Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

NHân sinh quan phật giáo và ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống con người VIệt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.93 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 2
I.
NHÂN SINH QUAN – VẤN ĐỀ TRUNG TÂM TRONG
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
4
1. Khái quát về sự ra đời của Phật giáo 4
2. Nhân sinh quan trong triết học Phật giáo 5
II.
ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
14
1. Quá trình ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo
đức, lối sống con người Việt Nam
14
2. Một số ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo
đức, lối sống của con người Việt Nam
15
3. Một số yêu cầu trong xây dựng và phát triển đạo đức, lối
sống con người Việt Nam theo nhân sinh quan Phật giáo
trong điều kiện mới
20
KẾT LUẬN 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
MỞ ĐẦU
2
Nếu gọi Phương đông là chiếc nôi của văn minh nhân loại thì Ấn Độ là
một trong những trung tâm văn hoá và triết học cổ xưa, rực rỡ, phong phú
nhất của nền văn minh ấy - nó có một vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng
của Châu Á nói riêng, lịch sử văn minh nhân loại nói chung. Giống như triết


học Trung Quốc, triết học Ấn Độ ra đời sớm và chứa đựng nhiều tư tưởng
sâu sắc về thế giới, con người, về chính trị xã hội.
Với Việt Nam - một dân tộc với hàng ngàn năm văn hiến, một dân tộc đã
trải quan biết bao những biến cố, thăng trầm của lịch sử, một dân tộc với vị trí
địa lý thuận lợi trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa thì sự ảnh hưởng và
du nhập của các học thuyết tư tưởng của nhân loại là một lẽ tất nhiên, nhưng sự
du nhập của các học thuyết tư tưởng bao giờ cũng được chọn lọc và được “khúc
xạ” dưới văn hóa truyền thống dân tộc, phản ánh trong cách sống, cách tư duy
của người Việt Nam.
Trong số các học thuyết tư tưởng du nhập vào Việt Nam thì Phật giáo là
một trong những học thuyết có ảnh hưởng to lớn nhất trong đời sống, tư tưởng
dân tộc, nhân sinh quan Phật giáo trở thành một trong những nhân tố cấu thành
nền văn hóa dân tộc cũng như trong lối sống, đạo đức của con người Việt Nam.
Ảnh hưởng của nhân sinh Phật giáo luôn biến đổi trải qua những bước thăng
trầm trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay khi nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang có những ảnh hưởng
to lớn đến đạo đức, lối sống, quá trình hộp nhập quốc tế làm biến đổi nhiều giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc thì sự ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo
đến lối sống và đạo đức con người Việt Nam diễn ra càng rõ nét và có những
biểu hiện mới.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu nhân sinh quan phật giáo, ảnh hưởng của
nó đến lối sống và đạo đức của con người Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan
trọng, là cơ sở để chúng ta xem xét những giá trị tích cực và hạn chế của nó
trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam nói chung, sự cấu thành của nó
trong lối sống, đạo đức nói riêng. Đặc biệt, trên cơ sở đó chúng ta có thể đánh
3
giá được những biến đổi của nó trong điều kiện hiện nay, từ đó phát huy những
giá trị tích cực và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực đến lối sống và đạo đức
con người Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thì trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Trong khuôn khổ của bài tiểu luận, tôi xin tập trung luận giải nhân sinh
quan Phật giáo – vấn đề trung tâm trong triết học Phật giáo, sự ảnh hưởng của
nó đến lối sống và đạo đức của con người Việt Nam, từ đó đánh giá những biến
đổi của lối sống đạo đức trong điều kiện hiện nay để chỉ rõ một số yêu cầu đặt ra
trong xây dựng đạo đức và lối sống con người Việt Nam dưới ảnh hưởng của
nhân sinh quan Phật giáo trong điều kiện mới, góp phần xây dựng đạo đức, lối
sống của con người Việt Nam.
NỘI DUNG
4
I. NHÂN SINH QUAN – VẤN ĐỀ TRUNG TÂM TRONG TRIẾT HỌC
PHẬT GIÁO
1. Khái quát về sự ra đời của Phật giáo
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, xem xét sự ra đời của triết học
nói chung, sự ra đời của Phật giáo nói riêng luôn phải xuất phát từ tồn tại xã hội.
Ănghen đã từng khẳng định: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh
hư ảo vào trong đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần
thế đã mang hình thức những lực lượng siêu thần thế”. Chính vì vậy, khi nghiên
cứu Phật giáo và hệ thống tư tưởng của nó phải căn cứ vào những điều kiện kinh
tế xã hội Ấn Độ cổ, trung đại.
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc Nam Châu Á với đặc điểm khí hậu, đất
đai đa dạng và khắc nghiệt cùng sự án ngữ của vòng cung dãy Hy–Mã-Lạp–Sơn
kéo dài trên hai ngàn km. Tuy nhiên nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất là sự tồn tại từ
rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế xã hội theo “Công xã nông thôn”. Trong kết
cấu này, chế độ quốc hữu về ruộng đất là “chiếc chìa khoá” để hiểu toàn bộ lịch sử
Ấn Độ cổ đại. Chính trong mô hình này đã tạo nên sự phân biệt hết sức khắc nghiệt
và giai dẳng của bốn đẳng cấp lớn trong xã hội: Tăng nữ, quí tộc, bình dân tự do và
tiện nô (nô lệ). Tất cả hợp thành cơ sở hiện thực cho sự phát triển những tư tưởng
triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ, trung đại.
Người sáng lập Phật giáo là Thái tử Tất Đạt Đa - con vua Tịnh Phạn, vua

