Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC VỆ SINH TRONG TRƯỜNG MN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.36 KB, 24 trang )

Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, nền kinh tế - xã hội của đất nước ta có sự phát triển
không ngừng làm cho ngành Giáo dục nói chung và ngành học mầm non nói riêng
cũng dần từng bước củng cố và phát triển. Trong xu thế chung đó đòi hỏi người làm
công tác chăm sóc giáo dục trẻ phải có năng lực toàn diện, có những phẩm chất cần
thiết mới hoàn thành được nhiệm vụ giao phó. Việc hình thành cho đứa trẻ các kiến
thức cơ bản về vệ sinh cá nhân hàng ngày là một việc làm rất cần thiết.
Như chúng ta đã biết có một số dân tộc của vùng núi Tây Bắc nói chung và
người dân tộc Lào nói riêng của xã Nà Tăm có một lối sống cổ hủ và lạc hậu. Việc ở,
vệ sinh cá nhân hàng ngày không phải là nhu cầu thiết yếu. Gia đình ở nhiều thế hệ,
không có khuôn viên thoáng mát, không có cây xanh. Sinh hoạt cá nhân mà không
cần có giếng nước, không có cống thoát nước, không có các đồ vệ sinh cá nhân cho
từng người riêng, thực hiện các thao tác vệ sinh chủ yếu bằng tay mà không cần các
dụng cụ hỗ trợ, không có nơi vệ sinh cụ thể. Với cách sống như vậy đứa trẻ rất lúng
túng, bỡ ngỡ trước những dụng cụ vệ sinh mà nhà trường cung cấp, không xác định
được các thời điểm cần vệ sinh, nơi đi vệ sinh trong ngày. Đặc biệt với cách sống như
vậy làm cho các bệnh (Tiêu chảy, qoai bị, sốt phát ban và đặc biệt là căn bệnh tay
chân miệng đang bùng phát hiện nay) có cơ hội phát triển và xâm nhập vào cơ thể của
trẻ, gây ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ của trẻ.
Để chuẩn bị cho thế hệ trẻ nói chung và trẻ dân tộc Lào nói riêng bước vào thời
đại của nền văn minh trí tuệ, thời đại của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và
mục đích chung của Giáo dục mầm non là phát triển tất cả các khả năng của trẻ, hình
thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người, một mặt đáp ứng các
nhu cầu phát triển tổng thể hài hoà của trẻ về các mặt: Thể chất, ngôn ngữ, nhận thức,
thẩm mỹ, tình cảm - xã hội, hình thành kĩ năng giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ và
phòng tránh một số bệnh lây truyền. Mặt khác chuẩn bị sẵn sàng cho trẻ vào lớp 01 và
1
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
đăc biệt là công tác phổ cập giáo dục trẻ em năm tuổi tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm:


"Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác giáo dục vệ sinh cá nhân cho
trẻ tại lớp Mẫu giáo lớn trung tâm trường mầm non Nà Tăm”.
II. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi nghiên cứu
100% trẻ lớp mẫu giáo lớn trung Tâm.
Giáo viên dạy tại lớp, phụ huynh học sinh.
2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác giáo dục vệ sinh cá nhân
cho trẻ tại lớp Mẫu giáo lớn trung tâm trường mầm non Nà Tăm.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ giúp cho việc nâng cao chất lượng giáo dục ở
vùng đặc biệt khó khăn. Đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục trẻ 5
tuổi của ngành học Mầm non nói chung và của xã Nà Tăm nói riêng. Đảm bảo kế
hoạch phát triển giáo dục. Giúp trẻ sạch sẽ, khoẻ mạnh, mạnh dạn tự tin hơn trong
giao tiếp, trong học tập, đảm bảo chất lượng cho các năm tiếp theo. Bước đầu tạo nên
thói quen nề nếp vệ sinh cá nhân cho trẻ.
IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua đề tài nghiên cứu giúp giáo viên có những định hướng phù hợp trong công
tác giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ. Sau khi vận dụng đề tài sẽ góp phần nâng cao ý
thức, trách nhiệm của phụ huynh học sinh trong việc giữ gìn vệ sinh và bảo vệ sức
khoẻ cho con, góp phần đắc lực cho quá trình hình thành thói quen nề nếp vệ sinh cho
trẻ, phần nào giảm thiểu được các bệnh lây truyền.
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
Một đứa trẻ sinh ra được ví như một tờ giấy trắng. Vậy nhiệm vụ của các nhà
giáo dục phải chọn lọc những chất liệu tốt nhất để pha trộn vẽ lên tờ giấy trắng ấy
những gì đẹp nhất và dạy đứa trẻ trở thành người toàn diện. Như vậy ngành học Mầm
non là ngành học đặt nền móng cho sự phát triển của đứa trẻ. Nền móng có tốt thì đứa

