầu học sinh cả nhóm ghi lại nôi dung vừa nhìn thấy. Giáo viên dán nội dung
của học sinh ghi được lên bảng cùng với đáp án của giáo viên dán ở giữa kết quả
của hai đội rồi nhận xét.
4.8 Trò chơi mang tên “ THỬ TÀI THÔNG MINH” .
- Trò chơi này giáo viên cần phải đầu tư tìm ra các bài toán có mẹo, có
những chỗ mà học sinh dễ nhầm lẫn hay là những bài toán ngoài sách giáo khoa
nhưng lại áp dụng kiến thức bài đang học
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các kiến thức, các yêu cầu của trò chơi trên
bảng phụ.

Học sinh chuẩn bị các bảng nhóm, bút lông
Cách chơi: Giáo viên cho học sinh bốc thăm chọn ra 2 đội hoặc cả lớp cùng
chơi là tùy thuộc vào nôi dung và cách tổ chức của giáo viên.
Sau tiết dạy giáo viên đưa nội dung cần chơi lên bảng (nên chọn các bài
toán có hình ảnh, có mẹo ) Ví dụ: bài tập 15c trang 10 SGK toán 6 tập 1, bài tập
16 trang 12 SGK môn đại số 9 tập 1,
Cho học sinh các đội hỏi ý trong vòng 1 đến 3 phút tùy theo nội dung bài
toán
Cho các đội cử một thành viên lên bảng trình bày lời giải của đội mình.
Giáo viên đưa ra đáp án rồi nhận xét kết quả các đội.
Tác dụng: Rèn luyện óc tư duy, kích thích sự tìm tòi, sáng tạo và sự đam
mê học tập của học sinh. Thực tế hóa kiến thức vừa học thông qua các bài tập có
hình ảnh trực quan sinh động.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
16
Trường THCS Hoà Hưng
Ví dụ: Khi dạy bài “GHI SỐ TỰ NHIÊN” tiết 3 số học lớp 6, giáo viên có
thể cho một bài toán về chữ số La Mã như sau: Có 9 que tre được xếp như hình
dưới đây:
Hãy chuyển chỗ một que tre để được kết quả đúng ( Giáo viên nên cho học
sinh khai thác nhiều cách giải khác nhau của bài toán).
4.9 Trò chơi mang tên “ CHUNG SỨC” .
Trò chơi này có thể tổ chức cho nhiều khối lớp, tùy theo khối lớp và trình
độ của học sinh từng lớp mà giáo viên có thể cho mức độ bài tập khác nhau.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị sẵn ở nhà một số bài toán và đáp án có liên
quan đến tiết dạy. Đề toán và đáp án được viết lên trên những tấm bìa cứng hình
chữ nhật hoặc các hình bông hoa, có gắn nam châm hoặc keo hai mặt.
Chia bảng ra làm ba cột.
Cách chơi: Giáo viên gắn các tờ giấy có viết đề bài và đáp án lên bảng ở
cột giữa của bảng một cách ngẫu nhiên (không theo nguyên tắc hay thứ tự nào cả).

Cho học sinh các đội thảo luận, trao đổi từ 2 đến 4 phút tùy theo độ khó của
bài tập.
Tổ chức bốc thăm chọn ra hai đội chơi.
Khi có hiệu lệnh của giáo viên, lần lượt từng thành viên của hai đội lên
bảng ghép đề bài và đáp án tương ứng vào bảng của đội mình (còn lại cột bảng
bên phải là đội 1, cột bảng bên trái là đội 2), cứ em thứ nhất của đội 1 về chỗ thì
em thứ hai của đội 1 mới được lên
Sau từ 2 đến 3 phút giáo viên ra lệnh dừng cuộc chơi. Giáo viên và cả lớp
cùng kiểm tra kết quả của từng đội, đội nào có cặp đề và đáp án chính xác nhiều
hơn thì đội đó sẽ chiến thắng.
Tác dụng: Rèn luyện tính trách nhiệm, cộng đồng cho sinh.
Thay vì dùng phương pháp thảo luận nhóm bình thường mà chúng ta
thường hay sử dụng, thì trò chơi “CHUNG SỨC” sẽ giúp học sinh thảo luận nhóm
một cách nhẹ nhàn, hiệu quả, không rập khung.
Nhờ sự “CHUNG SỨC” của mỗi đội chơi, nhất là sự đóng góp, diễn giải
của những học sinh tích cực, học sinh khá, giỏi, thì các em trung bình, yếu kém có
thêm cơ hội nắm bắt kiến thức đã học.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
17
Trường THCS Hoà Hưng
Ví dụ: Khi học xong bài “LŨY THỪA CỦA MỘT SỐ HỮU TỈ” tiết 6
môn đại số lớp 7, giáo viên có thể cho nội dung chơi gồm các bài tập:
Tính:
( ) ( ) ( )
68
2
0
32
5:5;3.3;
3