một nước nhỏ ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc đất Nêpan) là người sáng lập ra Phật
giáo. Ông sinh khoảng năm 623 mất năm 543 tr. CN, ở Ấn Độ. Sau khi tu hành
đắc đạo có danh hiệu Thích Ca Mầu Ni. Tận mắt chứng kiến đời sống khổ cực
và bất lực của con người trong xã hội đương thời, đã khiến Tất Đạt Đa có ý định
từ bỏ cuộc sống giàu sang để đi tìm đạo lý cứu đời. Qua một thời gian học đạo,
Ông nhận thấy, cuộc sống giàu sang về vật chất, thoả mãn dục vọng và cả cuộc
sống tu hành khổ hạnh, ép xác đều là con đường sai lầm. Ông cho rằng, cuộc
sống dù giàu sang đến đâu cũng chỉ là tầm thường, còn cuộc đời tu hành khổ
hạnh thì tăm tối, mà chỉ có con đường tu đạo mới là con đường đúng đắn. Qua
5
nhiều lần tu tập và sau 49 ngày ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ Đề, với
những dòng suy nghĩ sâu sắc Ông đã giác ngộ được chân lý, đã nhận thức và
lý giải được nguồn gốc nỗi khổ của con người, cũng như phương pháp giải
thoát, diệt khổ.
Giáo lý của Phật giáo là một hệ thống bao gồm các quan niệm về nhận thức
luận, thế giới quan và nhân sinh quan những yếu tố này có quan hệ biện chứng
với nhau. Mỗi yếu tố chứa đựng những nội dung với chức năng riêng là tiền đề
và hệ quả của nhau. Nhân sinh quan Phật giáo được bắt nguồn từ thế giới quan.
Tuy nhiên, mục đích chủ yếu của Phật giáo là thoát khổ, là giải phóng con
người, chính vì vậy, nhân sinh quan Phật giáo mang giá trị nhân sinh sâu sắc.
Giống như các học thuyết Phương Đông khác, Phật giáo lấy con người,
giá trị con người là đối tượng nghiên cứu chủ yếu và mục đích cuối cùng của
Phật giáo là cứu khổ, cứu nạn, giải thoát con người khỏi nỗi khổ trần thế. Điều
này xuất phát từ căn nguyên từ xã hội chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ, với sự thống trị
của tư tưởng duy tâm tôn giáo Bà la môn và chế độ phân biệt đẳng cấp hà khắc,
Phật giáo ra đời chính là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận uy thế của kinh Vêđa
và đạo Bà la môn, tố cáo xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng và sự bình đẳng xã
hội, xoá bỏ nỗi khổ trong đời sống của người dân Ấn Độ. Đây là sự thể hiện tinh
thần phản kháng của quần chúng nhân dân đối với chế độ xã hội đương thời.
2. Nhân sinh quan trong triết học Phật giáo

Theo lý luận, triết lý nhân sinh của một học thuyết tư tưởng đều xuất phát
từ thế giới quan, do thế giới quan chi phối. Mặt khác, với tư cách là một hình
thái ý thức xã hội, nhân sinh quan còn chịu sự chi phối của tồn tại xã hội và các
tác động của các hình thái ý thức xã hội khác. Đây là vấn đề có ý nghĩa phương
pháp luận cho chúng ta khi tiếp cập và nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo.
Chúng ta có thể khái quát: nhân sinh quan Phật giáo là hệ thống quan
điểm của Phật giáo về con người, đời sống của con người. Hệ thống quan
điểm này chịu sự chi phối của thế giới quan, của tồn tại xã hội Ấn Độ cổ
trung đại và bởi các ý thức xã hội khác. Trong phạm vi bài tiểu luận, tác giả
6
sẽ phân tích làm rõ một số nội dung cơ bản của Phật giáo về nhân sinh quan
trong đó tập trung phân tích, làm sáng tỏ quan điểm của Phật giáo về con
người, đời sống con người.
Trước hết, quan điểm của Phật giáo về con người
Trái với quan điểm của kinh Vê đa, Upanisad, đạo Bàlamôn và các phái triết
học đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng tạo và
chi phối vũ trụ. Phật giáo cho rằng con người không phải do thượng đế hay một
đấng thiêng liêng nào sinh ra. Con người là một pháp đặc biệt của thế giới vạn
pháp thể hiện trong thuyết danh sắc và thuyết Lục đại.
Thuyết Danh sắc cho rằng, con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất
và tinh thần. Thuyết Lục đại, con người được cấu tạo từ sáu yếu tố bao gồm: Địa
(nghĩa là đất, xương thịt); Thuỷ (nước, máu, chất lỏng); Hoả (lửa, nhiệt khí);
Phong (gió, hô hấp); Không (các lỗ trống trong cơ thể); Thức (ý thức tinh thần).
Trong 6 yếu tố này thì 5 yếu đầu thuộc về vật chất, chỉ có một yếu tố cuối cùng
thuộc về tinh thần. So với thuyết Danh sắc thì thuyết Lục đại xét cấu tạo con
người nghiêng nặng về vật chất còn thuyết Danh sắc gần như có sự cân bằng,
hài hoà giữa hai lĩnh vực vật chất và tinh thần. Trong khi đó, Thuyết Ngũ uẩn:
xem con người được cấu tạo từ năm yếu tố: Sắc (vật chất bao gồm địa, thuỷ,
hoả, phong); Thụ (tình cảm, cảm giác con người); Tưởng (tưởng tượng, tri giác,
ký ức); Hành (ý thức, những yếu tố khiến tâm hoạt động); Thức (ý thức theo

nghĩa rộng gồm cả thụ, tưởng, hành). Trong các thuyết về cấu tạo con người của
Phật giáo, thì thuyết Ngũ uẩn là phổ biến hơn cả.
Con người gồm hai bộ phận: thể xác và linh hồn. Phần sinh lý - sắc uẩn là
thân tướng, hình sắc được giới hạn trong không gian bằng xương, thịt, da được tạo
thành từ bởi bốn yếu tố vật chất gọi là tứ đại: đất, nước, lửa, gió. Tứ đại tạo nên
thân tướng, hình sắc của con người cụ thể là: đất tạo ra các phần cứng như xương,
lông tóc, lục phủ, ngũ tạng; nước tạo ra chất lỏng như máu, mật, mồ hôi; lửa tạo
nên than nhiệt; gió tạo thành hơi thở, hơi khí trong cơ thể.
Phần tâm lí hay ý thức tinh thần gồm: thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức
uẩn được biểu hiện bằng thất tình: ai (thương), ái (yêu), ố (ghét), hỷ (vui), nộ
7
(giận), lạc (sướng), dục (muốn). Phần tâm lí bao giờ cũng dựa vào phần sinh lí, hay
nói cách khác không thể có tinh thần ý thức ngoài cơ thể vật chất.
Con người thực chất chỉ là giả hợp của ngũ uẩn, khi ngũ uẩn kết hợp lại gọi
là sinh khi ngũ uẩn tan ra gọi là diệt. Do đó không có cái ta, hay cái ta cũng chỉ là
giả tướng không có thật ”, gọi là “nhân vô ngã” (nhân không). Con người được tạo
thành từ Ngũ uẩn cho nên không có chủ thể thường tự tại. Con người là sản vật, tự
nhiên không có hình thái cố định của tính vật chất nhưng vì đã ăn vật chất trên thế
giới nên dần hình thành khối vật chất thô kệch có sự phân biệt tính cách, mầu da.
Phật giáo không cho rằng con người sau khi chết là hết, Phật giáo giải thích
con người sau khi chết bằng thuyết Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi. Theo quan
niệm của Phật giáo, xét đến cùng muôn vật trong vũ trụ là hệ thống nhân duyên
của nhau, cứ thế sinh sinh, diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô cùng tận; thế giới là vô
thuỷ vô chung, không có cái gì là trường tồn bất biến. Mọi cái đều biến đổi vận
động không ngừng, không có cái vĩnh hằng; mọi vật đều tuân theo quy luật sinh,
trụ, dị, diệt. Con người cũng thuộc về thế giới hiện tượng. Thân xác con người
được đề cập trong thuyết Danh sắc, thuyết Lục đại, thuyết Ngũ uẩn của Phật giáo.
Khi một con người tồn tại tức là khi mang thân ngũ uẩn đều có ba hoạt động
chính: hoạt động thông qua các hành vi, do hậu quả việc làm của ta, do hành động
của thân thể ta gọi là “thân nghiệp”; còn những hậu quả do lời nói của ta, phát ngôn