trẻ mới phát triển tốt. Nhưng công tác giáo dục không thể thực hiện được cái khó
trước mà nó phải tuân thủ theo một quy trình từ rễ đến khó từ đơn giản đến phức tạp.
Như vậy việc hình thành thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ cũng phải bắt đầu từ cái
đơn giản.
Trước tiên phải cho trẻ biết khi nào cần vệ sinh, sau đó cho trẻ biết cách vệ sinh
như thế nào? Tức là cung cấp cho trẻ các kỹ năng cơ bản.
1. Kỹ năng:
+ Theo quan điểm của nhà tâm lý học Liên Xô cũ XiKiXen gọi: Kỹ năng là khả
năng thực hiện có hiệu quả hệ thống các hoạt động phù hợp với mục đích và điều kiện
thực hiện hệ thống này.
+ Theo quan điểm của NPlevitôn: Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả của một số
động tác nào đó trong hành động phức tạp hơn: Ông cho rằng con đường hình thành kỹ
năng thường là bắt chước kỹ năng, bắt chước các hành động nổi bật bằng quá trình làm
thử và luyện tập bao giờ cũng gắn bó với thực tiễn.
2. Kỹ xảo:
+ Theo quan điểm của XiKixengon: Kỹ xảo là biện pháp hành động đặc trưng ở
trình độ thành thạo trong đó yếu tố tự động hoá.
+ Còn theo quan điểm của Anleonchiep thì đa số trường hợp kỹ xảo của con
người nảy sinh trên cơ sở biến hành động thành thao tác như một phương thức hành
động được tự động hoá một cách có ý thức như một thành phần được tự động hoá của
việc thực hiện hành động, tự động hoá một cách có ý thức như một thành phần tự
động hoá của việc thực hiện hành động.
3
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
Tóm lại: Kỹ xảo là hành động thành thạo dựa trên cơ sở biến hành động thành
thao tác nhờ có sự luyện tập tích cực các hành động.
3. Thói quen:
Thói quen thường chỉ những hành động những hành vi của cá nhân được diễn ra
trong những điều kiện ổn định về không gian và quan hệ xã hội rất cụ thể. Thói quen
thường gắn với nhu cầu của cá nhân và gần như phản xạ có điều kiện. Khi trở thành

thói quen mọi hành động tâm lý trở thành cố định, cân bằng và khi phá vỡ sự cân
bằng đó tức là phá vỡ thói quen, mỗi cá nhân đều có thói quen nhất định được tạo
thành trong quá trình sống của chủ thể cụ thể như: Thói quen sạch sẽ, gọn gàng, ngăn
nắp khi sử dụng đồ dùng, thói quen niềm nở với mọi người và đặc biệt là thói quen vệ
sinh cá nhân.
Từ cơ sở lý luận đến thực tiễn của việc giáo dục thói quen vệ sinh văn minh cho
trẻ mẫu giáo thì kỹ năng, kỹ xảo, thói quen có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau
không thể tách rời. Nó theo đứa trẻ ngay từ khi vào trường cho tới khi ra trường. Trẻ
không có kỹ năng tức là trẻ sẽ không có kỹ xảo, không có kỹ xảo thì trẻ không thể
tiến vượt bậc lên thói quen.
4. Kỹ năng, kỹ xảo, thói quen đối với trẻ mẫu giáo:
4.1. Đối với trẻ 3 tuổi:
Trẻ ba tuổi là độ tuổi còn non nớt về tâm lí, hành động, thao tác. Các hoạt động
của trẻ bước đầu mang tính chất làm theo, dần dần qua thời gian hoạt động dưới sự
hướng dẫn của giáo viên các thao tác của trẻ trở thành kỹ năng.
4.2. Đối với trẻ 4 tuổi:
Độ tuổi này trẻ đã được trải nghiệm nhiều qua các hoạt động do vậy kỹ năng
của trẻ tiến xa hơn một bước nó trở thành kỹ xảo. Các thao tác đã thành thạo hơn,
chuẩn xác hơn.
4.3. Đối với trẻ 5 tuổi:
4
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
Độ tuổi này trẻ đã dần ổn định về tâm lí, trẻ mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp.
Do vậy nhận thức của trẻ cũng tốt hơn, các thao tác, kỹ năng, kỹ xảo của trẻ đã thành
thục hơn, khéo léo hơn. Trẻ thích được làm người lớn, thích thể hiện vai trò của người
anh, người chị. Như vậy việc thực hiện công tác vệ sinh đối với trẻ năm tuổi nó đã trở
thành thói quen.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Điều kiện thuận lợi
Lớp học được đặt ở khu trung tâm của xã, giao thông đi lại thuận tiện. Cơ sở vật

chất khá khang trang, phòng học kiên cố, có tường rào bao quanh, có hệ thống điện
nước thuận tiện. Lớp được cung cấp tương đối đầy đủ các thiết bị phục vụ cho công
tác dạy học.
Lớp học được bố trí hai giáo viên trong đó một giáo viên có trình độ đại học,
một giáo viên có trình độ đạt chuẩn.
2. Điều kiện khó khăn.
Lớp học chiếm 96% trẻ là người dân tộc Lào và là lớp ghép ba độ tuổi nên nhận
thức của trẻ không đồng đều, khả năng sử dụng các đồ dùng vệ sinh còn lúng túng và
chưa có thao tác.
Đa số phụ huynh học sinh là người thuần nông chuyên sản xuất nông nghiệp,
nhận thức của phụ huynh còn nhiều hạn chế, kinh tế còn hạn hẹp, đời sống của phụ
huynh chưa cao các gia đình có mức thu nhập thấp, không ổn định.
Giáo viên đang trong độ tuổi sinh con và nuôi con nhỏ. Chưa có ý thức tổ chức
các hoạt động vệ sinh thường xuyên và còn ngại khi tổ chức các hoạt động vệ sinh
cho trẻ.
3. Thực trạng
Tôi tiến hành thực hiện sáng kiến kinh nghiệm trên lớp mẫu giáo lớn trung tâm
với tổng số học sinh: 29 cháu trong đó:
5
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
+ Trẻ 5 tuổi: 11 cháu
+ Trẻ 4 tuổi: 8
+ Trẻ 3 tuổi: 10
+ Trẻ là người dân tộc: 25 cháu.
Tiến hành khảo sát:
* Đối với giáo viên: ( 02 giáo viên)
Tôi tiến hành phát phiếu khảo sát cho giáo viên.
Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm
Stt Nội dung khảo sát
Đánh giá