1
1;69,0;
2
1
;
2
1
−−




















và các đáp án tương ứng:
25;27;

9
16
;1,
8
1
;
4
1
−−
4.10 Trò chơi mang tên “ CHẠY TIẾP SỨC”.
Trò chơi này giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi với chủ đề tìm x
hay giải phương trình và sử dụng được cho tất cả các khối 6,7,8,9.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các bài tập tìm x, hay giải phương trình, theo
nguyên tắc: bài 1 có một biến, bài 2 có hai biến (có một biến là biến của bài 1),
tương tự bài 3 có hai biến(có một biến là biến của bài 2),
Mỗi bài toán giáo viên cho vào phong bì và đánh dấu thứ tự 1,2,3,4,
Cách chơi: Giáo viên cho các đội bốc thăm chọn ra 2 đội chơi, mỗi thành
viên của đội được bố trí ngồi liên tiếp theo kiểu hàng dọc, thành viên số 1 ngồi
cuối cùng, thành viên cuối cùng của đội thì ngồi gần bàn giáo viên.
Thành viên số một mở đề giải trước được kết quả của biến thì chuyển cho
thành viên thứ 2, thành viên thứ 2 thay biến đó vào và giải tìm biến còn lại,
Thành viên cuối cùng giải xong đưa kết quả cho giáo viên, đội nào giải nhanh và
kết quả đúng thì chiến thắng.
Tác dụng: Giáo dục tính chính xác, tính đồng đội, tính nhanh nhẹn, cuộc
chơi hấp dẫn, hồi hợp.
Ví dụ: Sau khi học bài “ PHƯƠNG TRÌNH CHỨA ẨN Ở MẪU” giáo viên
có thể tổ chức trò chơi như sau:
Đề số 1: Giải phương trình: x – 5 = 3 – x
Đề số 2: Giải phương trình: x(y + 2) – x( 2y – 1) = -4
Đề số 3: Giải phương trình:

y
z
y
y
z 310
.3
25 −
=−

Đề số 4: Giải phương trình:
22
1


=+
− t
zt
z
t
Giáo viên cho các đội bốc thăm chọn ra 2 đội cùng chơi.
Sắp xếp các vị trí ngồi cho mỗi thành viên của mỗi đội.
Phát đề cho các thành viên của đội.
Giáo viên ra hiệu cho thành viên số 1 của mỗi đội bắt đầu.
Giáo viên đưa kết quả lên máy chiếu hay bảng phụ, nhận xét đưa ra đội
chiến thắng. Nếu kết quả của hai đội cùng sai thì giáo viên nhận xét kết quả từ
thành viên số 1 đến thành viên cuối cùng, đội nào có thành viên giải đúng nhiều
hơn thì đội đó chiến thắng.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
18
Trường THCS Hoà Hưng

4.11 Trò chơi mang tên “ CÙNG LEO NÚI”.
* Trò chơi này rất dễ tổ chức, giáo viên có thể tổ chức được cho tất cả các
khối 6; 7; 8; 9, không mất nhiều thời gian đầu tư và thời gian tổ chức chơi cho cả
giáo viên và học sinh.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị một số bài tập có liên quan đến kiến thức đã
học và sắp xếp theo qui luật từ dễ đến khó.
Chuẩn bị bảng phụ vẽ hình như các bậc thang leo núi và ghi các đề bài toán
theo qui luật chân núi bài dễ, đỉnh núi bài khó.
Cách chơi: Giáo viên cho học sinh bốc thăm chọn ra hai đội hoặc 2 học
sinh cùng chơi.
Yêu cầu hai thành viên thứ nhất của 2 đội lên giải từ bài chân núi, sau đó về
chỗ để thành viên thứ hai của đội mình lên giải tiếp Đội nào lên đỉnh trước và
đúng nhiều hơn thì chiến thắng.
Tác dụng: Rèn luyện được kĩ năng tính toán cho học sinh, thu hút số đông
học sinh tích cực, nhiệt tình trong học tập.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ SỐ VÔ TỈ. KHÁI NIỆM VỀ CĂN BẬC HAI” sách
giáo khoa tập 1 lớp 7, giáo viên có thể tổ chức cho các đội thực hiện trò chơi
“Cùng leo núi” với các bài toán có nội dung được sắp xếp như sau:

- 19
4
=
16
49
=
9
25
=
36 + 121 =
49+ 64 =

0,81 =
0,36 =
25
=
16
=
Đội 1 Đội 2
4.12 Trò chơi mang tên “ NHÀ SÁNG TÁC TOÁN HỌC TRẺ”.
* Trò chơi này rất dễ tổ chức, tổ chức được cho tất cả các khối 6,7,8,9, và
cũng không mất nhiều thời gian chuẩn bị, thời gian tổ chức chơi của giáo viên và
học sinh.
Chuẩn bị: Bảng phụ, bút lông
Cách chơi: Để củng cố kiến thức đã học, giáo viên cho học sinh giải một số
bài tập đơn giản có liên quan đến trò chơi, sau đó yêu cầu học sinh đặt một bài
toán có nội dung tương tự các bài tập đã giải.
Giáo viên có thể tổ chức cho tất cả học sinh cùng chơi, khi sáng tác xong thì
giáo viên kiểm tra nhanh và chọn ra một vài bài sáng tác hay để tuyên dương và
xem các bài sáng tác chưa đạt yêu cầu để nhận xét. Hoặc là giáo viên chọn ra hai
đội cùng chơi, thực hiện trên bảng phụ rồi treo kết quả lên, với cách tổ chức này
giáo viên và các học sinh còn lại nhận xét và phân tích kết quả của hai đội được cụ
thể hơn.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
19
Trường THCS Hoà Hưng
Giáo viên chú ý đến việc qui định thời gian sáng tác của học sinh.
Tác dụng: Kích thích tư duy, sáng tạo, ham tìm tòi và học tập của học sinh.
Ví dụ: Sau khi học bài “MỘT SỐ HỆ THỨC VỀ CẠNH VÀ GÓC TRONG
TAM GIÁC VUÔNG” sách giáo khoa môn đại số lớp 9, khi thực hiện được các ví
dụ 1;2;3;4;5 thì giáo viên cho học sinh thi sáng tác bài tương tư như ví dụ trên.
Tuy nhiên, trong bài này, vì có mối quan hệ cạnh, góc và đường cao, nên học sinh

có thể nhầm lẫn cách cho độ dài các cạnh, ví dụ như tính theo định lí Pytago thì
kết quả khác với áp dụng sin, cos, tan, vì vậy giáo viên cần phân tích rõ tính hợp
lý khi cho độ dài cạnh và góc trong tam giác.
Minh họa:
AD = 7.sin30
0
= 3,5
AD = 7
2
- 5
2


4,9
30
0
?
7
5
A
B
C
D
Ví dụ: Sau khi học xong bài “PHƯƠNG TRÌNH CHỨA ẨN Ở MẪU” sách
giáo khoa lớp 8, giáo viên có thể cho học sinh thi sáng tác một phương trình khác
tương tự như phương trình đã giải.
Giáo viên có thể cho học sinh thi sáng tác “Vè” toán học, Ví dụ như sau khi
học xong bài “TỈ SỐ LƯỢNG GIÁC CỦA GÓC NHỌN” sách giáo khoa lớp 9.
Giáo viên cho học sinh sưu tầm hoặc tự sáng tác bài vè để nhớ định nghĩa sin,
cosin, tang, cotang. Minh họa:

Tìm sin lấy đối chia huyền
Cosin hai cạnh kề huyền chia nhau
Hay: sin đi học, cos khóc hoài
Tiểu kết:
Trên đây là một số trò chơi tôi đã thường xuyên đưa vào hoạt động giảng
dạy của bản thân. Tôi nhận thấy các tiết học có tổ chức trò chơi thì các em hứng
thú học tập hơn, đặc biệt là học sinh vùng nông thôn, học sinh yếu-kém các em
thường xuyên yêu cầu giáo viên tổ chức trò chơi, vì qua đó các em dễ dàng tiếp
thu kiến thức hơn, ôn tập củng cố kiến thức một cách nhẹ nhàng không bị gò bó.
Thông qua các trò chơi các em không chỉ nhận về các kiến thức mà còn có cả khả
năng giao tiếp, rèn luyện tư duy, hoạt động nhanh, nhạy bén, chính xác và chính
những điều đó là ưu điểm lớn nhất mà có lẽ là tất cả các nhà giáo dục đều quan
tâm.
CHƯƠNG III:
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
20
Trường THCS Hoà Hưng
XÂY DỰNG “TIẾT HỌC THÂN THIỆN HỌC SINH TÍCH CỰC” THÔNG
QUA CÁC TRÒ CHƠI TRONG TIẾT DẠY HỌC TOÁN BẬC THCS
I) Phương pháp nghiên cứu
Tham khảo tài liệu về cách tổ chức trò chơi, xem các chương trình tổ chức
trò chơi của đài truyền hình, sách giáo khoa 6,7,8,9
Tham khảo ý kiến, phương pháp tổ chức trò chơi của đồng nghiệp thông
qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ thăm lớp.
Điều tra kết quả học tập của các em học sinh trong và ngoài trường.
Thực nghiệm dạy 3 năm học (2009-2010 đến 2010-2011 và học kỳ I năm
học 2011-2012) ở khối lớp 6
3
; 7

1
; 8
1
; 9
2
trường trung học cơ sở Mỹ Lương.
Đánh giá kết quả học tập của các em sau khi thực nghiệm.
II) Kết quả nghiên cứu thực tiễn:
1/ Vài nét về địa bàn:
Trường trung học cơ sở Mỹ Lương, thuộc huyện Cái Bè, cách quốc lộ 1A
khoảng 3km, được thành lập năm 1993, diện tích của trường nhỏ hẹp, cơ sở vật
chất thiếu thốn, lớp học xuống cấp, có 7 phòng phục vụ giảng dạy, 1 phòng thực
hành, 1 phòng thư viện không đủ kích thứơc.
Đội ngũ giáo viên đa số còn trẻ nhiệt tình trong công tác, chịu khó học hỏi,
sống đoàn kết. Song, chưa có chiều sâu về chuyên môn do đó việc góp ý lẫn nhau
về chuyên môn còn hạn chế.
Người dân nơi đây sống bằng nghề nông, chậm phát triển, ít quan tâm đến
việc học hành của con cái.
2/ Thực trạng:
Học sinh lớp 6
3
; 7
1
; 8
1
; 9
2
của trường năm học 2008-2009, các em chưa
thật sự ham thích học toán (tỉ lệ: 10.6% bảng1), còn trốn tiết giờ học toán, kết quả
điểm thi cuối năm trên trung bình còn thấp, dưới trung bình còn nhiều (tỉ lệ

62.9% bảng 2).
3/ Đánh giá thực trạng:
- Đa số học sinh chưa xác định đúng mục đích của việc học toán.
- Chất lượng đầu vào thấp, học sinh không có sự ôn luyện trong hè và ở nhà
- Nhận thức của học sinh quá chậm.
- Học sinh quá lười học, ham chơi, trốn học chơi game.
- Giáo viên chưa tổ chức được tiết dạy sinh động, đa dạng, để thu hút được
học sinh, chưa khơi dậy được niềm đam mê học toán của các em.
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
21
Trường THCS Hoà Hưng
- Cha mẹ học sinh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình.
- Xung quanh trường thì có rất nhiều tiệm Game mời đón và đầy thu hút.
4/ Đề xuất biện pháp:
- Mỗi giáo viên cần thực hiện tốt cuộc vận động “ Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” thông qua các tiết dạy ngoại khóa, chính khóa, tạo
được niềm tin, môi trường thân thiện, an toàn, bình đẳng trong học tập.
- Tăng cường tổ chức nhiều loại hình hoạt động tập thể, các trò chơi tập thể
ví dụ như: “Đố vui để học”, “ Đường đến vinh quang” , quản lý học sinh trong
các giờ tự học, đồng thời tăng thời gian phụ đạo học sinh yếu kém, tìm ra chỗ học
sinh bị hỏng để phụ đạo.
- Lập ra cán sự bộ môn toán để kiểm tra và hướng dẫn các tổ, nhóm làm bài
tập một cách có hiệu quả, phân công học sinh khá – giỏi kèm học sinh yếu kém
dưới sự giám sát của giáo viên, tổ chức thi đua giữa các tổ, nhóm với nhau.
- Tạo ra hứng thú cho học sinh trong giờ học.
- Hướng dẫn học sinh cách học bài, làm bài, nghiên cứu trước bài mới ở
nhà.
5/ Khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp đề ra:
Sau khi thực nghiệm đề tài tại trường trung học cơ sở Mỹ Lương tôi thấy
học sinh rất hứng thú trong tiết học toán hơn, phong trào học toán được nâng lên

