Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

tiểu luận lịch sử văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 59 trang )

PHẦN I.SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KIẾN TRÚC VIỆT
NAM
Thế kỉ Triều đại Đặc điểm lịch sử Loại hình kiến trúc Công trình tiêu biểu
I-VI Thời kì Bắc Thuộc Thành quách, mộ táng,
Dinh lũy, nhà ở dân gian
Thành Luy Lâu
VI-IX Thời kì đấu tranh của nhân dân chống chế độ Bắc thuộc Kiến trúc Phật giáo_Chùa Chùa thấp Luy Lâu
X-XII Ngô
Đinh
Tiền Lê

XII-XIV Trần
Hồ
Thời kì nhà nước phong kiến tiếp tục cũng cố
nền độc lập tự chủ
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên-Minh
Thành quách
Cung điện
Chùa tháp
Thành nhà Hồ
Chùa và tháp Phổ Minh
Chùa Dâu
XV-XVII Hậu Lê Thời kì nhà nược phong kiến thịnh vượng và
từ thịnh vượng chuyển sang suy yếu
Thời kì nội chiến Trịnh Nguyễn
Cung điện
Lăng mộ
Chùa tháp
Đình
Chùa Bút Tháp


Tháp Báo Thiên
Đình Tây Đằng
Đình Hoàng Xá
Đình Thổ hà
XVII-XIX Tây Sơn Giai đoạn suy sụp của chế độ phong kiến
Cuộc kháng chiến chông quân Thanh và nội
chiến
Đình
Chùa tháp
Đình Đình Bảng
Chùa Tây Phương
Chùa Keo
Chùa Thiên Mụ
XIX-1945 Nguyễn Nhà nước phong kiến suy yếu
Pháp thuộc
Cung điện
Lăng tẩm
Kiến trúc Pháp
Hoàng Thành Phú Xuân
Lăng tẩm vua Nguyễn
1945-nay Hiện đại Khuynh hướng phục cổ, nhái cổ. Khuynh
hướng hiện đại. Khuynh hướng Hậu hiện đại
Kiến trúc hỗn hợp
1
2
1.Sự hình thành bản sắc trong kiến trúc truyền thống Việt Nam
Trước hết xin nói về bản sắc kiến trúc dân tộc: kiến trúc là một bộ phận của văn hóa. Bản sắc văn hóa
dân tộc theo định nghĩa của UNESCO: “ Tổng thể sống động các hoạt động sang tạo của con người đã
diễn ra trong quá khứ cũng như đang diển ra trong hiện tại. Qua hang thế kỷ, các hoạt động sáng tạo ấy
đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thị hiếu, thẩm mỹ và lối sáng mà dựa trên đó

từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” (1)PHẦN 1
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những kiến trúc truyền thống với những nét đặc trưng riêng của mình.
Nét đặc trưng đó được thể hiện trong bố cục không gian kiến trúc, trong việc sử dụng vật liệu đệ tạo nên
công trình kiến trúc với trình độ khoa học, tư duy thẩm mỹ; bằng công cụ và bàn tay khéo léo của mình.
Những nét đặc trưng đó toát lên từ tỷ lệ hình khối, kết cấu đến các thành phần chi tiết, các hoa văn trang
trí, mầu sắc nội ngoại thất công trình. Và chính từ những yếu tố đó, công trình trở thành tiêu biểu, dấu ấn
của thời đại, phản ánh các đặc thù về kinh tế, chính trị xã hội… của dân tộc theo từng giai đoạn phát
triển của lịch sử xã hội.
Sự hình thành bản sắc trong kiến trúc truyền thống Việt Nam
Cùng với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, mầm mống của sự tạo ra các không gian ở của con
người có thể nói cũng đã bắt đầu từ 4000 năm nay và lịch sử kiến trúc Việt Nam được tính từ thời kỳ
khởi dựng đất nước, thời kỳ Vua Hùng (trước 207 trước công nguyên) với nền văn hóa Văn Lang – Âu
Lạc, hay còn gọi là nền văn minh lúa nước, với trình độ kỹ thuật đúc đồng nổi tiếng – thời kỳ văn hóa
Đông Sơn.
Thời kỳ này, qua các di tích khảo cổ, đặc biệt là trên mặt trống đồng Ngọc Lũ còn ghi lại nét sinh hoạt
thời xưa và những kiểu loại nhà sàn. Đó là những kiến trúc truyền thống lâu đời, phù hợp với môi
trường thiên nhiên của đất nước, phù hợp với khí hậu vùng nhiệt đới nóng ẩm.
Tiếp theo là thời Bắc thuộc (từ 207 đến 906 trước công nguyên). Hàng nghìn năm dưới ách thống trị của
phong kiến Trung Hoa, với âm mưu đồng hóa và ấp đặt; song nền văn hóa dân tộc Việt Nam vẫn trường
tồn chắc chắn đã có sự đổi mới để phát triển. Những di sản kiến trúc trên mặt đất từ thế kỳ x trở về trước
đến nay không còn; chỉ còn lại một số di tích dưới long đất. Đó là những ngôi mộ thời Hán, các di tích
khảo cổ này nói lên kỹ thuật xây dựng cổ truyền Hán Việt trên đất việt nam thể hiện qua những viên
gạch nung có hoa văn xây trong mộ cổ, cũng như kỹ thuật xây mộ.
Dấu ấn rõ nét nhất của nền kiến trúc cổ Việt Nam còn để lại cho đến ngày nay phải kể từ đời Lý (XI –
XVI), Trần (XIII – XIV), Hồ (XV), Lê (XV – XVI), Tây Sơn (XVIII), Nguyễn (XIX). Trong đó, các di
sản kiến trúc tô giáo tính ngưỡng khởi dựng từ đời Lý, Trần đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn trùng tu
tôn tạo và hầu như không còn đúng với trạng thái ban đầu. Ngay các di tích thời Nguyễn gần đây nhất,
trải qua trên 100 năm với những biến động lịch sử, do chiến tranh, khí hậu nóng ẩm, do sự xuống cấp,
nhiều công trình và tổng thể công trình cũng trong trình trạng không còn nguyên vẹn, Song thể loại còn
lại cũng đa dạng phong phúhơn là ở các triều đại khác.

Trong gần 1000 năm độc lập phát triển, dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, kiến trúc truyền thống
Việt Nam có những đặc điểm sau:
3
- Đô thị: đã hình thành được một số các đô thị cổ. Trong đô thị cổ có thành cổ (nơi vua quan và binh
lính ở), khu thị dân, chợ và hệ thống các công trình tôn giáo tính ngưỡng. Đô thị được hình thành theo
thuật phong thủy; cụ thể dựa vào địa hình thiên nhiên và mối quan hệ thiên – địa – nhân. Các phố
phường trong đô thị được hình thành và sự quản lý phố phường không khác gì ở các làng xã. Ngăn giữa
các phố phường là các cổng ngõ – kiến trúc nhà ở buôn bán là các nhà hình ống. chủ yếu là 1 tầng và
một tầng có kèm gác lửng, hạ tầng kỹ thuật đô thị rất sơ lược. các khu phố cổ trong đô thị Việt Nam còn
đến nay là dấu ấn của các khu thị dân đô thị cổ.
- Kiến trúc công trình từ cung điện đến kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng, nhà ở truyền thống… đều có
chung một đặc điểm là cấu trúc theo gian trên cơ sở của một hệ khung kết cấu gỗ chịu lực. kích thước
không gian của nhà vừa đủ cho sử dụng và phù hợp với tỷ lệ kích thước hoạt động của người Việt Nam.
Sự khác nhau về kiến trúc truyền thống qua các triều đại là ở cấu trúc của các thể loại vì kèo, kẻ hiên, độ
cong của mái và kỹ thuật, nghệ thuật thể hiện các hoa văn trang trí trên các thành phần kiến trúc truyền
thống.
-Từ tổng thể đến công trình kiến trúc đều không có bản vẽ thiết kế trước khi xây dựng, phần lớn làm
theo kinh nghiệm truyền khẩu – dựa trên thước tầm.
- Công trình được xây dựng bằng vật liệu địa phương.
Từ những tổng thể công trình kiến trúc truyền thống Việt Nam; nhiều nhà nghiên cứu kiến trúc Việt
Nam đều thấy thống nhất những nhận định về bản sắc dân tộc sau:
- Việt Nam là một quốc gia nhiều dân tộc gồm 54 dân tộc, dân tộc Kinh là chủ đạo, chiếm 87,1%; kiến
trúc truyền thống của dân tộc Kinh là tiêu biểu cho cả nước và cho các đô thị Việt Nam, đặc biệt là các
đô thị vùng đồng bằng miền biển.
Bên cạnh kiến trúc truyền thống của dân tộc kinh, kiến trúc dân gian của các dân tộc khác ở Việt Nam
cũng là bản sắc riêng của từng địa phương. Tính bảo lưu của đặc trưng kiến trúc truyền thống có tính
bền vững hơn. Trong các kiến trúc truyền thống của các dân tộc có:
- Kiến trúc Chàm với các tháp Chàm – di tích của nền văn hóa Chăm – pa chịu ảnh hưởng của nền văn
hóa cổ trung đại Ấn Độ. Nghệ thuật kiến trúc tháp Chàmlà nghệ thuật của kiến trúc xây bằng gạch với
kỹ thuật và nghệ thuật đặc sắc tiêu biểu của miền Trung đất nước.