Tốt Khá TB Yếu
1 Nội dung giáo dục vệ sinh cho trẻ. 1 1
2 Khi nào cần tổ chức cho trẻ vệ sinh. 1 1
3 Đồ dùng vệ sinh 1 1
4
Quy trình hướng dẫn trẻ vệ sinh ( rửa tay, rửa
mặt, chải tóc, cất đồ dùng đồ chơi )
2
5 Công tác phối hợp với phụ huynh học sinh 1 1
6
Nhu cầu của giáo viên với công tác giáo dục vệ
sinh cho trẻ trong trường mầm non.
1 1
Qua bảng tổng hợp trên ta thấy: Giáo viên đã nắm được nội dung giáo dục song
chưa đầy đủ. Do giáo viên mới ra trường, đang nuôi con nhỏ nên chưa dành nhiều
thời gian cho việc nghiên cứu và học hỏi chuyên môn. Đã nhận thức tốt thời gian cần
hướng dẫn trẻ vệ sinh trong ngày, đã phần nào nắm được các dụng cụ vệ sinh song
chưa đầy đủ. Bước đầu nắm được quy trình hướng dẫn trẻ vệ sinh nhưng trong khi
thực hiện còn lung túng, đôi khi còn nhầm. Đã xác định được nhu cầu thực tế của bản
thân trong công tác giáo dục vệ sinh cho trẻ. Nội dung phối hợp cùng gia đình chưa
6
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
hiệu quả do cô giáo và phụ huynh bất đồng ngôn ngữ. Do trình độ chuyên môn của cô
giáo còn nhiều hạn chế, không đồng đều. Tất cả giáo viên đều nắm được nội dung của
việc giáo dục văn hoá vệ sinh cho trẻ, nắm được nội dung chương trình hình thành
thói quen vệ sinh cho trẻ.
* Đối với phụ huynh: ( 29 phụ huynh)
Tôi tiến hành phát phiếu khảo sát cho phụ huynh.
Bảng 2: Kết quả khảo sát đầu năm
Stt Nội dung khảo sát

Đánh giá
Tốt Khá TB Yếu
1 Thời gian vệ sinh trong ngày 4 12 13
2 Đồ dùng vệ sinh 4 15 10
3 Đồ dùng vệ sinh sử dụng chung hay riêng 8 13 8
4 Quy trình vệ sinh 2 12 15
5 Công tác phối hợp cùng giáo viên 4 13 12
Đánh giá:
Về nội dung khảo sát với phụ huynh đa số phụ huynh đã biết các thời điểm cần
vệ sinh cho con, đồ dùng vệ sinh cho con là những gì, biết được tầm quan trọng của
đồ dùng và để đảm bảo vệ sinh khi sử dụng đồ dùng, biết được các thao tác vệ sinh
song chưa đầy đủ theo quy trình, biết được cần phải trao đổi với cô giáo những gì khi
con đến lớp.
Song bên cạnh đấy vẫn còn một số lượng lớn phụ huynh chưa biết rõ các thời
điểm cần vệ sinh cho con, chưa biết con cần đồ dùng gì để thực hiện thao tác vệ sinh,
chưa nắm được quy trình rửa tay sao cho sạch và đặc biệt trong công tác phối hợp với
giáo viên.
7
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
Do đa số phụ huynh làm nghề nông họ đi làm nương dẫy từ sáng nên việc thực
hiện các thao tác vệ sinh của trẻ chủ yếu do trẻ tự làm mà không có người giám sát.
Người dân quen sống trong môi trường tạm bợ, dùng chung trong một gia đình
* Đối với học sinh: Tôi chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm lớp tổ chức các hoạt
động vệ sinh (Theo nội dung tôi xây dựng) cho trẻ. Các cháu hoạt động theo trình tự
thời gian và chia theo nhóm tuổi riêng biệt, sau đó tôi quan sát và ghi chép lại kết quả
khảo sát.
Bảng 3: Kết quả khảo sát đầu năm
( Có bảng phụ lục kèm theo)
Qua quá trình chăm sóc giáo dục trẻ, tôi đánh giá thực trạng về mức độ hoàn
thành thói quen văn hoá vệ sinh của trẻ lớp mẫu giáo lớn trung tâm như sau:

Về mức độ thói quen vệ sinh rửa tay: Đa số trẻ đã biết rửa tay vào những thời
điểm nào trong ngày. Song trong quá trình giáo dục thì mức độ nhận thức của trẻ
không đồng đều. Trẻ bốn, năm tuổi thì nhận thức nhanh, thao tác thành thạo, đúng yêu
cầu, trẻ ba tuổi thì nhận thức chậm thao tác còn vụng về, không mạnh dạn tự tin,
không linh hoạt sáng tạo.
Mức độ thói quen rửa mặt: Đa số trẻ chưa có thói quen rửa mặt đúng quy
trình, trẻ còn lung túng khi sử dụng đồ dùng đặc biệt là trẻ 3 tuổi và trẻ 4 tuổi.
Mức độ thói quen chải tóc: Trẻ chưa có thao tác chải tóc đúng, chưa biết nhu
cầu cần chải tóc và chải tóc vào lúc nào.
Mức độ thói quen mặc quần áo: Nhìn chung trẻ đến lớp với trang phục gọn
gang, sạch đẹp. Song bên cạnh đó trẻ đến lớp chưa biết cách làm đẹp cho bản thân,
Mức độ thói quen cất đồ dùng: Đa số trẻ đến lớp chưa biết cách sắp xếp gọn
gàng đồ dùng, đồ chơi, trang phục của mình. Điều này không phải do trẻ mà do môi
trường sống xunh quanh trẻ còn quá lạc hậu. Do trang thiết bị của nhà trường còn
8
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
nghèo nàn nên nó ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều nội dung giáo dục thói quen vệ sinh
của trẻ. Do trẻ trong lớp học ghép nhiều độ tuổi.
Mức độ thói quen ăn uống vệ sinh: Đa số trẻ đã biết cách cầm bát, cầm thìa,
cách ăn uống sao cho lịch sự (tức là trong khi ăn không nói chuyện trước khi ăn phải
mời, không được gắp thức ăn của mình cho bạn, không để rơi vãi cơm, ăn hết suất ).
Ăn xong phải biết để bát vào nơi quy định. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số trẻ
chưa thực hiện tốt những yêu cầu trên vì thời gian trẻ được tiếp xúc với môi trường
mầm non quá ngắn ngủi, chưa đáp ứng đủ nhu cầu mạnh dạn của trẻ.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Bồi dưỡng tư tưởng cho giáo viên:
Đội ngũ giáo viên là nguồn nhân lực thực hiện các kế hoạch của nhà trường.
Nhà trường có các định hướng tốt thì đội ngũ giáo viên sẽ thực hiện tốt và ngược lại.
Như vậy đứa trẻ có phát triển tốt hay không phần lớn phụ thuộc vào công dạy giỗ của
các cô giáo đặc biệt là các cô giáo mầm non. Nhưng hiện nay tâm lí của các cô giáo là