rõ rệt, được thể hiện qua kết quả của các bài kiểm tra học kỳ II các năm 2008 đến
2010 và học kì I năm học 2011-2012 như sau: (Bảng 3)
Năm
học
Lớp
Tổng
số
HS
Rất thích học
toán
Thích học toán Bình thường
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
Tỉ lệ
2008-
2009
6
3
; 7
1
;
8
1
; 9

2

170 18 10.6 27 15.9 125 73.5
2009-
2010
6
3
; 7
1
;
8
1
; 9
2

170 37 21.8 48 28.2 85 50.0
2010-
2011
6
3
; 7
1
;
8
1
; 9
2

169 53 31.3 62 36.7 54 32.0
2011-

2012
6
3
; 7
1
;
8
1
; 9
2

165 62 37.6 65 39.4 38 23.0
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
22
Trường THCS Hoà Hưng
Khi áp dụng trò chơi toán học vào bài giảng, thì học sinh càng ngày yêu
thích bộ môn toán nhiều hơn cụ thể học kỳ II năm học 2008-2009 chỉ có 10.6%
đến học kỳ I năm học 2011-2012 tăng lên 37.6%.
* Điểm thi học kỳ: (Bảng 4)
Năm
học
Lớp
Tổng
số
HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu-kém
Số
lượng
Tỉ
lệ

Số
lượng
Tỉ
lệ
Số
lượng
Tỉ
lệ
Số
lượng
Tỉ
lệ
2008-
2009
6
3
; 7
1
;
8
1
; 9
2

170 14 8.2 20 11.8 29 17.1 107 62.9
2009-
2010
6
3
; 7

1
;
8
1
; 9
2

170 18 10.5 28 16.5 28 16.5 96 56.5
2010-
2011
6
3
; 7
1
;
8
1
; 9
2

169 32 18.9 40 23.7 33 19.5 64 37.9
2011-
2012
6
3
; 7
1
;
8
1

; 9
2

165 37 22.4 47 28.5 36 21.8 45 27.3
Từ kết quả điều tra cho thấy:
Năm học: 2009-2010 nhà trường đẩy mạnh cuộc vận động “xây dưng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã tổ chức được nhiều phong trào vui
chơi giải trí, áp dụng các trò chơi toán học vào giảng dạy đã góp phần lôi kéo các
em trở về với trường lớp. Từ đó, phong trào học tập cũng được nâng lên kết quả
cho thấy tỉ lệ giỏi chiếm 10.5%, học sinh yếu kém giảm còn 56.5%
Năm học: 2010-2011 nhà trường tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “xây
dưng trường học thân thiện, học sinh tích cực” Giáo viên bộ môn cũng tích cực
đổi mới phương pháp, các trò chơi toán học, anh văn, ngữ văn liên tục được thầy
cô bộ môn thể hiện qua trong từng tiết dạy, các em rất thích các trò chơi, phong
trào học tập được nâng lên, chất lượng của các em thể hiện rõ ràng là 18.9% xếp
loại giỏi, còn học sinh yếu kém giảm còn 37.9%
Kết quả khả quan hơn là ở học kỳ I năm học 2011-2012 tỉ lệ giỏi tăng lên
đáng kể là 22.4, cò tỉ lệ yếu kém cũng giảm chỉ còn 27.3%.
Tiểu kết:
Qua ba năm thực nghiệm đưa trò chơi toán học vào bài giảng tôi nhận thấy
rằng, thái độ học tập của học sinh có thay đổi rõ rệt, các em yêu trường mến lớp
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
23
Trường THCS Hoà Hưng
hơn, không còn tình trạng trốn tiết toán để đi chơi game nữa, các em tiếp thu kiến
thức một cách nhẹ nhàng, giáo viên bộ môn tạo được niềm tin cho các em, các em
cảm thấy an toàn hơn, thân thiện với thầy cô và bạn bè hơn. Qua đó, đã góp phần
thực hiện thắng lợi cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” của Bộ giáo dục đề ra.
Phần III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