- Kiến trúc Khơ – me tiêu biểu của miền Đông Nam Bộ, kiến trúc đồng bào các dân tộc Tây nguyên tiêu
biểu cho khu vực miền Nam Trung Bộ.
- Kiến trúc Mường tiêu biểu cho vùng Hòa Bình, kiến trúc Thái vùng núi Tây Bắc Bắc Bộ và kiến trúc
đồng bào Tày Nùng tiêu biểu cjo vùng Đông Bắc…
Kiến trúc dân tộc Kinh tiêu biểu cho cả nước vời các bản sắc sau:
4
1. Kiến trúc có ý đồ bố cục, có tính biểu tượng, ẩn dụ, hàm súc, có hình tượng nghệ thuật, từ nội dụng
đến hình thái chứa đựng tính triết lý ( triết học phuơng Đông) nghệ thuật thâm trầm, tế nhị, kín đáo
nhưng sâu lắng và thâm thúy trí tuệ.
2. Kiến trúc xinh xắn, dàn trải, gắn bó, hài hòa với thiên nhiên, không gian và hình khối kiến trúc như
là một yếu tố hữu cơ của cảnh quan thiên nhiên. (Tháp chùa Phật tuy nhiều tầng nhưng cũng bé nhỏ,
điểm xuyết cho không gian).
3. Không gian sử dụng linh hoạt, đa năng, dể dàng biến đổi thích ứng cho các điều kiện sinh hoạt, hoạt
động trong không gian kiến trúc. Có sự kết hợp khéo léo 3 loại không gian: không gian kín, không gian
bán kín, bán hở, và không gian hở.
4. Tỷ lệ không gian rất gần gũi, gắn bó với hoạt động của con người. Tỷ lệ giửa các bộ phận công trình
hài hòa, thống nhất.
5. Kiến trúc sử dụng điêu khắc, chạm khắc màu sắc như một yếu tố phụ trợtích cực tăng tính nghệ
thuật cho ông trình, mặt khác là phương tiện diển đạt ý nghĩa biểu trưng, cái thần của công trình, như sử
dụng các hoa văn ( động vật quý, cây cối hoa lá…) đầy ý nghĩa tượng trưng
6. Tính hợp lý của kết cấu, tính đơn giản, thống nhất tính điển hình và tính tiêu chuẩn thấy rõ trong bộ
khung gỗchịu lực của công trình.
7. Về ngoại hình của kiến trúc truyền thống Việt nam đầu là loại có mái dốc thẳng – đấu dốc mái có
loại uốn cong với các trang trí trên dốc mái, trên góc mái phong phú – có loại hai đầu hồi thẳng mái che
cho than nhà – than nhà là hệ cột khung với hang hiên.
2.Đặc điểm kiến trúc Việt Nam thời cổ đại và trung cổ(từ thế kỷ 18 trở về trước)
Ở thời kỳ này, kiến trúc chủ đạo là nhà ở dân gian, chùa chiền, cung điện, thành quách , chiến lũy……
tuy được xây dựng công phu, hoành tráng nhưng những gì còn lại vào thời điểm này là rất ít và đang có
nguy cơ bị hủy hoại.
Đặc điểm của loại hình kiến trúc này là hết sức xa hoa, tráng lệ, tiêu tốn rất nhiều tiền của nhưng tồn tại

không vững chắc, thường xuyện bị phá hủy 1 cách hoàn toàn….
3.Đặc điểm kiến trúc Việt Nam thời cận đại (1858 – 1945) – bước đầu đổi mới bản sắc và hình
thành những truyền thống mới:
Ở thời kỳ này, song song với sự bành trướng của CNTB châu Âu sang vùng Đông Nam Á, kèm theo đó
là sự xâm nhập của kiến trúc phương Tây. Việt Nam cũng ở trong bối cảnh như vậy, cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX, kiến trúc Việt Nam đã có bước ngoặt lớn.
Các đô thị cổ được hình thành từ thời nhà Nguyễn và trước đó đã được cải tạo theo các kiểu đô thị
phương Tây. Các đường phố được nắn thẳng, tạo mạng lưới đường theo kiểu ô cờ, hạ tầng kỷ thuật
đường phố được hoàn thiện, đường phố rộng hơn trước, có hè dành cho người đi bộ, đường phố có cây
xanh, có đèn đường, cống rãnh thoát nước và cấp nước… Trên các đường phố là các thể loại công trình
5
kiến trúc: nhà ở, nhà hang, công sở và các công trình phục vụ công cộng đời sống, nhà máy… kiến trúc
phong phú về thể loại và hình thức mà trước đây chưa hề có.
Bên cạnh các kiến trúc cổ, tân cổ điển, kiến trúc địa phương Pháp được thực hiện mang tính áp đặt chủ
yếu chủ yếu do các viên toàn quyền và chủ đầu tư – Tư bản Pháp chỉ đạo, các kiến trúc truyền thống
Việt Nam vẫn tồn tại và đổi mới trên cơ sơ tiếp thu những tinh hoa của kiến trúc Tây Phương với kiến
trúc truyền thống Việt Nam. Sự đổi mới đó diển ra một cách từ từ.
Đối với công trình 1 tầng: sự đổi mới của kiến trúc truyền thống được bắt đầu từ hình thức bên ngoài
công trình. Cấu trúc bên trong nhà vẫn theo hệ thống gian với vì kèo gỗ cổ truyền; tường vây bên ngoài
xây bằng gạch với các hình thức sử dụng các hệ cột phương Tây; bên trên kết thúc bằng tường hoa chắn
mái. Trên đó sử dụng các trang trí kiểu Châu Âu. Cửa theo kiểu cửa panô; sau đó là cửa 2 lớp; kính,
chớp.
Sự xây dựng nhà 2,3 tầng đã đòi hỏi phải áp dụng các kết cấu cột, dầm, sàn bằng vật liệu bền vững hơn.
Cột gạch, dầm thép, sàn gạch rỗng, hoặc vỉa gạch trên hệ thống dầm gỗ lim hay thép (thay cho cột, dầm
sàn gỗ của kiến trúc truyền thống) – Hình thức bên ngoài hoàn toàn theo ngôn ngữ kiến trúc Phương Tây
song sử dụng các hoa văn trang trí dân tộc (chữ triện…) Sử dụng mái ngói Tây (gần 10 loại khác nhau
cho mái).
Việc sử dụng sắt, thép, xi măng, bê tông cốt thép với kỹ thuật tính toán khả năng chịu lực kết cấu nhà từ
phương Tây mang đến đã tạo điều kiện cho kiến trúc Việt Nam phát triển mạnh và có cơ sở khoa học.
Xu hướng kiến trúc với kết cấu, cấu tạo các bộ phận tạo điều kiện cho việc hình thành không gian khắc

phục được những bất lợi của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm đã được phát triển, tạo ra những bản sắc mới
trong kiến trúc ở Việt Nam vào những thập kỷ 30-40, đó là khuynh hướng “kiến trúc Đông Dương”. Nét
đặc biệt của các công trình này là việc sử dụng các hệ mái với con sơn đỡ mái để che nóc nhà, nhà có
tầng hầm để thong thoáng chống ẩm, sử dụng cửa 2 lớp: kính, chớp… phóng áp mái có trần nhà, không
gian dưới mái chỉ là để chống nóng có cửa thoát khí… Tất cả những khía cạnh nêu trên bắt nguồn từ các
nhà dân gian truyền thống cùng kết hợp với các kinh nghiệm chống nắng nóng trong kiến trúc của các
nước.
Tỷ lệ không gian kiến trúc công trình đáp ứng nhu cầu sử dụng tốt độ cao phòng vừa đủ đảm bảovề khối
tích không khí, đảm bảo thoáng mát, đảm bảo thẩm mỹ. Xử lý kiến trúc mặt đứng trên nguyên tắc của
phong cách kiến trúc Tân cổ điển Châu Âu. Song sự xuất hiện các yếu tố thông hơi thoáng gió ở trên,
dưới cửa sổ, cái mái hiên che, cùng các ban công, lô gia, sử dụng các hoa văn trang trí dân tộc… đó
chính là tạo ra những truyền thống mới, bản sắc mới.
4.Đặc điểm của kiến trúc Việt Nam thời hiện đại từ 1945 đến nay.
Trong giai đoạn này kiến trúc Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển của những truyền thống kiến trúc ở giai
đoạn trước, nhưng sự thể hiện ở 2 miền có khác nhau.
Ở phía Bắc, do chính sách tiết kiệm; tiêu chuẩn trong kiến trúc xây dựng có hạn hẹp đã phần nào ảnh
hướng đến khai thác đặc trưng và tìm tòi sáng tạo trong mọi lĩnh vực tạo ra những tiện nghi thuận lợi
nhất cho môi trường sống, làm việc.
6
Kiến trúc thực hiện theo phương châm “thích dụng, bền vững, kinh tế, mỹ quan trong điều kiện có thể”.
Song thích dụng ở đây cũng chỉ đạt tới mức tối thiểu và mỹ quan thực sự chưa được chú trọng – bệnh sơ
lược nghèo nàn trong hình thức và đơn điệu tổng thể là điều không thể tránh khỏi. Chủ nghĩa tập thể
được đề cao trong kiến trúc, không có khái niệm nhà ổ chuột trong những đô thị phía Bắc trước 1975.
Ở phía Nam – kiến trúc kế thừa phát huy được các giá trị sẳn có từ trước – hình thức kiến trúc nhanh
nhẹ, chú trọng trang trí nội ngoại thất, các biện pháp chắn nắng, thông thoáng – kiến trúc theo phong
cách hiện đại chung chung là đặc trưng; chủ nghĩa cá nhân, tính muôn hình muôn vẻ được thể hiện trong
kiến trúc – sự tương phản về kiến trúc trong đô thị thấy rõ rệt: Đó là những khu nhà ổ chuột của dân
nghèo, dân di cư, dọc các kênh, mương, với các nhà lầu, dinh thự của các tầng lớp giầu có trong đô thị
(trước 1975).5.
5.Đặc điểm kiến trúc Việt Nam từ 1980 đến nay – Bước đầu của sự hòa nhập quốc tế:

Đây là thời kỳ của nền kinh tế thị trường, thời kỳ mở cửa kêu gọi đầu tư nước ngoài. TRong thời kỳ này
kinh tế ở một số đô thị lớn được phát triển, nhà ở do dân tự xây dựng rất đa dạng, công trình do nước
ngoài đầu tư với vi mô to lớn và đa phong cách.
Kiến trúc có nhiều khuynh hướng khác nhau:
- Khuynh hướng phục cổ, nhái cổ… sử dụng các thức cột cổ điển Châu Âu, hoa văn trang trí, ban công
bụng chửa…(trong kiến trúc nhà dân tự xây).
- Khuynh hướng hiện đại: Tìm cái đẹp trong tạo khối hình và sử dụng sự tương phản hình, khối; đặc
rỗng; sử dụng các mảng tường kính (kính phản quang, kính màu…) với cửa nhôm. Sử dụng hệ thống
điều hòa nhân tạo. Các cửa chớp, cửa gỗ pa nô, hệ thống tắm chắn nắng thịnh hành ở các giai đoạn trước
nay thấy vắng mặt trong các công trình hiện đại.
- Khuynh hướng Hậu hiện đại tiếp tục của khuynh hướng hiện đại; song nặng về giải quyết hình khối,
tổng thể; sử dụng một số mô típ điển hình của kiến trúc truyền thống cũ, tạo mối liên hệ với truyền
thống, với lịch sử. Tạo mối liên hệ không gian trong, ngoài.
- Quy mô nổi trội của các công trình kiến trúc do đầu tư nước ngoài vào các thể loại khách sạn, văn
phòng, ngân hang, siêu thị trong tổng thể kiến trúc đô thị hiện có, tạo ra những sắc thái mới trong kiến
trúc đô thị.
- Kiến trúc ở đô thị Việt Nam trong hơn thập kỷ qua thể hiện rất rõ tính tính hòa đồng hội nhập quốc tế -
thể hiện sự đa dạng hóa và vai trò cá nhân trong sáng taô nghệ thuật kiến trúc đã được khích lệ.
Trong số các công trình lớn đã được xây dựng; đặc biệt các công trình đầu tư nước ngoài đã có sự phối
hợp giữa KTS Việt Nam với KTS các nước – Có sự chỉ đạo chuyên môn của của Hội đồng kiến trúc
thành phố và của văn phòng KTS Trưởng thành phố (đối với Hà Nội và PT. Hồ Chí Minh). Các công
trình đã chú ý để hòa nhập với cảnh quan khu vực, mỗi công trình đều có sắc thái riêng, góp phần làm
phong phú cho ngôn ngữ kiến trúc trong đô thị Việt Nam. Đó Là những yếu tố mới, do vậy không khỏi
gây nhiều ý kiến tranh luận về quy mô, độ cao, hình thức, về sự hòa nhập cảnh quan, về bản sắc kiến
trúc.
Rất rõ ràng những bản sắc truyền thống kiến trúc Việt Nam đang đổi mới – sự đổi mới cần được cổ vũ.
Song cũng cần được bình luận để tiếp thu phát triển những mặt tích cực, hạn chế những vấn đề chưa phù
hợp, để tạo ra những truyền thống mới cho giai đoạn hiện nay của kiến trúc hiện đại Việt Nam trong
thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hòa nhập quốc tế mà vẫn phát huy được bản sắc dân tộc.
7

PHẦN 2: CÁC KHÁI NIỆM
Kiến trúc dưới con mắt của những người hâm mộ đang nôn nóng tìm hiểu, khám phá chắc hẳn lấp lánh
như một hình ảnh tươi đẹp đầy hấp dẫn, mới lạ. Ở trước mọi ngưỡng cửa, bao giờ người ta cũng thường
ngỡ ngàng với những điều hãy còn mới lạ. Sự lạ lẫm buổi đầu luôn có một sự hấp dẫn đặc biệt và
thường để lại trong ta những ấn tượng khó phai. Kiến trúc thật sự vẫn còn là một đại dương mênh mông
bao la và sâu thẳm.
Một số định nghĩa về Kiến trúc, kiến trúc cổ
I.KIẾN TRÚC
• là một lĩnh vực hoạt động sáng tạo đặc biệt và khá phức tạp của con người, nó bao hàm nhiều
khái niệm : Nghệ thuật, kỹ thuật, xã hội, kinh tế và luôn vận động theo sự biến đổi của thời
đại.Nó là nghệ thuật mang tính tổng hợp, phức tạp. Nó sử dụng những phạm trù không chỉ của
loại hình nghệ thuật anh em mà cả những phạm trù của khoa học, kỹ thuật và kinh tế, nhằm phục
vụ đối tượng con người với cuộc sống đa dạng của họ trong toàn xã hội.
• là Nghệ thuật tổ chức môi trường sống, là thế giới vật chất bao quanh con người, là không gian
có tổ chức đạo diễn quá trình sống, là nghệ thuật làm biến đổi môi trường tự nhiên thành môi
trường lý tưởng cho con người, bẵng cách sử dụng các công trình xây dựng, công trình kiến trúc
sao cho hài hòa với cảnh quanh thiên nhiên và đáp ứng một cách tốt nhất những nhu cầu vật chất
và tinh thần ngày càng cao của con người.
II.KIẾN TRÚC CỔ
Cũng xuất phát từ định nghĩa về kiến trúc như(Nghệ thuật, kỹ thuật, xã hội, kinh tế, tổ chức môi trường
sống…) nhưng kiến trúc cổ còn là những thứ mà từ xưa ông cha ta đã thiết kế, xây dựng từ ngàn xưa,
nó chứa đựng tinh hoa quý giá về kỹ thuật, con người, văn hóa, nó minh chứng cho khát vọng sáng tạo,
sống, hy sinh chiến đấu cho 1 thời kỳ lịch sử oai hung của dân tộc Việt Nam.
Quá trình phát triển nền kiến trúc cổ Việt Nam gắn liền với môi trường thiên nhiên và hoàn cảnh kinh tế
- xã hội. Những công trình kiến trúc cổ hầu hết được xây dựng trong thời kỳ phong kiến - chủ yếu là
trước thế kỷ 19. Dù là công trình nhỏ bé như kiến trúc dân gian hoặc đồ sộ, phức tạp như kiến trúc cung
đình, vật liệu xây dựng sẵn có ở địa phương đã được khai thác và sử dụng phổ biến và rộng
khắp: tranh, tre, nứa, lá, gỗ, đá , sau này còn có các vật liệu khác như gạch, ngói, sành, sứ Hệ thống
kết cấu khung cột, vì kèo và các loại xà đều có quy định thống nhất về kích thước, tương quan về tỷ lệ
và qua đó, những nghệ nhân trước đây đã sáng tạo ra một thức kiến trúc riêng biệt trong kiến trúc cổ và

dân gian Việt Nam.
Trải qua nhiều triều đại, nhiều thế kỷ với bao thăng trầm lịch sử, đến ngày nay các công trình đã trải qua
nhiều lần trùng tu sửa chữa để tồn tại, một số còn giữ được cốt cách nguyên sơ song cũng có nhiều công
trình bị pha tạp do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Tuy nhiên, những công trình này vẫn là dấu
tích cụ thể ghi lại chặng đường sáng tạo và lao động nghệ thuật, mang dấu ấn lịch sử dân tộc rất rõ nét.
8
III. CÁC LOẠI HÌNH KIẾN TRÚC CỔ TIÊU BIỂU:
1. Kiến trúc quân sự - quốc phòng:
+ Thành Cổ Loa : Bố cục thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) có 3 vòng rõ rệt: vòng ngoài, vòng trong
và vòng giữa đều được đắp bằng đất. Người ta thông thường đào đất ngay tại chỗ đắp tường thành, phần
đất bị đào đi tạo nên hào chạy xung quanh thành và hào cũng là bộ phận có tác dụng phòng ngự của
thành. Thành Cổ Loa có hình dáng khá đặc biệt giống hình xoáy vỏ ốc. Toàn bộ xung quanh các vòng
thành Cổ Loa đều có đào hào, trừ phía Tây Nam và Đông Nam là sông hoặc đầm lầy tự nhiên, còn toàn
bộ là hào nhân tạo rộng từ 20-50 m.
+Thành Nhà Hồ: Bình đồ của tòa thành gần như vuông, diện tích rộng 77 ha, đông tây khoảng 880 m,
bắc nam hơn 870 m. Thành tường đắp bằng đất, bọc đá xanh bên ngoài. Kiên cố nhất là bốn cổng lớn trổ
ra bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Cổng nam, tức cổng chính có ba lối đi xây cuốn tò vò, cao gần 10m.
Đây là công trình kiến trúc bằng đá quy mô rất lớn xây từ thời nhà Trần, và được coi là tòa thành cổ lớn
nhất Đông nam Á nên đã được đề cử là Di sản Văn hóa Thế giới ngày 29 tháng 9, 2009với Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO).
+ Thành Thăng Long thời nhà Lý gồm nhiều vòng thành. Vòng ngoài cùng là La thành, vừa là nơi
phòng ngự, vừa là nơi ngăn lụt, có độ dài khoảng 30 km. Trong khu vực này là Kinh thành bao gồm
nhiều phường phố, chợ búa nơi ăn ở buôn bán sản xuất thủ công nghiệp của nhân dân và quan lại.
Hoàng thành được xây bằng gạch, là nơi đóng các cơ quan đầu não của nhà nước và triều đình phong
kiến, bên trong có Cấm thành là nơi dành cho vua và gia đình ở, sinh hoạt.
2. Kiến trúc cung điện - dinh thự
+Thành Huế: Vòng thành ngoài là Kinh thành, xây kiểu Vauban, dạng gần hình vuông, mỗi cạnh 2235
m, chu vi gần 9000 m. Tường thành xây ốp bằng gạch hộp dày khoảng trên 2 m và cao khoảng 6,50 m.
Vòng thành giữa gọi là Hoàng cung hay Đại nội hình chữ nhật. Vòng thành trong cùng là Tử Cấm thành.
Tường xây cao 3,1 m, dày 0,72 m và có 7 cửa.