chỉ làm việc vừa đủ. Có nghĩa là chỉ cần trông cho trẻ an toàn, hoàn thành nhiệm vụ,
không có nhu cầu cầu tiến. Tinh thần đó rất đáng sợ trong một ngôi trường và còn
đáng sợ hơn với các nhà quản lí có tâm với nghề, với ngôi trường họ quản lí. Xác định
được tầm quan trọng của tâm lí giáo viên hiện nay đặc biệt là toàn ngành đang tiếp tục
thực hiện chủ đề năm học “Đổi mới công tác quản lí và nâng cao chất lượng dạy
học” tôi đã mạnh dạn đưa nội dung giáo dục tư tưởng đạo đức cho giáo viên làm một
nội dung đổi mới trong công tác quản lí và áp dụng vào trong sáng kiến. Để thay đổi
được nhận thức của giáo viên tôi đã áp dụng các giải pháp sau:
+ Bồi dưỡng lòng nhân ái sư phạm cho giáo viên. Bởi vì lòng nhân ái là cái gốc
đạo lý làm người. Cô giáo Mầm non không chỉ giỏi về nghiệp vụ, mà phải có tình yêu
thương trẻ thực sự. Những phẩm chất, đạo đức ấy không chỉ do có sẵn mà phải do quả
trình học tập, rèn luyện, tự bồi dưỡng để hoàn thiện chính mình.
9
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
+ Chỉ đạo và hướng dẫn giáo viên tự học, tự nghiên cứu để nắm bắt các quy định về đạo
đức nhà giáo.
+ Phối hợp với các tổ chức chính trị trong trường tăng cường công tác tuyên
truyền, vận động đội ngũ giáo viên nhận thức rõ về tầm quan trọng của đạo đức sư
phạm ảnh hưởng như thế nào tới trẻ và xã hội. Đặc biệt là tìm hiểu tâm tư của từng
giáo viên từ đó động viên khuyến khích để giáo viên phấn khởi, yên tâm công tác.
+ Mặt khác tôi chủ động trò chuyện để nắm bắt tâm tư nguyện vọng của giáo
viên. Ví dụ: Để thực hiện tốt công tác chăm sóc học sinh ( Hướng dẫn trẻ thực hiện
các thao tác vệ sinh hàng ngày) thì đồng chí cần những gì?
Khi nắm bắt được nhu cầu thực tế của giáo viên tôi từng bước đáp ứng các yêu
cầu có thể cho giáo viên: Bố trí ở lớp thuận tiện, được trang bị tương đối đầy đủ các
trang thiết bị phục vụ cho công tác giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ, cử cô giáo tham
gia lớp tập huấn công tác vệ sinh tại huyện do dự án AAV tài trợ, được tuyên dương
trước tập thể nhà trường mỗi khi cô thực hiện tốt.
Sau khi áp dụng nhiều giải pháp trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm cho
người giáo viên tôi thấy giải pháp tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của giáo viên là hiệu

quả nhất. Vì qua việc tìm hiểu sẽ giúp cho cán bộ quản lí gần với giáo viên hơn và
ngược lại và điều quan trọng hơn là giáo viên sẽ có tâm với nghề hơn, yêu trẻ hơn và
đặc biệt giáo viên sẽ cảm thấy mình có ích cho cuộc sống, cho mọi người. Khi nhận
được sự quan tâm của Ban giám hiệu, được công nhận năng lực, thấy được hiệu quả
khi công sức bỏ ra, nhận được sự tán dương của đồng nghiệp tôi thấy giáo viên đã
nhiệt huyết với nghề, nắm chắc được chuyên môn, có cách chăm sóc trẻ khéo léo
hơn
2. Bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên
Cô giáo mầm non được ví như một nghệ sĩ, một nhà khoa học, một nhà tâm lí.
Trong một cơ thể con người mà được hội tụ bởi rất nhiều vai trò và trách nhiệm. Hỏi
10
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
con người đó có hoàn mĩ được không? Câu hỏi đươc ra đòi hỏi các nhà quản lí phải
không ngừng tìm tòi, khám phá, kích thích cái tôi trong cơ thể của mỗi giáo viên.
Trước tiên tôi đáp ứng đầy đủ vật chất, cùng giáo viên trao đổi về các thời điểm
cần vệ sinh cho trẻ hàng ngày và trao đổi với giáo viên vì sao cần tổ chức các hoạt
động vệ sinh cho trẻ hàng ngày. Cử giáo viên tham gia các buổi tập huấn của Phòng
giáo dục do dự án AAV tài trợ.
Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch hướng dẫn trẻ vệ sinh, xây dựng thời gian
biểu tổ chức hoạt động vệ sinh cho trẻ hàng ngày.
Sau đó tôi cùng giáo viên trao đổi về quy trình hướng dẫn trẻ vệ sinh ( Rửa tay,
rửa mặt, chải tóc ) trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, qua các đợt thanh kiểm tra
của nhà trường.
Ví dụ quy trình rửa tay được thực hiện như sau:
+ Rửa tay: Gồm 6 bước
- Làm ướt hai bàn tay bằng nước sạch. Thoa xà phòng vào lòng bàn tay. Chà xát
hai lòng bàn tay vào nhau.
- Dùng ngón tay và lòng bàn tay này cuốn và xoay lần lượt từng ngón của bàn
tay kia và ngược lại.
- Dùng lòng bàn tay này chà xát chéo lên mu bàn tay kia và ngược lại.