I. Kết luận:
Để thực hiện thành công các trò chơi toán học ở khối lớp 6,7,8, 9 cần thực
hiện tốt những bài học kinh nghiệm như sau:
1. Giáo viên phải có tâm huyết, phải nhiệt tình, sưu tầm và sắp xếp thời gian
tổ chức các trò chơi cho các em, nhằm để củng cố, ôn tập và khắc sâu kiến thức
của các em, các em sẽ cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái và thân thiện hơn khi tiếp
nhận kiến thức.
Giáo viên phải biết gợi lên lòng ham thích của các em qua những trò chơi
thực tế trong cuộc sống.
Trong giảng dạy, giáo viên cần phải tỏ ra hết sức thân thiện, gần gũi với các
em, thông qua các hành động cử chỉ, lời nói, làm cho các em cảm nhận được rằng:
Mình được học tập sinh hoạt trong môi trường an toàn, thân thiện.
Giáo viên phải chuẩn bị thật chu đáo các trò chơi, không để tình trạng bị lỗi
xảy ra trong lúc tổ chức trò chơi, nếu có lỗi xảy ra thì làm cho các em mất hứng
thú, không tập trung, lớp sẽ ồn.
Giáo viên cần phải có nhận xét tuyên dương phê bình khách quan, thẳng
thắng trung thực không thiên dị. Vì đây là trò chơi giúp các em củng cố, khắc sâu
kiến thức giáo viên không nên phê bình hay xử phạt nặng nề đối với các em.
2. Học sinh phải có sự ham thích, tích cực nhiệt tình tham gia các trò chơi.
3. Ban giám hiệu tăng cường hỗ trợ về cơ sở vật chất, cũng như các dụng cụ
để tổ chức trò chơi, tổ chức hội thảo chuyên đề để phân tích các loại trò chơi phụ
hợp với từng lứa tuổi, từng đối tượng học sinh để đưa vào trong tiết dạy cho phù
hợp.
4. Phụ huynh học sinh phải thường xuyên quan tâm đến việc học hành của
con em mình, nhắc nhở đôn đốc học sinh học tập, mua tài liệu tham khảo cho học
sinh nghiên cứu và tự học.
II/ Ý nghĩa:
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
24
Trường THCS Hoà Hưng

Trò chơi toán học giúp học sinh không còn thấy chán nãn và căng thẳng khi
học toán, phá tan đi được sự sợ sệt, lo âu, ám ảnh của những học sinh yếu kém
mỗi khi đến tiết học toán, giúp các em tự tin vào bản thân hơn, hòa nhập vào tập
thể trong tình thân ái, vui tươi, thân thiện.
Thực hiện tốt việc tổ chức các trò chơi nó sẽ góp phần phát triển nhân cách,
tư duy cho các em học sinh, có ý thức vươn lên trong học tập, nhận thức được mối
liên hệ mật thiết giữa toán học và cuộc sống đời thường, thấy được giá trị của toán
học, thúc đẩy niềm đam mê học toán của học sinh.
Với những tiết dạy toán có tổ chức trò chơi, thì hiệu quả khi nào cũng cao
hơn những tiết dạy bình thường, học sinh yếu kém yêu trường mến lớp hơn và gần
gũi với thầy cô hơn.
 Với phương châm : “Xây dựng tiết học thân thiện, học sinh tích cực”
thông qua các trò chơi trong tiết dạy học toán bậc THCS, bản thân đã tích cực
cùng nhà trường đẩy mạnh phong trào. “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” do Bộ giáo dục và đào tạo phát động. Hy vọng rằng sáng kiến kinh
nghiệm của bản thân sẽ là tài liệu bổ ích để cho đồng nghiệp tham khảo. Tuy
nhiên trong quá trình thực hiện đề tài, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót
và những ý kiến chủ quan của bản thân, kính mong quí thầy cô, các bạn đồng
nghiệp đóng góp, góp ý để đề tài này ngày càng được hoàn chỉnh hơn.
III. Kiến nghị:
Đề nghị Phòng Giáo Dục và Đào Tạo thường xuyên mở các chuyên đề “
Đưa trò chơi toán học vào bài giảng” để chúng tôi có điều kiện trao đổi chuyên
môn và học hỏi thêm kinh nghiệm.
Đề nghị Hội phụ huynh học sinh cần quan tâm hơn nữa đến việc học tập của
con em mình./.
Người thực hiện.
Trần Văn Dũng
GV: Trần Nguyễn Minh Đăng
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×