của ta thì được gọi là “khẩu nghiệp”; hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tư của
ta gây nên thì được gọi là “ý nghiệp”. Cả ba hoạt động về thân-khẩu-ý đều thuộc
hai phạm trù thiện ác. Theo luật nhân quả, tất cả các hoạt động về thân-khẩu-ý,
thiện ác đó sẽ tạo ra nghiệp lực để báo ứng về sau (gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp,
ý nghiệp), tức là gieo nhân, gieo nghiệp cho sự kết hợp ngũ uẩn mới. Một ngũ uẩn
mới tập hợp tức là một con người mới được sinh ra, lại hoạt động, lại gieo nhân,
gieo nghiệp chuẩn bị cho sự kết hợp của ngũ uẩn tiếp theo. Cứ như thế kéo con
người vào vòng luân hồi sinh tử không ngừng không dứt từ đời này qua đời khác,
kiếp này qua kiếp khác.
8
Phật giáo cho rằng con người ở kiếp này phải chịu quả báo về những việc
làm của họ ở kiếp trước. Con người hiện tại là quả của con người quá khứ nhưng
đồng thời là nhân của con người tương lai. Với thuyết nhân quả, nghiệp-nghiệp
báo, Phật giáo cho rằng không có một hành vi thiện ác nào của con người, dù là
nhỏ bé, dù được bưng bít che đậy cũng không tránh khỏi quả báo về sau.
Thứ hai, quan điểm Phật giáo về cuộc sông của con người
Mục đích cuối cùng và tư tưởng chủ đạo có tính xuyên suốt trong toàn bộ
học thuyết nhân sinh là tư tưởng giải thoát chúng sinh khỏi kiếp sống trầm luân đau
khổ để đạt được sự giải thoát. Phật giáo bác bỏ Braham và Atman, nhưng lại tiếp
thu tư tưởng luân hồi Samsara và nghiệp Karma của Upanisad cho rằng, mọi vật
mất đi ở chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác, trong quá trình biểu hiện sinh tử theo
nghiệp nhân quả luân hồi. Để đạt được sự giải thoát, Phật giáo nêu ra bốn chân lý
tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người phải thực hiện. Đó là tứ diệu đế: Khổ đế, tập
đế, diệt đế và đạo đế.
Khổ đế - triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con
người là khổ. “Đời là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn
phương đều là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của
máu và nước mắt chúng sinh mặn hơn nước biển”.
Có thể nói, quan niệm về “Khổ” đế nói lên bản chất của triết lý nhân sinh
trong học thuyết Phật giáo. Quan niệm này mang tính tiêu cực, yếm thế, coi đời

chỉ là ảo hoá tạm bợ do vô minh, con người không nhận thức được điều đó, do
đó cứ lặn lội mãi trong biển sinh tử, luân hồi. Cuộc đời con người đầy dẫy
nhưng nỗi khổ, nhưng không ai nhìn thấy tường tận và rõ ràng. Tất cả nỗi khổ
của con người được phản ánh trong lý thuyết: bát khổ bao gồm: Sinh, lão, bệnh,
tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn khổ. Đây là là sự cụ thể
hoá, tỉ mỉ hơn về các nỗi khổ của chúng sinh ở trần thế.
Sinh khổ: Con người khi sinh ra đã cất tiếng khóc chào đời; trước đó còn
ở trong bụng mẹ thì chật chội, tăm tối; người mẹ mang thai thì vất vả, mệt nhọc,
9
kém ăn, mất ngủ, chịu bao cái khác thường so với người khác. Và khi con người
có mặt trên đời đã là khổ.
Lão khổ: Trong cuộc sống hàng ngày, con người muốn tồn tại được thì
trước hết phải ăn, uống, mặc ở, sinh hoạt, đi lại …Muốn vậy, con người phải lao
động hết sức vất vả, cực nhọc, tất bật trong công việc. Đó là về mặt vật chất, còn
những nỗi khổ về tinh thần dày vò con người cũng không kém nỗi khổ về vật
chất, nó làm cho con người suy kiệt, ốm yếu, già nua …
Bệnh khổ: Con người đến lúc tuổi cao, thân thể hao mòn già yếu các giác
quan, hoạt động kém; mắt mờ, chân chậm, tai điếc…dễ sinh bệnh tật gây đau
ốm cho người bệnh và người thân xung quanh.
Tử khổ: Đến một thời điểm nhất định con người phải chết, xa lìa trần thế để
lại nỗi sót thương vô hạn cho người thân, bè bạn. Ai cũng vậy, sợ phải xa lìa người
thân, bè bạn, bởi cuộc sống có biết bao điều thú vị. Đó là nỗi khổ của con người.
Ái biệt ly khổ: Nỗi khổ khi phải xa cách, chia ly người mình mến thương
như vợ chồng, cha mẹ, anh em … Nỗi khổ này bao gồm cả nỗi khổ sinh tử biệt
ly: Sống phải xa nhau đã khổ, nhưng người ở lại người đi vào thế giới khác thì
đó là nỗi khổ tình thương, tuyệt vọng biết nhường nào.
Oán tăng hộ khổ: Nỗi khổ vì sống cùng với người mà mình không hề
yêu thích; ở chung những người như vậy giống như gai đâm vào mắt mà
không làm gì được.
Sở cầu bất đắc khổ: Là những nỗi khổ do con người mong muốn, ước ao