Trải qua gần 100 năm với bao biến động lịch sử, khí hậu khắc nghiệt và thời gian tàn phá, một số lớn -
trên 80% - cung điện dinh thự Hoàng cung nhà Nguyễn đã bị hủy hoại. Đây là một con số không nhỏ,
ảnh hưởng sâu sắc đến quy mô di sản kiến trúc cổ của Việt Nam ngày nay
Kiến trúc cung điện - dinh thự là kiến trúc tiêu biểu và điển hình của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Loại hình kiến trúc này huy động tập trung được cao độ vật tư và tài lực của cả nước hoặc một địa
phương, thể hiện sự giàu có và quyền lực trong từng giai đoạn của từng hoàng đế trị vì. Có thể nói đây là
loại hình kiến trúc phong kiến quy mô nhất trong các loại hình kiến trúc thời phong kiến, mà di sản còn
được gìn giữ lại cho đến ngày nay
3. Kiến trúc tôn giáo - tín ngưỡng :
+Chùa: tiêu biểu là Chùa trăm gian: Chùa được lập từ đời Lý Cao Tông nhà Lý, niên hiệu Trinh Phù thứ
10, 1185. Đến thời nhà Trần, có hòa thượng Bình An, quê ở Bối Khê tu ở đây, tương truyền là người có
nhiều phép lạ. ( nay ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội)
9
Chùa Trăm Gian là một quần thể kiến trúc độc đáo. Theo cách tính cứ 4 góc cột là một "gian" thì chùa
có cả thảy 104 gian, chia thành 3 cụm kiến trúc chính:
-Cụm thứ nhất gồm 4 cột trụ và 2 quán, trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày hội, tiếp đó là
nhà Giá Ngự nhìn ra mặt hồ sen, nơi đặt kiệu thánh để xem trò múa rối nước.
-cụm thứ hai gồm một toà gác chuông 2 tầng mái, có lan can chạy quây 4 mặt. Các ván bằng đều có
chạm hình mây hoa. Tại đây treo một quả chuông cao 1,10 m, đường kính 0,6 m, đúc năm Cảnh
Thịnh thứ hai, 1794. Trên chuông có khắc một bài minh của Phạm Huy Ích. Qua gác chuông, leo 25 bậc
đá xanh hình rồng mây, đến sân trên có kê một sập đá hình chữ nhật.
- cụm thứ 3 đó là chùa chính, gồm nhà bái đường, toà thiêu hương và thượng điện. Hai bên là 2
dãy hành lang. Trong cùng là nhà tổ, giữ lại có lầu trống bên trong treo một cỗ trống lớn, đường kính 1
m và một tấm khánh đồng dài 1,20 m, cao 0,60 m đúc năm 1749, Cảnh Hưng thứ 10 . Ở giữa thượng
điện có một bệ bằng đất nung đỏ hình khối chữ nhật, giống kiểu các bệ đá thời nhà Trần. Trên bệ đá là
đài sen, xung quanh trang trí nhiều hình động vật và hoa lá, bón góc có hình chim thần. Trên bệ đặt các
tượng Phật tam thế. Trong chùa còn có nhiều bia, hoành phi, câu đối Riêng có hai câu đối khảm trai,
tương truyền có từ thời nhà Hồ (1400-1406).
Điều đáng buồn là: Chùa Trăm gian đã nhiền lần được trùng tu, tôn tạo theo những cách thức phá hỏng
di tích như sơn lại tranh tượng quý bằng sơn công nghiệp; làm mới bệ tượng, bàn thờ bằng ximăng, gạch

ốp lát công nghiệp xanh đỏ tím vàng; xây mới các dãy hành lang đánh bóng cột kèo bằng vécni. Đặc biệt
nghiêm trọng là đợt trùng tu hơn 100 ngày giữa năm 2012 khi nhà Tổ, gác khánh có tuổi đời nhiều trăm
năm của chùa đã bị đập bỏ không thương tiếc để xây dựng thành di tích một ngày tuổi. Sự kiện xảy ra
nhiều ngày, thậm chí thông tin về quyên góp dựng chùa còn được phát thanh trên hệ thống loa xã, nhưng
cơ quan chức năng từ thôn, xã, huyện, thành phố, trung ương không ai hay biết
[1]
.
+Văn Miếu:
Văn Miếu, Tự miếu, Văn chỉ là những công trình kiến trúc Nho giáo thời Khổng Tử.
Quần thể Văn miếu - Quốc tử Giám Hà Nội được xây dựng theo trục Bắc Nam. Phía trước Văn Miếu có
một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương. Ngoài cổng chính có một dãy 4 cột trụ, hai bên tả hữu có bia.Cổng
Văn miếu xây kiểu Tam Quan trên có 3 chữ lớn Văn miếu môn viết bằng chữ Hán.
+Lăng mộ
Tiêu biểu như Lăng vua Minh Mạng, Tự Đức….Kiến trúc lăng mộ là các công trình lăng tẩm và mộ táng
cổ xưa. Một số dân tộc còn có nhà mồ. Có hai loại mộ táng:
 Mộ của những người thế tục
 Mộ của những người tu hành.
Vật liệu xây dựng mộ thường là những viên gạch có độ nung già. Gạch hộp kích thước 40x30cm và
gạch múi bưởi (gạch lưỡi búa) để xây cuốn, có trang trí nổi hình quả trám đời nhà Hán, hình chữ S hoặc
con giống, hoa lá.
10
+ Đình làng
Đình Bảng Môn, Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Đình làng nguyên là nơi thờ thành
hoàng theo phong tục tín ngưỡng trong xã hội Việt Nam cổ đại. Ngoài ra đình làng còn là trung tâm
hành chính, quản trị phục vụ cho mọi hoạt động thuộc về cộng đồng làng xã.
Phía trước đình làng thường có sân rộng, hồ nước cây xanh tạo cảnh quan. Kiến trúc đình làng có thể chỉ
5-7 gian, hoặc có thể có tới 7 gian hai chái. thường phổ biến loại bốn mái, có khi cũng phát triển thêm
loại tám mái (kiểu chồng diêm) do những ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa về sau này. Mặt bằng đình
có thể là kiểu chữ Nhất (一 )(kiểu này thường thấy ở các đình cổ, thế kỷ XVI); hoặc quy mô, phức tạp
hơn với những bố cục mặt bằng có tên gọi theo dạng chữ Nho: chữ Đinh (丁), chữ Nhị (二), chữ Công

(工), chữ Môn (門). không gian chủ yếu vẫn là tòa đại đình (đại bái),
Đại đình bao giờ cũng là tòa nhà lớn nhất trong quần thể, bề thế, trang trọng. Đại đình ở các đình cổ
thường có sàn lát ván, cao từ 60 đến 80cm, chia làm ba cốt cao độ, là sự phân chia thứ bậc cho những
người ngồi ở Đại đình.
Đình làng không những có giá trị về mặt kiến trúc cao, là kiến túc thuần Việt nhất của dân tộc, mà còn là
kho tàng hết sức giá trị về mặt điêu khắc dân gian. Đây là thế giới cho nền nghệ thuật điêu khắc dân gian
phát triển mạnh mẽ. Trên các vì kèo, tất cả các đầu bẩy, đầu dư, đố, xà kẻ, ván gió, ván nong (dong) là
nơi các nghệ sĩ điêu khắc dân gian chạm khắc các đề tài tái hiện cuộc sống và lao động của con người,
cảnh sắc thiên nhiên giàu tính dân gian và phong phú, sinh động. Chính vì vậy, các điêu khắc đình làng
còn có giá trị to lớn trong việc nghiên cứu về cuộc sống vật chất, tinh thần của người Việt Nam trước
đây. Nó có giá trị lịch sử sâu sắc.
4. Kiến trúc dân gian
+ Nhà ở dân gian: Nhà ở dân gian đã trải qua một quá trình chuyển biến từ nhà sàn đến nhà nền đất.
Nhà nền đất vùng xuôi có kết cấu khung tre hay gỗ, thường làm vách và lợp bằng tranh, rạ hay lá dừa
nước; nếu là kết cấu khung gỗ loại tốt lại thường được lợp bằng ngói, tường bao quanh bằng gạch với vì
kèo gỗ. Khuôn viên nhà bao gồm: nhà chính, nhà phụ (nhà ngang, nhà bếp) và chuồng gia súc cùng sân,
vườn, ao, giếng hoặc bể nước và hàng rào, tường vây quanh, cổng ngõ. Nhà chính thường có số gian lẻ
(1, 3 hay 5) cùng với 1 hoặc 2 chái. Nhà chính thường quay về hướng nam, hướng này có thể đón ánh
nắng khi trời lạnh, đón được gió mát để giải nồng. Phía trước thường trồng cây có tán cao đề làm cảnh,
đón gió tốt. Phía sau, trồng cây bụi để ngăn gió lạnh.
+Cổng làng: Làng xóm Việt Nam được bao bọc bới lũy tre và cổng làng chính là cửa ngõ của làng xóm.
Vật liệu xây dựng của cổng làng thường là gạch, gỗ, ngói, đá ong, Những cổng làng có quy mô thường
có cửa đóng then cài và bảo vệ nghiêm ngặt, kết hợp với lũy tre làm thành pháo đài kiên cố chống lại
giặc giã, cướp bóc hay ngoại xâm
5. Kiến trúc vườn cảnh
Vườn cảnh là nghệ thuật tạo hình mô phỏng thiên nhiên trong một không gian giới hạn, làm nền tạo
cảnh tôn cao giá trị công trình chính hoặc quần thể công trình. Vườn cảnh của Việt Nam chịu ảnh hưởng
của vườn cảnh Á Đông, có nhiều nét tương tự vườn cảnh Trung Quốc và Nhật Bản, thường gồm 3 thành
phần: mặt nước, cây xanh và đá núi nhỏ.
Vườn cảnh Việt Nam không nổi tiếng như vườn Nhật, vườn Trung Hoa do không có những nét đặc