- Dùng đầu ngón tay của bàn tay này miết vào kẽ giữa các ngón của bàn tay kia
và ngược lại.
- Chụm 5 đầu ngón tay của tay này cọ vào lòng bàn tay kia bằng cách xoay đi,
xoay lại.
- Xả cho tay sạch hết xà phòng dưới nguồn nước sạch. Lau khô tay bằng khăn
hoặc giấy sạch.
11
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
Các nội dung về rửa mặt, chải tóc tôi cùng giáo viên trao đổi tương tự và cuối
cùng tôi trốt lại kiến thức.
Ngoài ra tôi chỉ đạo giáo viên phải nắm chắc các thời điểm cần hướng dẫn học
sinh vệ sinh trong ngày. Khi tổ chức cho học sinh vệ sinh cần chú ý tới tất cả các đối
tượng trong lớp. Với lớp ghép cô giáo phải chia lớp thành ba tổ và phải đảm bảo lớn
nhỡ bé xen kẽ. Khi thực hiện cô cho trẻ lớn làm trước cho các trẻ nhỏ hơn quan sát.
Sau đó cho các trẻ thực hiện động tác thuần thục hướng dẫn các trẻ nhỏ hơn và giúp
đỡ các em cùng thực hiện động tác. Trẻ nào thực hiện tốt và giúp đỡ các em nhỏ tận
tình nhất được tuyên dương, được cắm cờ vào bảng bé ngoan. Hình thức tuyên dương
khen thưởng này trẻ rất thích nên hiệu quả đạt được rất khả quan.
Tôi thường xuyên kiểm tra giáo viên về kiến thức sư phạm giáo dục vệ sinh cho
trẻ và học sinh là kĩ năng vệ sinh bằng cách trò chuyện trao đổi ở bất kì nơi nào và vị
trí nào có thể kiểm tra.
Qua các giải pháp thực hiện tôi thấy giải pháp kiểm tra giáo viên và giải pháp
chia đối tượng học sinh là hiệu quả nhất. Vì qua hình thức kiểm tra tôi đã bồi dưỡng
được sâu hơn kiến thức cho giáo viên, giúp cho giáo viên nhớ lâu và tự tin hơn khi
giao tiếp với mọi người sung quanh, không còn cảm giác sợ hãi khi tiếp xúc với lãnh
đạo. Đối với học sinh được thể hiện vai trò của người anh với người em, giúp cho trẻ
biết chia sẻ trong hoạt động và đặc biệt khơi dậy trong trẻ tính nhấn nại, lòng bao
dung, sự độ lượng và tinh thần hợp tác.
3. Thực hiện công tác truyền thông cho phụ huynh:
Để tạo sự tin tưởng và thu hút sự tham gia của phụ huynh vào các hoạt động

giáo dục vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường cho trẻ giáo viên cần: Lắng nghe ý
kiến của cha mẹ trẻ, chủ động xây dựng mối quan hệ tốt với phụ huynh, sẵn sàng tư
vấn và giúp đỡ các kiến thức về giáo dục vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường cho
trẻ khi có gia đình yêu cầu.
12
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
Cần thông tin đầy đủ cho cha mẹ trẻ về chương trình giáo dục vệ sinh cá nhân
và vệ sinh môi trường tại lớp học bằng hình thức: Họp phụ huynh học sinh, trao đổi
với các hội trưởng hội phụ huynh.
Đối với các cháu đến lớp lần đầu cô giáo chúng ta thông báo cho phụ huynh
biết rõ về các hoạt động của lớp trong một ngày và nắm bắt các thông tin của trẻ một
cách cụ thể.
Trên thực tế phụ huynh chưa biết cách thực hiện các thao tác vệ sinh đúng theo
quy trình, các thao tác vệ sinh của phụ huynh chỉ mang tính tượng trưng. Vậy làm thế
nào để phụ huynh thực hiện thao tác vệ sinh khoa học? Để trả lời được câu hỏi đó tôi
đã mạnh dạn tổ chức một buổi truyền thông cho phụ huynh học sinh toàn xã như sau:
Phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhà trường chuẩn bị các điều kiện
về cơ sở vật chất, mời phụ huynh học sinh tham gia.
Thời gian: ½ ngày.
Địa điểm: Sân trường khu trung tâm trường mầm non Nà Tăm.
Thanh phần: Ban giám hiệu, giáo viên, đại diện phụ huynh các bản( Mỗi bản 10
phụ huynh và mười cháu học sinh).
Nội dung:
- Phân công người hướng dẫn các thao tác vệ sinh cho phụ huynh.
- Tiến hành truyền thông:
+ Chương trình văn nghệ chào mừng ( Các tiết mục có nội dung về vệ sinh).
+ Trao đổi với các phụ huynh về các thời điểm cần vệ sinh trong ngày.
+ Hướng dẫn các thao tác vệ sinh thông thường ( rửa tay, rửa mặt ).
+ Chọn nhóm phụ huynh và học sinh lên thực hành.
+ Nhận xét buổi truyền thông, trao quà cho bản thực hành tốt và chính xác.