mà không đạt được, con người phải lao tâm, khổ tứ biết bao, mong có được
ngày thành đạt; nếu điều đó không thành thì nỗi khổ ấy thật khủng khiếp dày vò,
khiến con người tuyệt vọng…
Ngũ thụ uẩn khổ: Gây ra bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm cho thân tâm
phải chịu hết thảy những nỗi khổ. Thích Ca nói với chúng sinh: Già là khổ, bệnh
khổ, chết khổ, cái gì của ta mà phải xa rời là khổ, cái gì không ưa thích mà phải
hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ.
Có thể nói, với học thuyết về “khổ đế” Phật giáo đã khái quát những nối
khổ lớn nhất của đời người. Với lòng từ bi thương người của mình, Phật muốn
10
chúng sinh biết hết mọi nỗi khổ ở đời để khi gặp phải không làm cho tinh thần
hoảng loạn, mà phải biết bình tĩnh suy xét tìm cách giải khổ, làm chủ được bản
thân, vượt lên trên số phận. Điều này cho thấy, Phật giáo không hề trốn tránh
cuộc sống trần gian, cũng như không tô hồng nó, mà đã dũng cảm nhìn vào hiện
thực cuộc sống con người.
Cùng với việc chỉ ra nỗi khổ của con người, Phật giáo cũng chỉ ra nhưng
nguyên nhân cơ bản, điều này thể hiện trong thuyết Nhân đế (hay còn gọi là tập
đế). Tập đế, nói đến sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ.
Phật giáo cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó đồng thời khái quan
nên mười hai nguyên nhân của nỗi khổ (thập nhị nhân duyên).
Trong mười hai nguyên nhân, Phật cho rằng, vô minh và ái dục là hai
nguyên nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Vô minh là không sáng suốt,
không nhận thức được thế giới, không thấy mọi sự vật đều là ảo giả, mà cứ cho là
thực; không nhận thức được ngay chính bản thâm mình, cả thế giới khách quan lẫn
bản thể chủ quan đều chỉ là vô thường vô ngã trong vòng luân hồi, trôi chảy bất
tận, chính cái này dẫn đến lòng tham sống ở trong con người. Phật giáo nói đến đau
khổ chủ yếu chỉ là tinh thần bức bách. Sự kết hợp giữa ái dục và vô minh xuất phát
từ nguồn gốc của ba thứ mà Phật gọi là tam độc, đó là: Tham, sân, si.
Tham, là biểu hiện sự tham lam của con người, xúi dục con người hành
động để thoả mãn lòng tham của mình. Lòng tham của con người không có giới

hạn, đây là nguyên nhân gây bao nỗi thống khổ cho con người như chém giết,
xâm hại lẫn nhau.
Sân, là sự cáu gắt, bực tức, nóng giận khi con người không hài lòng về
điều gì đó, làm cho con người không kiểm soát hết hành động của mình (giận
quá mất khôn); như thế cũng đem lại những điều khổ đau, không hay cho con
người. Sách Phật ghi rằng, một đốm lửa giận có thể đốt hết muôn mẫu rừng
công đức và một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn, cửa nghiệp chướng mở.
Si, là sự si mê, lú lẫn, làm cho con người không phân biệt điều hay dở;
điều đó gây bao tội lỗi, đau khổ cho mọi người. Nếu tham, sân nổi lên mà có trí
sáng suốt sẽ ngăn chặn được tham, sân.
11
Bên cạnh vô minh và ái dục, Phật giáo còn chỉ ra 10 nguyên nhân khác đó là:
Duyên hành: là hành động có ý thức; ở đây đã có sự dao động của tâm, có
mầm mống của nghiệp.
Duyên thức: tâm thức từ chỗ cân bằng trong sáng đến dần mất cân
bằng, tuỳ theo nghiệp mà tâm thức tìm đến các nhân duyên để hình thành
cuộc đời khác.
Duyên danh sắc: là sự tụ hợp của các yếu tố vật chất tinh thần; với các
loài hữu tình thì sự hội nhập của danh sắc sinh ra các cơ quan cảm giác, trầm
sức, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Duyên lục nhập: quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp
xúc với lục trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Duyên xúc: là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là
quả của lục nhập, là nguyên nhân của thụ.
Duyên thụ: là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh ra yêu,
ghét, buồn, vui.
Duyên ái: là yêu nảy sinh dục vọng, mong muốn.
Duyên thủ: tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta); từ đây chứng tỏ
có nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân.
Duyên sinh: đã có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là hiện hữu là

tu sinh ra ở thế giới để làm người, hay súc sinh.
Duyên lão tử: đã có sinh tất yếu có già và có chết. Sinh - lão - bệnh - tử là
kết thúc một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu
một vòng luân hồi mới. Cứ như thế tiếp diễn ở trong vòng đau khổ sinh tử.
Mười hai nhân duyên có quan hệ mật thiết với nhau, cái này làm nhân, làm
duyên cho cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời làm nhân cho cái kia.
Cùng với việc khẳng định cuộc đời là bể khổ, việc xác định thập nhị nhân
duyên dẫn đến khổ, Phật giáo khẳng định nỗi khổ có thể tiêu diệt được, có thể
chấm dứt khỏi vòng luân hồi với tư tưởng về Diệt đế. Phật giáo khuyên chúng
sinh phải tu dưỡng thân tâm, đoạn trừ “vô minh”, để cho Phật tính bừng sáng, nó
12
sẽ là ngọn đèn pha dẫn bước chúng sinh đến cõi niết bàn. Diệt đế nói lên thế giới
của sự giải thoát, thế giới không còn khổ đau.
Về con đường giải thoát bể khổ của Phật giáo thông qua thuyết Đạo đế tập
trung trong tư tưởng về bát chính đạo thực chất là diệt trừ vô minh. Đây là con
đường tương đối phổ biến, là môn pháp chính được đề cập đến nhiều nhất đến
nỗi có người lầm tưởng đạo đế và bát chính đạo là một.
Chính kiến: là sự hiểu biết đúng đắn, nhận thức rõ về tứ diệu đế, hiểu
đúng sự vật khách quan. Người ta có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai, chi
phối mọi hành động, tâm trí sáng suốt.
Chính tư duy: sự suy nghĩ phán xét đúng với lẽ phải. Người tu hành
theo chính tư duy biết suy xét vô minh là nguyên nhân của khổ đau, tìm ra
phương pháp tu luyện để thoát khổ cho mình và mọi người; đó là diệt trừ vô
minh, tam độc.
Chính ngữ: lời nói ngay thẳng, là đưa chính tư duy vào thực hành trong
lời nói cụ thể; không nói dối, không tạo ra sự bất hoà giữa mọi người, không nòi
lời ác dữ, không thừa lời vô ích. Người tu hành trước khi nói năng phải suy nghĩ
tới người nghe, nói lời đoàn kết dịu hiền.
Chính nghiệp: Đức Phật dạy chúng sinh rằng: Nếu là tà nghiệp như sát
sinh, trộm cắp, tà dâm, thì phải cải tạo, cải tà quy chính, làm điều thiện tránh