trưng rõ ràng và khuôn mẫu cụ thể cũng như độ phổ biến rộng rãi ra ngoài khu vực. Các vườn cảnh ở
11
Việt Nam, nhất là những khu vườn lớn, cổ thường mang những nét tương đồng với vườn Trung Hoa
như hòn non bộ, thủy đình, các lầu hóng gió, ngắm trăng, các hồ nước được trồng viền liễu rủ
Vườn Việt Nam thường là sự thể hiện lại nét tự nhiên của thiên nhiên mộc mạc, ở Việt Nam vườn cảnh
thường được Việt hóa để tạo nên nét riêng và phù hợp với điều kiện thời tiết, đất đai và văn hóa, lịch sử
(Việt Nam là nước vùng nhiệt đới) từ đó khiến vườn Việt Nam có những đặc điểm riêng; ví dụ ở vườn
Việt Nam, những yếu tố như nét dân dã và mộc mạc và bản sắc dân tộc luôn được đề cao, coi trọng và
thể hiện
[cần dẫn nguồn]
. Đó là những nét rất gần gũi với cuộc sống thường nhật ở thôn quê Việt Nam như: cây
đa bến nước, cây khế bờ ao, lũy tre, hàng rào chè tàu hay dâm bụt, cây cau vương vít bụi trầu, giếng
khơi, lu nước với chiếc gáo dừa được tra chiếc cán tre xinh xắn Đặc biệt, trong vườn cảnh Việt Nam ở
mỗi miền lại thường có những ngôi nhà mang đậm nét đặc trưng như: nhà ba gian, hai chái ở những
vườn cảnh ở Bắc bộ; nhà rường trong những nhà vườn Huế; hoặc được làm đẹp bằng những kiểu nhà
sàn của dân tộc thiểu số vùng cao. Ở Nam bộ trong vườn thường có thêm những cây cầu khỉ bằng tre vắt
vẻo qua các mương nước như thách thức du khách đến chơi vườn
Chính vì những nét riêng này mà ở Việt Nam có nhà vườn Huế rất đặc biệt, được nhiều người biết đến,
công nhận về tính đặc hữu
Tiêu biểu như khu nhà vườn Huế, các vườn cảnh cổ ở các lăng mộ vua chúa(Minh Mạng, Tự Đức…)
12
PHẦN 3: CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC CỔ VIỆT NAM
Do ngôi nhà chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của người việt Nam cho nên, trong
tiếng Việt nhà (chỗ ở) được đồng nhất với gia đình (gồm mọi người sống trong nhà), với vợ chồng (chủ
nhân của ngôi nhà thành viên chính của gia đình), được mở rộng nghĩa ra để chỉ một cơ quan (nhà máy),
nhà bảo tàng, nhà văn hóa), chỉ quốc gia ( nhà nước) và những người có chuyên môn cao sống trong
quốc gia (nhà văn, nhà chính trị, nhà khoa học ).
*Ngôi nhà của người Việt Nam có những đặc điểm gì ?
1.Điều kiện tự nhiên:
Trước hết do đặc điểm khu vực cư trú của người Việt Nam là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của

người Việt Nam gắn liền với môi trường sông nước.
Những người sống bằng nghề sông nước (chài lưới, chở đò, ) thường lấy ngay thuyền, bè làm nhà ở :
đó là các nhà thuyền, nhà bè; nhiều gia đình quần tụ lập nên các xóm chài, làng chài. Đây là lời của JB
Tavernier viết năm 1909 : "Họ (người Việt Nam) rất thích ở nước, thích ở trên nước hơn là trên cạn.
Cho nên phần nhiều sông ngòi thì đầy thuyền. Những thuyền đó thay cho nhà cửa của họ. Thuyền rất
sạch sẽ ngay cả khi họ nuôi gia súc ở trong đó"
2.Nhà sàn-Nền tảng kiến trúc cổ:
Nhiều người tuy không sinh kế trực tiếp bằng nghề sông nước nhưng cũng thích làm nhà sàn
trên mặt nước để đối phó với ngập lụt quanh năm. Dưới con mất của Finlayson, một nhà ngoại giao
người Anh thì Sài Gòn đầu tk. XIX có "nhiều nhà cao cẳng, sàn bằng ván, xếp hàng dọc theo bờ kênh,
bờ sông hay dọc theo đường cái rộng thoáng đãng. Phố xá ngang hàng thẳng lối hơn ở nhiều kinh thành
châu Âu". Nhà sàn chính là kiểu nhà rất phổ biến ở Việt Nam từ thời Đông Sơn, nó thích hợp cho cả
miền sông nước lẫn miền núi. Nó không chỉ có tác dụng đối phó với (a) môi trường sông nước ngập lụt
quanh năm mà còn có tác dụng đối phó với (b) thời tiết mưa nhiều gây lũ rừng ở miền núi và ngập lụt
định kỳ ở vùng thấp, (c) khí hậu nhiệt đới có độ ẩm cao, và (d) hạn chế và ngăn cản côn trùng, thú dữ
(ruồi muỗi, sâu bọ, rắn rết, cá sấu, hổ báo ) Ngày nay, nhà ở những vùng hay ngập nước (như đồng
bằng sông Cửu Long) và các nhà kho (nơi phải đối phó với độ ẩm) vẫn duy trì kiến trúc nhà sàn. Vào tk.
XVII, nhiều ngôi đình như đình Đình Bảng (Hà Bắc), đình Chu Quyến (Hà Tây), v.v. vẫn làm theo lối
nhà sàn.
3.Đặc điểm của kiến trúc cổ:
+Kỉ niệm về cuộc sống gắn bó với thiên nhiên sông nước mạnh đến mức những ngôi nhà
của người Việt Nam đã được làm với chiếc mái cong mô phỏng theo hình thuyền. Người ta quen cho
rằng đặc điểm này là vay mượn của kiến trúc Trung Hoa trong khi thực ra là ngược lại. Nhà sàn Việt
Nam từ thời Đông Sơn (chưa hề giao lưu với Trung Hoa) đã có mái cong rồi. Các dấu tích còn lưu lại
qua hình khắc trên trống đồng và trong lòng đất cho thấy rõ điều này. Nhà rông Tây Nguyên đến giờ vẫn
làm theo kiểu mái cong tuy rằng cũng không hề có giao lưu với Trung Hoa. Tháp Chàm cũng có loại
13
mái cong trong khi đó, nhà Trung Hoa thời Hán mái vẫn thằng đến cuối đời Đường, lối làm nhà mái
cong mới thâm nhập dần từ Nam lên Bắc. Thậm chí Cố Cung ở Bắc Kinh được xây dựng vào thời Minh
mà mái mới chỉ hơi cong nhẹ.