13
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
- Kết thúc: Thông qua hoạt động truyền thông tôi nhận thấy kết quả rõ rệt phụ
huynh học sinh rất phấn khởi, nắm được quy trình rửa tay, rửa mặt và cách phòng
tránh một số bệnh lây truyền, biết cách hướng dẫn con thực hiện một số thao tác vệ
sinh và điều đặc biệt qua buổi truyền thông nhận được rất nhiều sự tán dương của phụ
huynh, họ nhiệt tình tham gia.
4. Chuẩn bị môi trường giáo dục:
Toàn ngành giáo dục đang thực hiện phong trào "Xây dựng trường lớp học
thân thiện học sinh tích cực ", thực hiện tốt nội dung “Ba đủ” cho học sinh. Việc
làm đó rất quan trọng và cần thiết trong trường mầm non. Trước thực trạng lớp học
còn thiếu ( Học nhờ và mượn ), diện tích không đảm bảo. Đồ dùng đồ chơi còn nghèo
nàn, thiếu thốn. Vậy làm thế nào để lớp học trở nên thân thiện, gần gũi với trẻ? Trước
tiên tôi chỉ đạo chuyên môn nhà trường cùng giáo viên thực hiện nghiêm túc công tác
vệ sinh nhóm lớp hàng ngày, tạo môi trường xanh - sạch - đẹp. Sau đó hướng dẫn
giáo viên cách trang trí các góc hoạt động theo chủ đề ( Hướng dẫn trong buổi sinh
hoạt chuyên môn, hướng dẫn trong khi thực hiện công tác kiểm tra cùng chuyên
môn ) đảm bảo cô và trẻ cùng được thực hiện. Các đồ dùng trang trí không đòi hỏi
tính thẩm mỹ cao, chất lượng tốt, mà chỉ cần có bàn tay của trẻ tham gia. Nhưng phải
đảm bảo hấp dẫn ( Thay đổi theo từng ngày, từng tuần ). Có nghĩa là mỗi ngày đến
trường của trẻ là một ngày mới.
Trẻ đến lớp ngoài việc chuẩn bị đồ dùng học tập cho trẻ ra giáo viên còn phải
đặc biệt chú ý tới đồ dùng cá nhân của trẻ. Cô phải chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho sinh
hoạt của trẻ thật chu đáo, đảm bảo mỗi trẻ có một bộ đồ dùng riêng, đồ dùng đảm bảo
tính thẩm mỹ đối với trẻ mầm non ( mầu sắc, sự ngộ nghĩnh, tính nhân cách hoá ).
Nhưng trong thực tế việc cung cấp đồ dùng cho trẻ gặp rất nhiều khó khăn cho cô
giáo trong lớp: Phụ huynh học sinh là nguồn cung cấp đầu tiên nhưng phụ huynh lại
không hiểu hết vai trò của việc làm công tác vệ sinh cho trẻ hàng ngày. Nắm được
thực trạng đó tôi chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp hàng ngày trao đổi với phụ huynh,
14

Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
trò chuyện với phụ huynh về tác dụng của việc sử dụng dụng cụ khi cho trẻ vệ sinh.
Tổ chức cho học sinh thường xuyên sử dụng dụng cụ vệ sinh, bạn nào sử dụng tốt
được cô tuyên dương, khen gợi và ngược lại. Bạn nào có đồ dùng vệ sinh đẹp được cô
cho cả lớp quan sát và khen gợi. Thông qua các hoạt động như vậy tôi thấy phụ huynh
quan tâm hơn tới con, trẻ có sự ganh đua với các bạn.
Để thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi
trường cho trẻ các cô giáo chúng ta cần thực hiện tốt công tác phối kết hợp với các
bậc phụ huynh nhất là trong việc chăm sóc trẻ khỏe mạnh, dạy trẻ biết giữ vệ sinh
thân thể, rửa tay, tắm gội, đánh răng và tự mình thực hiện một số công việc bảo vệ
môi trường như: Không bỏ rác bừa bải trong nhà, biết thu dọn đồ dùng, đồ chơi sau
khi chơi xong
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Bằng sự nỗ lực và quyết tâm của bản thân, bằng sự giúp đỡ ủng hộ tận tình của
tập thể sư phạm nhà trường sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của mình đã đạt
được kết quả như sau:
* Đối với giáo viên: ( 02 giáo viên)
Tôi tiến hành phát phiếu khảo sát cho giáo viên cuối năm.
Bảng 4: Kết quả cuối năm
Stt Nội dung khảo sát
Đánh giá
Tốt Khá TB Yếu
1 Nội dung giáo dục vệ sinh cho trẻ. 1 1
2 Khi nào cần tổ chức cho trẻ vệ sinh. 2
3 Đồ dùng vệ sinh 1 1
4
Quy trình hướng dẫn trẻ vệ sinh ( rửa tay, rửa
mặt, chải tóc, cất đồ dùng đồ chơi )
1 1
15

Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
5 Công tác phối hợp với phụ huynh học sinh 1 1
6
Nhu cầu của giáo viên với công tác giáo dục vệ
sinh cho trẻ trong trường mầm non.
1 1
Qua bảng tổng hợp trên ta thấy: Giáo viên đã nắm chắc được nội dung giáo dục
vệ sinh, thời gian vệ sinh, đồ dùng vệ sinh, quy trình thực hiện các thao tác vệ sinh,
cho trẻ. Biết được nhu cầu cần phối hợp với phụ huynh và nhu cầu thiết yếu của cô
giáo khi thực hiện công tác giáo dục vệ sinh cho trẻ. Như vậy càng khảng định rằng
kiến thức không rễ dàng có được mà nó phải chải qua thời gian tập luyện, học tập
nghiên cứu và điều đặc biệt là sự động viên kịp thời, sự tán dương của đồng nghiệp và
sự ghi nhận kết quả đạt được của tập thể.
* Đối với phụ huynh: ( 29 phụ huynh)
Tôi tiến hành phát phiếu khảo sát phụ huynh cuối năm.
Bảng 5: Kết quả cuối năm
Stt Nội dung khảo sát
Đánh giá
Tốt Khá TB Yếu
1 Thời gian vệ sinh trong ngày 9 11 9 0
2 Đồ dùng vệ sinh 8 11 9 1
3 Đồ dùng vệ sinh sử dụng chung hay riêng 15 10 4 0
4 Quy trình vệ sinh 6 8 9 6
5 Công tác phối hợp cùng giáo viên 3 7 14 5
Đánh giá:
Qua thời gian tiếp xúc, trao đổi, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của phụ huynh từ
đó đưa các giải pháp cụ thể đối với các bậc phụ huynh ta thấy: ý thức của phụ huynh
đã thay đổi rõ rệt từ chỗ có nhiều phụ huynh chưa nắm được thời điểm vệ sinh trong
ngày, chưa xác định được các dụng cụ vệ sinh, đồ dùng nên dùng chung hay riêng,
16

Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
các bước thực hiện quy trình rửa tay, công tác phối hợp với giáo viên là gì. Mà đến
nay đã có tương đối các bậc phụ huynh nắm rất chắc quy trình vệ sinh, các thời điểm
cần vệ sinh trong ngày Như vậy để đạt được hiệu quả trong công tác tuyên truyền
cho phụ huynh ta nên cho phụ huynh cùng tham gia vào các hoạt động, chho họ được
chứng kiến được thực hành thì họ mới hiểu được nhiệm vụ giáo dục của trẻ em trong
trường mầm non.
* Đối với học sinh: Tôi chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm lớp tổ chức các hoạt
động vệ sinh (Theo nội dung tôi xây dựng) cho trẻ. Các cháu hoạt động theo trình tự
thời gian và chia theo nhóm kết quả đạt được như sau:
Bảng 6: Kết quả cuối năm
( Có bảng phụ lục kèm theo)
Qua quá trình chăm sóc giáo dục trẻ, tôi đánh giá kết quả đạt được như sau:
Về mức độ thói quen vệ sinh rửa tay: Trẻ đã biết khi nào phải rửa tay, rửa tay
để làm gí, trẻ năm tuổi và một số trẻ bốn tuổi rửa tay thành thao theo đúng quy trình,
còn trẻ ba tuổi và một số trẻ bốn tuổi thao tác còn vụng về đôi khi còn bỏ bước do sợ
không làm kịp các anh chị, do còn nhút nhát.
Mức độ thói quen rửa mặt: Một số trẻ thực hiện rất tốt thao tác rửa mặt biết vì
sao phải rửa mặt. Song đa số trẻ ba tuổi còn lúng túng khi sử dụng khăn mặt để rửa
mặt, chưa biết vắt khăn và vắt nước không cạn. Do trẻ còn nhỏ, tay còn vụng về, non
nớt.
Mức độ thói quen chải tóc: Trẻ rất thích được chải tóc và đặc biệt là chải tóc
cho mình khi đứng trước gương. Do vậy thao tác chải tóc trẻ thực hiện rất thành thục,
nhưng thao tác buộc tóc thì trẻ còn lúng túng vì dây buộc, một số trẻ trai do sấu hổ với
bạn.
17
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
Mức độ thói quen mặc quần áo: Trẻ đã biết lựa chọn đồ đẹp cho mình do vậy
việc mặc quần áo với trẻ trẻ rất thích và mặc rất nhanh, biết lựa chọn trang phục cho
từng mùa và biết khi nào cần cởi quần áo.

Mức độ thói quen cất đồ dùng: Đồ dùng là nhu cầu thiết yếu khi trẻ đến lớp
do vậy trẻ thích ứng nhanh với việc sắp xếp đồ dùng, cất đồ dùng gọn gàng. Nếu trẻ
không tự vận động thì hôm sau khi tham gia chơi trẻ sẽ không có đồ chơi để hoạt
động
Mức độ thói quen ăn uống vệ sinh: Đa số trẻ đã biết ăn như thế nào là vệ sinh,
biết mời khi ăn
Như vậy qua một vài biện pháp tác động tới giáo viên và phụ huynh đặc biệt là
các cháu học sinh ta nhận thấy kết quả có sự thay đổi rõ ràng. Giáo viên thì nắm chắc
phương pháp, được trang bị đầy đủ kiến thức, phụ huynh hiểu rõ hơn về nhiệm vụ dạy
học của các cô giáo mầm non. Học sinh được trải nghiệm, được cung cấp kiến thức.
PHẦN KẾT LUẬN
I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh cho trẻ là một việc làm rất quan trọng vì đây
là yếu tố cần thiết nhất để giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
1. Đối với giáo viên:
Cô giáo phải xây dựng kế hoạch cho mình ngay từ đầu năm học.
Cô giáo cần giáo dục đầy đủ tất cả các nội dung giáo dục thói quen vệ sinh cho
trẻ thường xuyên liên tục ở mọi lúc, mọi nơi.
Phải thực hiện đúng quy trình, trình tự các thao tác từ chăm sóc giáo dục vệ
sinh cho trẻ.
Cô giáo phải gần gũi, qua tâm động viên trẻ thích làm.
18
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
Phải luôn phấn đấu học tập không ngừng ở đồng nghiệp, trên tài liệu, trên thông
tin đại chúng.
Phải sáng tạo linh hoạt trong các thao tác, hướng dẫn trẻ thật tỉ mỉ, kiên trì.
Phải thường xuyên có ý kiến tham mưu, đề xuất với lãnh đạo nhà trường kịp
thời.
2. Đối với ban giám hiệu:
Phải chỉ đạo thường xuyên công tác vệ sinh cho trẻ tới toàn thể cán bộ giáo viên