điều ác. Còn nếu là chính nghiệp việc làm hợp với lẽ phải, có ích cho mọi người
thì phải giữ gìn. Trong chính nghiệp lại có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.
Thân nghiệp là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; ý nghiệp là
không tham dục, không nóng giận, không tà kiến.
Chính mệnh: lối sống trong sạch, lương thiện, ngay thẳng của con
người; không tham lam gian ác, ăn bám kẻ khác, không gian dối bất chính;
sống chân chính bằng nghề nghiệp chính đáng. Có thể nói đây là phong cách
sinh hoạt lành mạnh giúp cho con người luôn thoải mái nhẹ nhàng.
Chính tinh tiến: Phật dạy con người cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác;
không quên lý tưởng tu đạo, luôn cảnh giác tỉnh táo trong từng việc làm; phải
chủ động tích cực trong việc tìm kiếm, truyền bá chân lý của Phật.
13
Chính niệm: trong đầu óc con người luôn có ý niệm trong sạch ngay
thẳng, ghi nhớ những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo thường
xuyên niệm Phật.
Chính định: sự tập trung tư tưởng vào một việc chính đáng, đúng chân lý,
tĩnh lặng suy tư về tứ diệu đế của vô ngã vô thường về nỗi khổ của con người, là
cơ sở cho chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao.
Với việc tập trung theo bát chính đạo con người sẽ tự ý thức, sửa mình từ
bỏ mọi tội lỗi, tu thân tích đức như thế con người sẽ đạt tới sự hoàn thiện. Đây
có thể coi là cơ sở, động lực để tạo ra sự yên bình, hạnh phúc không những
trong xã hội hiện tại mà cả xã hội tương lai, bởi nhân nào quả ấy. Một lần nữa
cho thấy, những giá trị nhân sinh sâu sắc của phật giáo được khẳng định. Đức
Phật đã rung động trước nỗi khổ của chúng sinh. Từ đó mà đi tìm phương thuốc
cứu giúp cho chúng sinh, tìm ra lối đi của sự tự do tuyệt đích, của hạnh phúc yên
bình chính là con đường diệt khổ.
Phật giáo lấy việc giải thoát đau khổ làm trọng tâm tư tưởng trong giáo lý
của mình. Tinh thần triết lý nhân sinh mà Phật giáo đòi hỏi trách nhiệm về đạo
đức làm người, không được làm ngơ trước nỗi khổ của người khác, phải toàn
tâm toàn ý cứu khổ cho mọi người … Đó cũng là yêu cầu đối với chính mình,

mình có thực hiện tốt thì mới hy vọng thoát khổ. Phật giáo không lấy giáo lý
làm trọng, mà chỉ coi đó là phương tiện để đạt đến chân lý cuối cùng. Cái cốt
của nó là sự thực hành của mỗi cá nhân đạt đến sự giác ngộ, tu thành đạo quả,
chứ không phải nghe giảng để hiểu đạo.
Từ quan điểm nhân sinh quan phật giáo để đối chiều với nhân sinh
qquan trong triết học Mác - Lênin Mặc để thấy rằng dù Triết học Mác - Lênin
cũng nghiên cứu vấn đề con người, lấy con người làm điểm xuất phát, đồng
thời cũng là mục đích cuối cùng để phục vụ đời sống con người. Nhưng con
người trong triết học Mác - Lênin là con người hiện thực, sống trong một xã
hội nhất định, với những quan hệ xã hội cụ thể. Còn con người trong Phật
giáo là con người nô lệ của các sở cầu tham vọng của mình. Mặc dù vậy,
14
nhân sinh quan Phật giáo vẫn thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc - đó cũng là
giá trị lớn nhất trong triết học Phật giáo.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và chủ yếu bằng con đường tự nguyện,
từ lâu, Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa tinh thần nói
chung, đến lối sống, đạo đức nói riêng của con người Việt Nam. Trong phạm vi
bài tiển luận, tác giả tập trung phân tích một số nội dung ảnh hưởng của Phật
giáo trong lối sống, đạo đức của con người Việt Nam, một số yêu cầu trong xây
dựng lối sống, đạo đức con người Việt Nam hiện nay theo nhân sinh quan Phật
giáo dưới tác động của điều kiện mới.
1. Quá trình ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức,
lối sống của con người Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu đều có chung ý kiến thống nhất cho rằng, Phật giáo
được truyền bá vào Việt Nam bằng hai con đường. Thứ nhất, từ Ấn Độ sang
theo đường biển; thứ hai, từ Trung Quốc vào bằng đường bộ. Sự khác biệt của
Nho giáo và Phật giáo trong quá trình ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của con
người Việt Nam là ở chỗ: Nho giáo (là ý thức hệ tư tưởng của giai cấp thống trị

- giai cấp phong kiến Trung Quốc), là một học thuyết chính trị xã hội - triết học,
với hệ thống “tam cương”, “ngũ thường”. Nho giáo phải thông qua học vấn, qua
giáo dục nhà trường, thông qua các thiết chế xã hội để đi vào cuộc sống của con
người, chủ trương tổ chức và xây dựng một xã hội cụ thể. Còn Phật giáo thông
qua sinh hoạt tôn giáo trong giới tăng ni, phật tử và trong cả sinh hoạt gia đình
của con người Việt Nam.
Việt Nam giáp với biển Đông có đường biển dài nằm trên con đường thuỷ
thông thương giữa Đông và Tây, giữa Bắc và Nam, giữa hai cái nôi của nền văn
minh lớn ở phương Đông là Trung Hoa và Ấn Độ, là nơi xuất phát về phía Nam
của nhiều nhà buôn sứ giả Trung Hoa. Vị trí thuận lợi ấy khiến Phật giáo du
nhập vào Việt Nam sớm.
15
Mặc dù vậy, khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã chịu ảnh hưởng,
“khúc xạ” của văn hóa Việt Nam, Phật giáo đã có những thay đổi phù hợp với
văn hóa truyền thống Việt Nam. Trải qua hơn 2000 năm tồn tại, phát triển, Phật
giáo ở Việt Nam tuy có lúc thịnh suy, nhưng trên thực tế đã luôn gắn bó với
truyền thống dân tộc. Phật giáo phát triển qua các thời kỳ Đinh, Lê và hưng
thịnh, đạt đến đỉnh cao dưới thời lý, Trần. Phật giáo đã góp phần ổn định, bảo vệ
chế độ phong kiến tập quyền và đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn hoá Việt
Nam. Nhân sinh quan Phật giáo, nhất là đức từ - bi - hỷ - xả ngày càng thấm sâu
vào đời sống tâm linh, hướng con người vào con đường thiện nghiệp, tu dưỡng
đạo đức. Hiện nay tuy không còn là quốc giáo, song Phật giáo vẫn có ảnh hưởng
rất lớn đến đời sống tinh thần của người Việt nam. Nhiều giá trị nhân sinh quan
Phật giáo cần tiếp tục gìn giữ và phát triển góp phần xây dựng và phát triển con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước theo tinh thần
Nghị quyết trung ương 9 khóa XI.
2. Một số ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức, lối
sống của con người Việt Nam
Thứ nhất, ảnh hưởng nhân sinh Phật giáo quan đến đạo đức con người
Việt Nam