+Chiếc mái cong bắt nguồn từ phương Nam, ngoài ý nghĩa là hình ảnh của con thuyền,
không có tác dụng thực tế gì. Chính vì vậy mà vào thời Đông Sơn, khi mà một chiếc cán dao, một chiếc
môi (vá) múc canh cũng có thể được trang trí một cách cầu kì, thì nhà nhà đều làm mái cong; còn về sau
này thì mái nhà bình dân thường làm duỗi thẳng cho giản tiện. Chỉ còn những công trình kiến trúc lớn
(như đình chùa, miếu mạo, dinh thự, cung điện) mới được làm mái cong cầu kì. Ngoài ra các đầu dao ở
bốn góc nhà, đặc biệt là đình chùa cung điện, cũng được làm cong vút lên tạo nên một dáng vẻ thanh
thoát đặc biệt cho ngôi nhà vốn được trải rộng trên mặt bằng để hòa mình vào thiên nhiên
+Đặc điểm của kiến trúc Việt Nam đúc kết là “nhà cao cửa rộng”. Đó cũng là tiêu chuẩn
ngôi nhà Việt Nam Về mặt cấu trúc; nó khác hẳn ngôi nhà ở phương Tây xứ lạnh phải làm nhỏ, trần
thấp, tường dầy, cửa ít và nhỏ để giữ hơi ấm.
Cái cao của ngôi nhà Việt Nam bao gồm hai yêu cầu : nơi con người đặt chân cao so với mặt đất, và mái
cao so với nơi con người đặt chân. Nhà đáp ứng yêu cầu "cao" thứ nhất (nơi con người đặt chân cao so
với mặt đất) và có tác dụng đối phó với lụt lội, ẩm ướt, côn trùng Ngày nay, nhà Việt Nam phần nhiều
đã chuyển sang dạng nhà đất. Nhưng nhà đất lý tưởng vẫn là nhà phải có nền cao: nhà những người có
của. nhà địa chủ, dinh thự quan lại đều làm nền cao; nhiều nơi hay ngập lụt, nền nhà cứ phải nâng cao
dần. Còn yêu cầu "cao" thứ hai - mái cao so với nơi con người đặt chân (sàn hoặc nền) - là nhằm tạo ra
một khoảng không gian rộng, thoáng mát trong nhà để đối phó với nắng nóng. Mái cao còn tạo ra một
độ dốc lớn để đối phó với lượng mưa nhiều, khiến cho nước thoát nhanh, tránh dột, tránh hư mục mái.
Tuy nhiên cái cao của mái nói đến ở đây không phải là cao tùy ý mà là cao vừa phải (tỉ lệ hợp lí giữa
chiều ngang và chiều đứng đảm bảo độ dốc cần thiết là nằm ba ngồi hai). Ở vùng ven biển mái nhà lại
phải làm thấp để tránh bão (do nhiều gió nên thấp ở đây cũng đủ mát rồi).
+Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam và Đông Nam : lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam.
Câu tục ngữ tưởng chừng vô lí đó thực ra rất dễ hiểu : Đối với người Việt Nam đã làm nhà thì phải là
nhà hướng Nam - điều đó cũng hiển nhiên như việc lấy vợ phải là đàn bà vậy! Sở dĩ như thế là vì Việt
Nam ở gần biển, trong khu vực gió mùa. Trong bốn hướng thì duy nhất chỉ có hướng Nam (hoặc đông
Nam) là hướng tối ưu: Buổi sáng và buổi chiều không bị nắng chiều xiên khoai; và tránh được cái nóng
từ phương Tây, cái bão từ phương Đông, và gió lạnh từ phương Bắc (gió bấc) thổi về vào mùa rét, lại
vừa tận dụng được gió mát từ phương Nam (gió nồm) thổi đến vào mùa nóng. Muốn mát thì không gì
cho bằng gió tự nhiên, gió Nam; tục ngữ có câu: Một trăm người hầu không bằng ở đầu ngọn gió và Gió
Nam chưa nằm đã ngáy. Quan sát thực địa cho thấy rằng, từ thời nguyên thủy, người xưa đã biết tận

dụng hướng Nam này để chống nóng và chống rét : phần lớn hang động Hòa Bình có người ở đều quay
về hướng Nam hoặc Đông Nam. Không một hang có người ở nào lại có cửa quay về hướng bắc. Các tòa
thành có nhiều cửa mở ra bốn phía thì cửa chính bao giờ cũng là cửa phía Nam (Ngọ Môn của kinh
thành Huế có nghĩa là cửa phía Nam, "ngọ" là phương Nam theo trục tư ngọ trên la bàn của thầy địa lý).
14
• Nhà nhìn về hướng Nam cho nên cây đòn nóc nằm theo hướng đông-tây. Theo truyền thống văn
hóa nông nghiệp trọng bên trái, người ta quy ước đặt gốc cây đòn nóc ở phía Đông (phía Đông
bên trái ) cho nên đòn nóc còn có tên gọi là đòn đông, nhiều nơi dọc chệch thành đòn dông.
Cũng do truyền thống trọng bên trái, bàn thờ Thổ công (ông Táo) - vị thần quan trọng nhất, cai
quản cái bếp, cái nhà - được đặt ở gian bên trái; bài vị của ông vì thế được ghi là Trù tư mệnh
Táo phủ thần quân.
• Cả cái bếp cũng được đặt bên trái (phía Đông), biệt lập và vuông góc với nhà chính, nhìn về
hướng lây. Tại sao bếp lại nhìn về hướng Tây? Kinh nghiệm dân gian cho rằng nếu bếp làm
không đúng hướng thì gia đình sẽ lục đục và hay sinh hỏa hoạn. Đó là do chức năng đặc biệt của
bếp là nấu nướng: bếp nhìn về hướng Tây sẽ tránh được ngọn gió thường xuyên thổi từ phía biển
(hướng Nam và Đông); trong trường hợp ngược lại. ngọn lửa sẽ bị gió tạt về phía vách gây cháy
nhà, chí ít là cơm chẳng lành canh chẳng ngọt (như thế thì làm gì mà gia đình không sinh lục
đục!).
• Nhưng nếu chỉ chọn hướng một cách giản đơn thì nhiều khi không giải quyết được vấn đề. Bởi lẽ
tùy thuộc vào địa hình địa vật xung quanh, vào sự có mặt của núi, của sông, của con đường.v.v.
mà ảnh hưởng của gió, nắng sẽ khác nhau. (cho nên ngoài việc chọn hướng, còn phải chọn
nơi, chọn chỗ: (chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở).
+ Để giải quyết vấn đề một cách triệt để hơn, ở một mức độ cao hơn, truyền thông văn hóa
phương Nam đã hình thành nên cả một nghề Chọn đất để làm nhà, đặt mộ, gọi là nghề phong
thủy. Nghề phong thuỷ bắt nguồn từ những nhu cầu tinh tế trong quá trình sống định cư và những kinh
nghiệm lao động phong phú của người nông nghiệp. Đất làm nhà gọi là dương cơ, đất đặt mộ gọi là âm
phần; dương cơ được coi trọng hơn âm phần (nhất dương thắng thập âm), song trên thực tế thì người ta
chỉ chú trọng đến đất dương cơ khi lập đình chùa, đặt đô thị, còn nhà thường dân thì chủ yếu chỉ chọn
hướng mà thôi; nhưng âm phần thì thường nhờ thầy địa lí đi tìm đất rất cẩn thận.
• Họ lại lấy đồ đựng nước đem thả con cá vào nuôi.rồi chôn xuống đất vài năm, hễ cá sống là đất

tốt, cá chết là đất xấu. Vì vậy, xem cây cỏ tươi hay hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu".
• Thuật phong thủy hình thành ở nền văn hóa nông nghiệp Nam-á nên khởi đầu hoàn toàn được
xây dựng trên căn bản âm dương Ngũ hành. "Phong" và "thủy" là hai yếu tố quan trọng nhất, tạo
thành vi khí hậu cho một ngôi nhà. Nhà xứ nóng rất cần có gió và nước. phong là gió, động hơn
thuộc dương; không có gió thì hỏng, nhưng gió nhiều quá cũng không tốt; gió có thể bị núi đồi,
mô đất hay cây to lái di, do vậy nhà phong thủy cần nắm vững hướng gió, biết sử dụng các bình
phong để lái gió theo ý mình.
• Thuỷ là nước. tĩnh hơn. thuộc âm; mặt nước trước nhà sẽ tạo nên sự cân bằng sinh thái trong
khuôn khổ của một vi khí hậu; dòng nước ngoằn ngoèo, càng dài thì càng tụ, nếu phình ra thành
hồ ao thì càng tụ thêm; nước đọng (bất cập) thì tù, không tốt, nhưng nước chảy mạnh (thái quá)
cũng hỏng, chỉ có nước chảy từ từ (âm dương điều hòa) là tốt nhất.
• Theo Ngũ hành, các thế đất được phân thành hình thủy (ngoằn ngoèo như dòng nước), hình hỏa
(nhọn như ngọn lửa). Hình mộc (dài như cái cây), hình kim (tròn), hình thổ (vuông). Đúng theo
mối tương quan giữa các phương đông- tây của Ngũ hành với hai loại hình văn hóa, thế đất hình
Kim (ứng với phương Tây du mục) được coi là sẽ phù trợ cho con cháu phát theo đường võ, còn
thế đất hình Mộc (ứng với phương Đông nông nghiệp) sẽ phù trợ cho con cháu phát theo đường
văn, nếu một thế đất có đủ cả Ngũ hành thì được coi là sẽ phát đế vương
15
+Truyền thống văn hóa nông nghiệp Đông Nam-á coi trọng bên trái (phương Đông) hơn
bên phải (phương Tây), nên mạch đất được gọi là long mạch (long = Rồng = phương Đông theo Ngũ
hành), việc tìm đất gọi là tầm long, công cụ để tìm đất là cái tróc long và la bàn (la bàn lớn hơn cái tróc
long, đầy đủ thông tin hơn, dùng để phân kim điểm huyệt).
Phép tầm long, trước hết phải tìm tổ sơn, rồi dò theo long mạch mà tìm đến huyệt. Huyệt trường là thế
đất có án che phía trước (gọi là tiền án. có khi là một quả đồi), chẩm làm chỗ dựa phía sau (gọi là hậu
Chẩm, có khi là một trái núi), bên trái có tay Long và bên phải là tay Hổ (gọi là tảThanh Long, hữu
Bạch Hồ). Tay Long và tay Hổ có thể là đồi núi. bờ ruộng,. dưới dạng hai vành móng ngựa ***g vào
nhau : tay Long (= bên trái, phương Đông) phải ***g ra ngoài tay Hổ (= bên phải, phương Tây). Huyệt
còn phải có chỗ trũng nước tụ lại ở phía trước (Minh đường) và chỗ trũng ở phía sau (Não đường).
Long mạch có thể lớn hoặc nhỏ: lớn nó có thề gồm cả một vùng lãnh thổ, với những dãy nhiều ngọn núi
trên một tay Long có thể có nhiều điểm kết, điểm kết nhất gọi là Hàm Rồng.