và nhân viên trong toàn trường.
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn, phối kết hợp chặt chẽ với phụ
huynh trong việc giáo dục hình thành thói quen vệ sinh cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi một
cách thường xuyên và liên tục.
Phải nắm chắc các kiến thức cơ bản về vệ sinh cá nhân cho trẻ.
II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Sáng kiến kinh nghiệm "Một số biên pháp chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác
giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ tại lớp Mẫu giáo lớn trung tâm trường mầm non
Nà Tăm " Góp phần thay đổi ý thức của giáo viên trong công tác giáo dục vệ sinh cá
nhân cho trẻ, nâng cao ý thức của phụ huynh học sinh trong việc giáo dục vệ sinh cá
nhân cho con không những ở trường mà còn ở nhà. Nhằm giúp cho trẻ có sức khoẻ
tốt, có thói quen tự phục vụ không những ở trường mà còn ở nhà.
III. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG, TRIỂN KHAI
Khi áp dụng biện pháp làm tốt công tác vệ sinh cá nhân cho trẻ ở trường mầm
non Nà Tăm tôi thấy đem lại kết quả rõ rệt. Bắt đầu tôi nghiên cứu và áp dụng tại lớp
mẫu giáo lớn trung tâm đây là lớp có điều kiện ăn ngủ và địa bàn thuận lợi tôi thấy tỷ
lệ trẻ biết thực hiên các thao tác vệ sinh đạt rất tốt. Sau khi rút ra kinh nghiệm và
những hạn chế tôi mạnh dạn áp dụng rộng rãi ở tất cả trẻ mẫu giáo trong toàn trường
tính khả thi rất cao và còn có thể áp dụng với tất cả các lớp có trẻ dân tộc đi học.
19
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1. Đối với giáo viên:
Đề việc "giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh cho trẻ lớp mẫu giáo lớn trung tâm
trường Mầm Non Nà Tăm" đạt kết quả cao cần tập chung vào những yêu cầu cụ thể
sau:
Phải xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động hướng dẫn trẻ vệ sinh hàng
ngày, các hoạt động lao động vệ sinh trường lớp, đồ dùng đồ chơi.
Phải thực hiện các thao tác hướng dẫn trẻ vệ sinh đúng quy trình, đúng thời gian
quy định.

Phải thường xuyên vệ sinh đồ dùng của nhóm lớp, đặc biệt là đồ dùng vệ sinh
cá nhân trẻ.
Phải thường xuyên phối kết hợp với gia đình học sinh để thống nhất nội dung
phương pháp, biện pháp giáo dục vệ sinh cho trẻ.
Phải thường xuyên trao đổi với phụ huynh về nội dung giáo dục vệ sinh cho trẻ.
2. Đối với chính quyền địa phương:
Bố trí quỹ đất cho nhà trường ở nơi thoáng mát, sạch sẽ, khuôn viên rộng, có
nguồn nước.
Khen thưởng kịp thời cho các hộ gia đình có nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, có
nếp sống văn minh.
3. Đối với Phòng giáo dục và Đào tạo:
Xây dựng các điểm trường ở nơi có nguồn nước, thuận tiện đi lại, có đủ công
trình vệ sinh, các công trình vệ sinh được xây dựng khép kín, đúng quy cách của
trường mầm non.
Cung cấp đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho việc sinh hoạt cho các cháu.
20
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
Thường xuyên mở các lớp tập huấn cho giáo viên học hỏi kinh nghiệm về
chuyên đề vệ sinh.
Ngày 30 tháng 03 năm 2012
Người viết
Nguyễn Thị Đào
21
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí giáo dục Mầm non.
Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ.
Tài liệu bồi dưỡng chuyên môn của Phòng giáo dục và Đào tạo huyện.
Sách tâm lí học.
Mục lục

Nội dung Trang
A. Phần mở đầu 1
22
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
I. Lý do chọn đề tài 1-2
II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 2
III. Mục đích nghiên cứu 2
IV. Điểm đổi mới trong kết quả nghiên cứu 2
V. Phần nội dung 2- 18
I. Cơ sở lý luận 2 - 5
II. Thực trạng của vấn đề 4 -
1. Điều kiện thuận lợi 5
2. Điều kiện khó khăn 5
3. Thực trạng 5 - 9
III. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề 9 - 15
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 15 - 18
C. Phần kết luận 18 - 21
I. Bài học kinh nghiệm 18 - 19
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm 19
III. Khả năng ứng dụng và phát triển 19
IV. Kiến nghị và đề xuất 20 - 21
ĐÁNH GIÁ CỦA HĐGD CẤP TRƯỜNG
23
Nguyễn Thị Đào Trường Mầm non Nà Tăm
ĐÁNH GIÁ CỦA HĐGD CẤP HUYỆN
24

×