Qua hơn 20 thế kỷ Phật giáo đã cùng chung sống với dân tộc. Triết lý
nhân sinh của Phật giáo đã thẩm thấu vào tinh thần dân tộc và có ảnh hưởng sâu
sắc đến nhân sinh quan con người Việt Nam, góp phần đắc lực vào việc tạo nên
nhân cách của nhiều người dân Việt Nam. Phật giáo đề cập rất nhiều đến thuyết
nhân duyên, đến quan hệ nhân quả, nhìn sự vật từ kết quả để tìm nguyên nhân
và từ kết quả này lại là nguyên nhân của quả khác trong mối liên hệ khác. Luân
hồi nghiệp báo là giáo lý Phật giáo dựa trên luật nhân quả. Luật nhân quả của
Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân sinh
quan và đạo đức trong nhân dân ta.
Truyền thống đạo đức của dân tộc ta chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo đức
Phật giáo. Từ khi hình thành đến nay, dân tộc Việt Nam đã trải qua bao thăng
16
trầm của lịch sử, những thuận lợi, khó khăn, thử thách đã hun đúc nên tinh thần
dân tộc bền vững. Trong đó tiêu biểu nhất là lòng yêu nước nồng nàn, là cốt lõi
của nhân phẩm. Phật giáo vừa là một hệ thống triết học tôn giáo, vừa là một học
thuyết có giá trị đạo đức cao, mà mục đích duy nhất của nó là cứu khổ độ sinh.
Ngay từ khi được du nhập vào nước ta, Phật giáo đã tham gia vào nền đạo đức
dân tộc một cách hoà bình, thẩm thấu vào truyền thống yêu nước trong suốt
chiều dài lịch sử dân tộc. Đạo đức Phật giáo thâm nhập vào đạo đức dân tộc theo
truyền thống vì nghĩa, vì nước. Đó là sự hoá thân của Phật giáo vào truyền thống
đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Trong lịch sử, đạo đức Phật giáo đã thích ứng với hoàn cảnh Việt Nam,
biến thái từ một nền đạo đức tiêu cực, từ bi sang tinh thần dũng cảm, anh dũng
chiến đấu vì dân, vì nước. Trần Nhân Tông, vị sư tổ khai sáng Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử - dòng thiền lớn nhất của Việt Nam thời Trần - Ông là người đã có
công trong việc đưa chính pháp vào đời sống đạo đức xã hội Việt Nam thời kỳ
này. Nhân Tông là vị vua yêu nước, đã lãnh đạo toàn dân trong hai cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên Mông (1285 - 1288), giữ vững độc lập chủ quyền dân
tộc. Ông còn là vị vua có lòng nhân từ, thân dân nhất.
Sự ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống đạo đức của nhân dân ta vẫn

đậm nét không phải chỉ khi trở thành quốc giáo mà ngay cả khi nó đã nhường
chỗ cho Nho giáo (đầu thế kỷ XV). Như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
rất gần gũi và tương đồng với đạo đức Phật giáo. Nhân sinh quan Phật giáo đã
hoà đồng với các tôn giáo khác, cũng như tập quán, tín ngưỡng truyền thống của
dân tộc Việt nam. Trong đạo đức xã hội coi trọng chữ “Tâm” là gốc để tạo nên
sức mạnh và là động lực cho sự phát triển xã hội. Tư tưởng, hành vi đạo đức
Phật giáo phù hợp với truyền thống nhân đạo, thương người như thể thương thân
của đạo lý người Việt Nam.
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Việc thờ cúng tổ tiên là một truyền thống của người Việt Nam. Truyền
thống đó được cộng hưởng bởi đạo đức Phật giáo. Cho đến tận ngày nay, trong
17
mỗi gia đình Việt Nam, thậm chí ở cả nước ngoài, đều có bàn thờ tổ tiên, ông
bà, cha mẹ và khi mở đầu bài khấn lễ gia tiên, hay trước khi tiến hành các thủ
tục tế lễ thì bao giờ cũng được mở đầu bằng câu “Nam mô a di đà phật”.
Mặt tích cực của nhân sinh quan Phật giáo và đạo đức Phật giáo bao gồm
nhiều khía cạnh. Trước hết, nó góp phần củng cố đạo đức xã hội, tôn vinh những
giá trị văn hoá dân tộc, khơi dậy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, lá lành
đùm lá rách góp phần tạo nên nhân cách con người Việt Nam. Tuy nhiên, sẽ là
không đầy đủ nếu như chỉ nhấn mạnh những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh
quan Phật giáo, mà không thấy ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với đời sống tinh
thần nói chung và đạo đức xã hội nói riêng.
Thuyết nhân quả của Phật giáo tạo cho con người có tính nhẫn nhục, cam
chịu, bằng lòng với số phận của mình ở cuộc sống trần gian. Như vậy, vô hình
chung đã tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp thống trị lợi dụng ru ngủ nhân dân,
loại bỏ tinh thần vươn lên đấu tranh của họ, dẫn đến sự cai trị của chúng dễ dàng
hơn. Mặt khác, trong thực tế, chùa chiền trở thành nơi ẩn náu của một số người
tỏ ra bất mãn trước cuộc sống, gặp khó khăn hay thất bại trong cuộc sống và
chưa làm chủ cuộc sống của chính mình, do vậy họ vào chùa nương tựa cửa