Các kinh đô khi xưa đều là những địa điểm được chọn theo con mắt phong thủy. Trong Chiếu dời đô, Lí
Công Uẩn miêu tả vị trí thành Đại La - mà rồi sẽ được đổi tên là Thăng Long như sau "Thành Đại La ở
vào nơi trung tâm Trời Đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây, lại tiện
hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn
khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng
địa". Thành Huế ở trung tâm đất nước, nhìn rộng thì có biển đằng tờớc, núi đằng sau; nhìn hẹp thì có
núi Ngự Bình ở phía trước làm án, sông Hương chảy lững lờ bao quanh, trên sông ở hai đầu có hai cồn
đất như hai hòn đảo chầu vào - cồn Dã Viên ở bên phải là Bạch Hổ. Cồn Hến ở bên trái lớn hơn là
Thanh Long, đoạn sông nằm giữa hai cồn đất ấy chính là Minh Đường. Con mắt phong thủy đã giúp tìm
cho các đó thị những địa thế có núi có sông, có âm dương hòa hợp, tạo nên một môi trường thiên nhiên
trong sạch và lành mạnh : Thăng Long có sông Nhị núi Nùng; Huế có sông Hương núi Ngự; Vinh có
sông Lam núi Hồng Lĩnh; Đà Nẵng có sông Hàn núi Sơn Trà
Ngoài ra, trong việc "chọn nơi mà ở", người Việt, với tính cộng đồng nông nghiệp của mình, rất quan
tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng xung quanh
+Đến thời kì kinh tế hàng hóa đã phát triển, người Việt còn rất coi trọng việc chọn vị trí
giao thông thuận tiện : nhất cận thị, nhị cận giang. Những đô thị có tốc độ phát triển nhanh đều là đô
thị gần biển, sông, có giao thông thuận tiện. Các thôn ấp miền Nam và các khu dân cư mới hình thành
đã từ bỏ cách tổ chức theo xóm làng với lũy tre khép kín cổ truyền mà chuyển sang quy tụ theo trục
đường sông, đường bộ. Trong đô thị, vị trí nhà mặt tiền được đánh giá cao. Tuy nhiên các yếu tố phong
thủy và cộng đồng vẫn không bị lãng quên; khi xét đến nhiều tiêu chuẩn thì yếu tố hàng xóm (lân) vẫn
được xếp vào thứ hai : nhất cận thị. nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ. ngũ cận điền.
Biện pháp thứ ba để đối phó với môi trường tự nhiên là tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự
nhiên trong việc chọn và sử dụng vật liệu xây dựng.
• Vật liệu xây dựng tự nhiên sẵn có nhất là tre. Cây tre có mặt ở khắp nơi. Tre có tác dụng cải
thiện môi sinh, làm cho không khí mát mẻ, che chắn gió bão, được dùng làm vật liệu quan trọng
16
cho việc làm nhà. Họ hàng nhà tre theo đặc tính của mình mà được phân công mỗi loại một
việc: bương, vầu thân to dầy, đốt ngắn chịu sức nén khỏe có thể làm cột nhà; tre đằng ngà thân
gần như đặc lại dẻo nên chịu sức kéo tốt có thể dùng làm đòn tay; mai thẳng và dày đều được bổ
ra thành lá làm sàn nhà cho bà con miền núi; nứa mỏng có thể đập dập lợp mái hoặc đan vách;

rồi còn hóp, luồng, trúc, giang, mây, song Để chống mối mọt, lạt mây tre phải luộc trước khi
chẻ, chẻ rồi phải gác bếp cho khói xông; tre ngâm khoảng một năm dưới bùn ao khi vừa vớt lên
mềm như sợi bún rất dễ uốn. còn khi để khô thì có khả năng chống mối mọt rất hiệu nghiệm.
Tổng hợp và linh hoạt như thế, tre xứng đáng là hình ảnh biểu trưng cho tính cách Việt Nam,
cho cái đẹp Việt Nam: Trúc xinh trúc mọc đầu dình, em xinh em đứng một mình cũng xinh.
• Sau tre thì đến gỗ. Gỗ quý và lí tưởng để làm nhà, để xây dựng đình chùa, cung điện là gỗ
tứ thiết: đinh, lim, sến, táu. Còn để làm nhà dân gian thì phổ thông hơn cả là xoan, mít.
Người nông thôn khi lập gia đình và làm nhà thường bao giờ cũng trồng một bụi tre ở góc vườn,
một hàng xoan, vài gốc mít - đó là do tinh thần cộng đồng, thói quen lo xa : lối sống vì tương lai
của người Việt Nam: tre, xoan, mít, đó là chuẩn bị cho 20 năm sau con mình có vật liệu làm
nhà. Thân xoan cao, thẳng, phần gốc dể tròn làm cột, phần trên đẽo gọt làm xà, kèo ; gỗ xoan
đắng (do chất nhựa) có tác dụng chống mối mọt lí tưởng: Nhà gỗ xoan, quan ông nghè.
• Lợp mái thì phổ biến là các vật liệu thực vật : rơm rạ, lá cọ (lá gồi), lá dừa nước cỏ tranh, nứa
đan thành tấm. Ở một số địa phương miền Nam trên rui mè người ta đổ một lớp đất sét rồi mới
lợp lá gồi lá dừa nước lên trên - đất sét có tác dụng cách nhiệt (chống nóng) và chống cháy rất
tốt.
• Nung đất làm gạch xây tường và ngói lợp mái là một nghề thủ công rất phổ thông và cổ
truyền có từ ngàn xưa. Ngói có nhiều loại với các chức năng khác nhau : ngói ống, ngói chiếu,
ngói âm dương, ngói vảy rồng, ngói mũi hài, ngói lưu li (tráng men), Gạch thì ngoài gạch chữ
nhật, gạch vuông thông thường còn có các loại gạch chuyên dụng như gạch hộp (có kích thước
lớn), gạch múi bưởi (xây cửa vòm), gạch có mộng, gạch thước thợ, gạch tròn, gạch đa giác
• Để xây tường thì hỗn hợp vỏ ốc vặn đốt thành than, vôi vỏ sò nghiền nát, trộn với cát giấy hàn
hay rơm nếp vò nát luyện với vỏ xây dè đặt (hoặc các loại cây khác tùy địa phương) và mật mía
tạo nên một chất kết dính lí tưởng; nó được dùng để đắp những con rồng, phượng, nghê. sấu
trên nóc đình đắp những đầu đao cong vút rất bền vững với thời gian.
Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà Việt Nam truyền thống là rất động và linh hoạt.
Toàn bộ ngôi nhà được hình thành trên cơ sở một bộ khung chịu lực hình hộp với sự liên kết chặt chẽ
giữa các bộ phận trong một không gian ba chiều : theo chiều đứng, trọng lực của ngôi nhà phân bố đều
vào các cột (cột cái, cột con, cột hiên) và dồn xuống các viên đá tảng kê chân cột; theo chiều ngang. các
cột được liên kết bằng các kẻ (bẩy, câu dầu ) tạo nên các vì kèo; theo chiều dọc ngôi nhà, các vì kèo

được liên kết lại với nhau bằng các (xà nóc, xà thượng, xà trung, xà hạ, xà chân). Để tăng thêm sự vững
chắc cho ngôi nhà. các cột phải được đẽo theo hình đầu cán cân, chân quân cờ (ngọn cột nhỏ, gần gốc
phình to và chân cột thắt lại theo tỉ lệ 6-10-8), khi dựng vì kèo thì các cột phải đứng theo thế choãi chân
gọi là thượng thu hạ thách (thách 2 phân cho mỗi thước cao của cột). Không cần đến móng, tường.
Tường đất vách nứa, hoặc ván bưng xung quanh chỉ có tác dụng che nắng mưa chứ không chịu lực.
Tất cả các bộ phận của ngôi nhà được lắp ghép lại bằng dây buộc, néo con xỏ (đối với nhà tre) hoặc
mộng (đối với nhà gỗ). Mộng là phần gờ lồi ra của một bộ phận này lắp khít vào chỗ lõm có hình dáng
và kích thước tương ứng ở một bộ phận khác (theo nguyên lí âm dương). Kĩ thuật ghép mộng áp dụng
17
cho toàn bộ đồ mộc truyền thống, từ nhà đến giường tủ, bàn ghế tạo nên sự liên kết chắc chắn nhưng
lại rất động và linh hoạt. Khi di chuyển chỉ cần làm ngược lại là có thế tháo dỡ ra rất dễ dàng.
Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi biết rằng vua Gia Long đã cho dỡ một số cung điện của thành
Hà Nội chở theo đường thủy vào dựng ở Huế; ngược lại, một nhà thờ họ ở Huế đã được chở ra Hà Nội
dựng ở làng Vẽ; đền Hai Bà Trưng và chùa Trấn Quốc ở Hà Nội đã được di chuyển từ ngoài bờ sông
vào trong đồng để tránh lụt; cũng để tránh lụt, vào năm 1903, đình Chèm ở bờ sông phía bắc Hà Nội đã
được nâng cao hơn so với mặt nền cũ là 6 thước ta. Với kiều nhà này, việc mua bán nhà và đất là hai
việc khác hẳn nhau.
+Để thống nhất kích thước, trong khi phương Tây dùng bản vẽ kĩ thuật phức tạp, chi li
và cứng nhắc thì người Việt Nam dùng cái thước tầm (còn gọi là rui mực sào mực). Đó là một thân
tre bổ đôi dài hơn chiều cao của cột cái, trong lòng máng vạch những kí hiệu cho phép xác định các
khoảng ngang, khoảng đứng và khoảng chảy, từ đó mà ấn định được kích thước của các bộ phận như
chiều cao của cột hiên, cột con, cột cái Cấu tạo của thước tầm là chung cho mọi nhà, nhưng mỗi thước
lại được tính theo một đơn vị gốc mang tính rất cá biệt là dốt gốc ngón tay út hoặc gang tay của người
chủ nhà (truyền thống coi con người là trung tâm, lấy kích cỡ con người làm chuẩn để đo đạc tự nhiên
và vũ trụ). Thành ra nhà nào thước ấy, không thể mượn thước người khác mà làm nhà cho mình được.
Thước tầm trở thành vật xác định quyền sở hữu ngôi nhà của chủ nhân. Khi hoàn thành nhà, phải làm lễ
cài sào để báo cáo với thần linh thổ địa và long trọng đưa cây thước tầm lên gác ở vị trí cao nhất dưới
nóc giữa hai vì kèo. chỉ khi nào cần sửa chữa thì thợ cả mới lấy xuống để đo cắt các chi tiết thay thế.
Về hình thức kiến trúc thì ngôi nhà Việt Nam là tấm gương phản ánh đặc điểm của truyền thống văn
hóa dân tộc.