Phật, lẩn trốn thực tại.
Xuất phát từ quan niệm đời là bể khổ, cuộc sống ở trần gian là tạm bợ, là
sự chuẩn bị cho cuộc sống ở cõi Niết bàn, đã làm cho con người xa lánh cuộc
đời, an phận thủ thường, thu mình trước mọi bất công, nảy sinh tâm trạng bi
quan, yếm thế trước cuộc sống. Đó là điều không phù hợp và là sự cản trở đối
với sự tiến bộ của nhân loại, đặc biệt trong điều kiện hiện nay. Con người ở thế
giới thực tại, nhất là trong xã hội hiện đại, càng phải có niềm tin, lý tưởng, biết
vươn lên vượt khó khăn, thử thách làm chủ cuộc sống của mình, cần thiết phải
có thái độ lạc quan yêu đời, tin vào bản thân mình.
Nghiên cứu ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của con
người Việt Nam hiện nay, chúng ta phải thấy được cả mặt tích cực cũng như mặt
tiêu cực. Mặt tích cực, góp phần hình thành nhân cách con người, làm cho họ có
cuộc sống lành mạnh, trong sạch, giản dị, có tấm lòng nhân ái, khoan dung, yêu
18
thương đồng loại, biết cảm thông, quan tâm đến nỗi khổ của người khác, cứu
người trong lúc gặp hoạn nạn v.v… mọi hành động ấy đều bắt đầu từ tâm, từ
tính tự giác. Những tư tưởng về đạo đức Phật giáo đã góp phần nâng cao và làm
phong phú hơn những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Chúng hoà quện
vào nhau, tạo nên sức mạnh chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở phát
huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức truyền thống nói chung và
của nhân sinh quan Phật giáo nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã phát động
phong trào tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm là rách nhiều
trong quần chúng nhân dân.
Thứ hai, ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến lối sống con người
Việt Nam.
C.Mác từng khẳng định: “không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy
đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá
nhân mà hơn thế nó đã là một hình thức hoạt động nhất định của sự biểu hiện
đời sống của họ, một phương thức sống nhất định của họ”. Từ đó để thấy lối
sống của con người được hình thành trong quá trình con người tham gia vào các

hoạt động, mà trước tiên là lao động sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội và các
hoạt động khác.v.v lối sống có nguồn gốc từ phương thức sản xuất.
Như vậy, phương thức sản xuất, quy định quá trình tái sản xuất ra con
người và đồng thời quyết định đời sống của họ. Lối sống bao gồm tất cả mọi
lĩnh vực hoạt động của con người, lối sống được biểu hiện trong quan hệ của
con người với tự nhiên, quan hệ giữa con người với con người trong lao động
sản xuất, chính trị, tư tưởng văn hoá và ứng xử giao tiếp hàng ngày. Lối sống là
cách thức sống của con người trong một chế độ xã hội nhất định được biểu hiện
trên các lĩnh vực của đời sống như lao động sản xuất, hoạt động chính trị, hoạt
động văn hoá tinh thần và hoạt động sinh hoạt hàng ngày.
Lối sống của con người Việt Nam có nhiều nét đặc thù. Về cơ bản, đời
sống tinh thần của con người Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều của tư tưởng
19
Tam giáo trong đó có vấn đề nhận thức luận, thế giới quan và đặc biệt là nhân
sinh quan của Phật giáo.
Việt Nam nằm ở vị trí giữa hai lục địa Ấn Độ và Trung Quốc, nên chịu
ảnh hưởng sâu sắc của hai nền văn hoá lâu đời vào bậc nhất thế giới, trong đó
phải kể đến ảnh hưởng của Phật giáo. Phật giáo và đặc biệt nhân sinh quan của
nó đã ảnh hưởng rất nhiều tới lối sống con người Việt Nam và biểu hiện của sự
ảnh hưởng ấy cũng vô cùng phong phú.
Đó là hệ thống chùa, tháp - một bộ phận cấu thành giá trị vật chất và tinh
thần của di sản văn hoá dân tộc. Chùa, tháp được thế kế xây dựng mang dáng vẻ
thanh thoát, trầm mặc, đậm nét riêng của phương Đông. Chùa là nơi thờ tự, là
nơi cụ thể hoá tư tưởng, tình cảm có từ lâu đời đã chi phối cách ăn ở, đối nhân
xử thế của quần chúng nhân dân, cũng như chi phối phong tục, tập quán, truyền
thống thói quen của con người Việt Nam. Chùa là nơi biểu hiện qua niệm từ - bi
- hỷ - xả… gợi cho con người sự hướng thiện, hướng về những điều thanh cao
trong cuộc sống.
Với mỗi người Việt Nam Đi chùa lễ Phật lâu nay đã trở thành nếp sống
quen thuộc không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân Việt Nam. Họ

đến chùa với lòng thành kính cầu mong sự an bình, hạnh phúc cho cá nhân và
người thân, kể cả cầu mong sự thanh thản cho người đã quá cố ở cõi vĩnh hằng
mà không nặng nề phần cúng lễ để xin sự phú quý, giầu sang.
Dấu ấn của nhân sinh quan Phật giáo còn là việc ăn chay, niệm Phật vào
các ngày mồng một, mười rằm…hàng tháng, trở thành nếp sống của một bộ
phận không nhỏ dân chúng, được nhiều người hưởng ứng, đã có tác dụng làm
nên chiều sâu trong tâm tưởng, tư duy của nhiều người dân Việt Nam. Trong lối
sống của người Việt, các phong tục tập quán, chịu ảnh hưởng khá rõ của nhân
sinh quan giáo lý Phật giáo.
Một nét đăch trưng trong nếp sống của con người Việt Nam là lối sống
nội tâm, hướng nội. Ngày nay, sau khi đã trải qua nhiều mất mát, hy sinh trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, người Việt Nam rất nhạy cảm
20
trước những niềm vui, nỗi buồn của mọi người, sẵn sàng chia sẻ, đồng cam cộng
khổ với những người xung quanh. Dân gian có câu “hàng xóm làng giềng những
khi tắt lửa tối đèn có nhau”, có ý muốn nói tới sự đùm bọc, quan tâm, chu đáo,
chia sẻ lẫn nhau khi gặp khó khăn. Đây là một nghĩa cử cao đẹp của con người
Việt Nam. Cái nghĩa ấy, ngoài yếu tố truyền thống, phải chăng nó có ảnh hưởng
từ giáo lý nhân sinh Phật giáo. Bởi vậy, trong việc giải quyết các mối quan hệ,
người Việt Nam đề cao và lấy cái tâm làm gốc, thiên về tình cảm.
Cho đến nay, đối với nhiều gia đình Việt Nam thì mười điều tâm niệm và
mười bốn điều răn của Phật được xem là những giá trị đạo đức và được họ treo
ở những nơi trang trọng nhất với ý muốn, luôn nhắc nhở những thành viên trong
gia đình, phải sống theo những điều Đức Phật đã dạy. Tại điều răn thứ sáu trong
mười bốn điều Phật dạy có ghi: “Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu”,
Phật dạy các đệ tử rằng, cùng tột các điều thiện không gì bằng hiếu, cùng tột các
điều ác không gì bằng bất hiếu.
Trong qua hệ cộng đồng, người Việt Nam lấy tâm làm gốc, đây là sự tự
tâm, là thứ tình cảm trong sáng. Trong mười điều tâm niệm Phật đã dạy và được
con người Việt Nam lĩnh hội: “thi ân đừng cầu đền đáp vì cầu đền đáp là thi ân

có mưu tính”. Tình cảm này được con người Việt Nam coi trọng, là sự thể hiện
của tấm lòng và đem bày tỏ với người, đặt tình cảm lên trên hết, đây vốn là
truyền thống trọng nghĩa của dân tộc ta.
Như vậy, nhân sinh quan Phật giáo ghi dấu ấn rõ nét trong từng nếp nghĩ,
thói quen, hành động của con người Việt Nam, trong cả phong tục tập quán của
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Chính sự ảnh hưởng, ghi dấu này đã góp phần tạo
nên những nét đẹp trong truyền thống dân tộc Việt Nam.
3. Một số yêu cầu trong xây dựng và phát triển đạo đức, lối sống con
người Việt Nam theo nhân sinh quan Phật giáo trong điều kiện mới.
Một thực tế hiện nay, điều kiện kinh tế xã hội đang có những thay đổi nhanh
chóng: sự phát triển kinh tế đang diễn ra một cách mau lẹ, sự phân hoá giầu nghèo
trong xã hội trở lên nhanh chóng, nền kinh tế thì trường định hướng xã hội chủ
21
nghĩa đang hàng ngày hàng giờ tác động vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự
du nhật của các nền văn hoa khác thông qua quá trình hội nhập quốc tế đã và đang
đặt ra cho chúng ta nhiều yêu cầu mới trong phát triển kinh tế xã hội nói chung,
trong xây dựng và phát triển đạo đức, lối sống của con người Việt Nam nói riêng.
Dưới ảnh hưởng của điều kiện mới, nhân sinh quan Phật giáo cũng biến đổi
theo xu hướng ngày càng thoáng hơn, thực dụng và thực tế hơn. Trước xu thế toàn
cầu hoá trên các lĩnh vực, Phật giáo Việt Nam từng bước hoà nhập vào các diễn
biến của thế giới và đất nước. Phật giáo biến đổi theo sự biến đổi của cơ sở kinh tế,
thích ứng với xã hội đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phật
giáo hướng con người đến cái thiện, diệt trừ cái ác, mang tính nhân văn, loại bỏ cái
lạc hậu, tiếp nhận và chọn lọc những yếu tố mới trong đời sống tôn giáo, phát huy
những yếu tố truyền thống lành mạnh, vì vậy đã hấp dẫn lôi kéo nhiều người trong
xã hội với tôn chỉ, mục đích cứu khổ cho con người.
Mặc dù vậy, trước những thay đổi mạnh mẽ của điều kiện kinh tế xã hội,
những năm qua, sự ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức, lối sống
của con người Việt Nam đang có những biểu hiện tiêu cực. Trong những năm gần
đây, hoạt động thờ, cúng, lập đàn cầu siêu … diễn biến khá phức tạp, gây tốn kếm

tiền của, thời gian trong nhân dân; số lượng người đến chùa ngày càng nhiều gồm
đủ mọi thành phần: Người già, người trẻ, trí thức, nhà buôn, công chức… với
những lý do và mục đích riêng. Song về cơ bản, chúng ta có thể nhận thấy, việc đi
chùa của những người này là nhằm mục đích cầu xin điều gì đó. Nhiều giá trị đạo đức
của dân tộc bị sói mòn, biến dạng làm ảnh hưởng xấu đến quá trình xây dựng xã hội
mới.
Nghị quyết trung ương 9 khóa XI đặt ra mục tiêu: xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn. Để thực hiện mục tiêu đó, việc phát huy tác động của nhân sinh quan Phật
giáo trong xây dựng đạo đức lối sống con người Việt Nam có ý nghĩa quan trọng.
22
Trong thời gian tới, việc xây dựng đạo đức, lối sống của con người Việt
Nam theo nhân sinh quan Phật giáo trước ảnh hưởng của điều kiện mới cần tập
trung thực hiện tốt một số yêu cầu chủ yếu sau:
Một là, nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực đạo đức,
lối sống con người Việt Nam. Có sự kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp,
những giá trị nhân văn sâu sắc của các học thuyết tư tưởng trong đó có nhân
sinh quan Phật giáo.
Hai là, huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy những
giá trị đạo đức truyền thống, khích lệ các giá trị mới, tiếp thu tinh hoa nhận loại
làm giàu giá trị đạo đức dân tộc.
Ba là, khuyến khích và nhân rộng lối sống tích cực, lối sống vì cộng đồng
góp phần xây dựng xã hội phồn vinh, gia đình hạnh phúc.
Bốn là, đấu tranh bài trừ những lối sống tiêu cực, phản văn hóa, những
hành vi trái đạo đức và những mặt tiêu cực trong nhân sinh quan Phật giáo, góp
phần xây dựng đạo đức, lối sống mới của con người Việt Nam góp phần phát
triển bền vững đất nước.
KẾT LUẬN
23
Trải qua hàng nghìn năm từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn có

mặt, gắn bó mật thiết, có ảnh hưởng cả mặt tích cực và mặt tiêu cực đến đời sống
tinh thần của người dân Việt Nam biểu hiện trên một số lĩnh vực như: Đạo đức, lối
sống, văn hoá… trong đó ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức và
lối sống có phần nổi trội hơn. Phật giáo được dân tộc Việt Nam tiếp nhận một cách
dễ dàng tự nhiên, vì tư tưởng Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với phong tục,
tập quán, truyền thống của dân tộc. Dưới ảnh hưởng của văn hóa dân tộc, Phật giáo
từ cái ngoại lai trở thành cái bản địa, từ xa lạ trở thành thân thuộc với mọi người.
Có thể nói, chính truyền thống sẵn có của dân tộc đã dễ dàng hoà quyện với giáo lý
Phật giáo, tạo nên một chủ nghĩa tích cực mang mầu sắc Việt Nam, một nhân tố
bền vững trong nhân sinh quan Việt Nam.
MỤC LỤC
24
1. C.Mác, Ăngghen, Lênin bàn về tôn giáo và chủ nghĩa vô thần, Nxb
CTQG, Hà Nội
2. C.Mác-Ăngghen (1980) tuyển tập, tập 1, Nxb sự thật, H.2001
3. Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội 2002
4. Giáo trình Triết học Mác – Lênin. Nxb CTQG, H.2003
5. Một số hiểu biết về Tôn giáo, tôn giáo ở Việt Nam, Nxb QĐND. H.1993
6. Nghị quyết số 33-NQ/TW, Hội nghị trung ương 9 khóa XI về xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước.
7. Lịch sử Triết học, Nxb CTQG, H.2004
8. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003
9. Lịch sử Triết học, Nxb QĐN, H. 2010
10. Tập Bài giảng Lịch sử Triết học, Học viện Chính trị 2010

×