+Hình thức kiến trúc của ngôi nhà Việt Nam phản ánh truyền thống coi trọng bên Trái
(phía Đông) của văn hóa nông nghiệp. Ngoài những điều đã nói về chiếc đòn đông có đầu gốc ở phía
trái (phía Đông), về cái bếp luôn đặt phía trái (phía Đông), ta còn có thể gặp hàng loạt sự kiện thú vị
khác. Một tòa thành có nhiều cửa thì cửa chính nằm phía Nam; còn nếu có hai cửa nhìn về phía Nam thì
cửa chính là cửa tả (bên trái, phía Đông). ở Nam Bộ, nếu trong nhà có thờ tổ tiên của cả hai họ thì bàn
thờ họ nội đặt bên trái (phía gốc của cây đòn dông, phía đông) và họ ngoại đặt bên phải; cha mẹ đã qua
đời thì bàn thờ cha mẹ đặt bên trái (vì gần gũi hơn), bàn thờ ông bà đặt bên phải.
Hình thức kiến trúc ngôi nhà Việt Nam còn tuân thủ nguyên tắc coi trọng các con số ước lệ, nhất là số
lẻ theo truyền thống văn hóa nông nghiệp. Bước vào cổng là cổng tam quan; bước lên bậc là bậc tam
cấp; các kiến trúc lớn đều dựng theo lối nhà tam tòa. Các tòa thành như thành Cổ Loa, thành Huế đều
có kiến trúc 3 lớp vòng thành. Ngọ Môn ở Huế nhìn chính diện có ba cửa (số 3) dành cho Vua và quan
lại, thêm hai cửa phụ hai bên cho lính và súc vật (số 5), trên nóc có 9 nhóm mái (ca dao Huế : Ngọ Môn
5 cửa 9 lầu - Cột cờ 3 cấp, Phú Văn Lâu 2 tầng). Số gian của một ngôi nhà, số bậc của cầu thang trong
nhà bao giờ cũng lẻ. Nói chung, khi có khả năng lựa chọn thì kiến trúc nhà cửa cho người sống đều
chọn các sô lẻ vì số lẻ là dương (dương = động; động là sự sống và động còn phù hợp với tư duy linh
18
hoạt của văn hóa nông nghiệp). Trong khi đó thì nhà cho người chết- nhà mồ - của các dân tộc (ở Việt
Bắc, Tây Nguyên) lại chọn các số chẵn (ví dụ, số bậc cầu thang), vì số chẵn là số âm (âm = tĩnh, chết).
Trước hết xin nói về bản sắc kiến trúc dân tộc: kiến trúc là một bộ phận của văn hóa. Bản sắc văn hóa
dân tộc theo định nghĩa của UNESCO: “ Tổng thể sống động các hoạt động sang tạo của con người đã
diễn ra trong quá khứ cũng như đang diển ra trong hiện tại. Qua hang thế kỷ, các hoạt động sáng tạo ấy
đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thị hiếu, thẩm mỹ và lối sáng mà dựa trên đó
từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” (1)
Nói tóm lại mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những kiến trúc truyền thống với những nét đặc trưng
riêng của mình. Nét đặc trưng đó được thể hiện trong bố cục không gian kiến trúc, trong việc sử dụng
vật liệu đệ tạo nên công trình kiến trúc với trình độ khoa học, tư duy thẩm mỹ; bằng công cụ và bàn tay
khéo léo của mình. Những nét đặc trưng đó toát lên từ tỷ lệ hình khối, kết cấu đến các thành phần chi
tiết, các hoa văn trang trí, mầu sắc nội ngoại thất công trình. Và chính từ những yếu tố đó, công trình
trở thành tiêu biểu, dấu ấn của thời đại, phản ánh các đặc thù về kinh tế, chính trị xã hội… của dân tộc
theo từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội.

Hình tượng trang trí trong kiến trúc truyền thống
Trong các công trình kiến trúc gỗ truyền thống tại Việt Nam, nhất là đối với các công tình mang yếu tố
tôn giáo và tín ngưỡng như đình, đền, chùa , miếu thì mảng điêu khắc được đánh giá là một trong
những yếu tố quan trọng bậc nhất tạo nên vẻ đẹp cho công trình. Sau đây giới thiệu các hình tượng trang
trí thường gặp trong kiến trúc cổ từ Bắc tới Nam, mang đậm ảnh hưởng của Phật giáo và một số đạo
khác như Đạo Giáo, Nho giáo.
Các hình tượng trang trí đơn lẻ
Con rồng
Các dạng trang trí hình rồng phát triển theo từng thời kỳ, mang những đặc điểm mỹ thuật khác nhau.
Trong kiến trúc truyền thống ở Việt Nam, hình tượng con rồng thể hiện cho tâm linh, gắn liền với vua
(theo quan niệm phong kiến), biểu hiện ước mong mưa thuận gió hoà (quan niệm dân gian). Từ thời Lý,
rồng bắt đầu được trang trí trên bệ tháp, cấu kiện gỗ, đỉnh mái của các chùa Dạm (Bắc Ninh), chùa
Long Ðọi (Hà Nam)
19
H1a. Rồng chạm đầu dư
H1b. Rồng trang trí trên cửa
Con lân
Được gọi đầy đủ là kỳ lân (còn gọi là con ly và dân gian gọi là con sấu). Hình tượng con Lân được định
hình từ thời Lý và phát triển cho đến suốt thời Nguyễn.
Kỳ lân là phát triển của long mã, biểu tượng cho sự kết hợp thời gian và không gian, cho sự an bình.
Thường được trang trí trên cấu kiện gỗ (gặp ở nhiều chùa), thành bậc (chùa Bà Tấm, Hà Nội), tượng
tròn (chùa Phật Tích, Bắc Ninh).
20
H2. Tượng lân đá tại chùa Phật Tích
Rùa
Biểu trưng cho sự bền vững của xã tắc (trong phạm vi cung đình) và sự sống lâu, trường thọ (dân gian).
Tuy ít gặp trong kiến trúc Phật giáo, nhưng hình tượng rùa đã được sử dụng như vật đỡ chân bia tại các
chùa.
21
H3. Rùa đội bia

Chim Phượng
Chim Phượng không gắn nhiều với Phật giáo mà thường tượng trưng cho vẻ đẹp của phụ nữ, hoặc cho
điềm lành, mỗi khi Phượng xuất hiện thì báo hiệu đất nước thái bình, phồn thịnh Thường được chạm
khắc trên cốn, thành bậc, đầu dư, đầu đao
H4. Đầu đao hình chim Phượng
Hoa sen
Biểu hiện cho sự trong sạch thanh cao, cho sự thanh tịnh của Phật giáo. Từ thời Lý đã sử dụng hoa sen
trong biểu tượng chùa Một Cột, bệ tượng Phật A Di Ðà chùa Phật Tích. Thường thấy ở đỉnh tháp, chân
tảng, bệ Phật, diềm bia.
22
H5. Trang trí hoa sen trên chân tảng
Hoa cúc
Hoa cúc thời Lý, Trần thường thể hiện với dạng dây lượn hình sin. Lúc đầu hoa cúc phổ biến ở Trung
Quốc với biểu trưng Ðạo giáo, về sau ảnh hưởng vào Phật giáo như một biểu tượng bình dị, thanh cao,
kín đáo và lâu bền.
23
H6. Trang trí hoa cúc chùa Phổ Minh, Nam Định
Lá đề
Cây Bồ đề biểu trưng cho sự đại giác của đức Phật. được sử dụng rất nhiều trong trang trí điêu khắc như
vòm cửa chùa tháp thời Lý.
H7. Trang trí lá đề tháp Bình Sơn, Vĩnh Phúc
Hình cá
Tượng trưng cho sự giàu có, phồn thịnh. Thường hay gặp trong trang trí cấu kiện gỗ cùng sóng nước.
H8. Trang trí cá trên cốn gỗ
24
Con trâu
Hình trâu cũng xuất hiện từ thời nguyên thuỷ trong văn hoá Hoà Bình. Và hình tượng trâu còn thấy được
ở kiến trúc Phật giáo bắt đầu từ thời Lý. Con trâu rất có ý nghĩa trong nhà Phật, thể hiện qua bức tranh
thập mục (mười đứa trẻ chăn trâu). Có thể gặp hình trâu trên tượng tròn (chùa Phật Tích), lan can đá
(chùa Bút Tháp, Bắc Ninh)

H9. Hình tượng con trâu trên lan can đá chùa Bút Tháp
Sư tử
Là đề tài trang trí phổ biến ở thời Lý hơn các thời sau này. Sư tử hí cầu có ý nghĩa như vật bảo vệ giáo
pháp. Có thể gặp tượng sư tử ở chùa Hương Lãng, bệ có 2 con sư tử đỡ ở chùa Bà Tấm. Các chòm lông
và đuôi sư tử thường xoắn lại theo kiểu trôn ốc hoặc xoè ra.
25

×