Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC VÀ ĐỊA VỊ LỊCH SỬ CỦA NÓ QUA TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC GIAI ĐOẠN TỘT CÙNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN”.Ý NGHĨA TRONG XEM XÉT CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.15 KB, 21 trang )

1
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
VÀ ĐỊA VỊ LỊCH SỬ CỦA NÓ QUA TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
GIAI ĐOẠN TỘT CÙNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN”.Ý NGHĨA TRONG
XEM XÉT CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY.
1. hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
1.1về mặt kinh tế.
Vào những năm cuối của thế kỷ 19 lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản phát
triển mạnh mẽ, nhiều thành tựu kinh tế mới trong chủ nghĩa tư bản nói riêng, nhân
loại nói chung đã xuất hiện các lị luyện kim thế hệ mới trong lĩnh vực luyện kim;
những máy móc mới như máy phay, máy phát điện, các máy công cụ, máy phát
điện v.v…trong lĩnh vực chế tạo máy.trong lĩnh vực vận tải, đi cùng sự xuất hiện
các loại động cơ, nhiều loại phương tiện vân tải mới đã xuất hiện như tàu hoả, tàu
thuỷ, xe hơi, xe điện, máy bay. Chính sự xuất hiện của lĩnh vực trên, một mặt làm
xuất hiện những ngành sản xuất mới có quy mơ lớn, mặt khác đã thúc đẩy năng
xuất lao động tăng nhanh và thúc đẩy việc tăng quy mơ tích luỹ tư bản , thúc đẩy
sản xuất quy mô lớn phát triển. Từ những tác động trên dẫn tới hệ quả là ở các
nước tư bản phát triển xuất hiện những xí nghiệp quy mơ hết sức to lớn ở hầu hết
các lĩnh vực của nền kinh tế. Trước sự phát triển đó của lực lượng sản xuất thì
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng biến đổi phù hợp, từ đó làm cho chủ nghĩa
tư bản mang những đặc điểm kinh tế mới. Nền kinh tế khơng cịn hoạt động theo
những quy luật khách quan của thị trường, nhiều tổ chức độc quyền đã ra đời như
các Tờ rớt, xanh-đi-ca. Đó là các cơ sở kinh tế cho sự ra đời của một hình thái mới
của chủ nghĩa tư bản. Từ đó có nhiều cách gọi khác nhau về chủ nghĩa tư bản trong
giai đoạn này. Cauxky cho nó là một phương thức sản xuất mới mà ở đó những đặc
tính của chủ nghĩa tư bản khơng cịn, Hin-fec-đin lại cho rằng chủ nghĩa đế quốc là
một chính sách của một giai đoạn kinh tế của tư bản tài chính, cịn Lipman và một
số học giả khác thì mơ tả chủ nghĩa đế quốc như một thứ chủ nghĩa tư bản đặc thù
và gọi là chủ nghĩa tư bản có tổ chức.
1.2.Về mặt chính trị tư tưởng.



2
Cuộc đấu tranh giữa các nước tư bản chủ nghĩa đã làm cho các mâu thuẫn của chủ
nghĩa đế quốc tăng lên và trở lên cực kỳ gay gắt. Chính điều đó đã dẫn đến cách
mạng vơ sản trở thành một nhu cầu cấp thiết.
Sau khi ăngghen mất, các phần tử cơ hội mà tiêu biểu là Cauxky, Minlơzăng, Henđman đã từng là những học trị của C.Mác nay hồn toàn rời bỏ các nguyên lý của
chủ nghĩa Mác và lợi ích của giai cấp vơ sản, đồng thời những người này lại đang
chiếm quyền lãnh đạo của quốc tế II; chúng ra sức truyền bá chủ nghĩa cơ hội, hữu
khuynh, chủ nghĩa cải lương trong phong trào công nhân quốc tế. Xung quanh vấn
đề chiến tranh và hồ bình các phần tử này đã phản bội lại lợi ích của giai cấp công
nhân, chúng ra sức tuyên truyền để xố nhồ ranh giới giữa chiến tranh chính
nghĩa, chiến tranh giải phóng với chiến tranh đế quốc do chủ nghĩa tư bản gây ra.
Trước tình hình đó, vì lợi ích của giai cấp vơ sản nói chung và phong trào cộng sản
nói riêng đang lớn lên mạnh mẽ trên tồn thế giới; Lê-nin cho rằng muốn lãnh đạo
phong trào cách mạng thế giới, đấu tranh có hiệu quả chống lại các hệ tư tưởng của
các thế lực phản động cần có sự phân tích sâu sắc khoa học về bản chất kinh tế,
bản chất chính trị của chủ nghĩa đế quốc.
1.3.

Quá trình ra đời của tác phẩm.

Để chuẩn bị cho sự ra đời của tác phẩm, ngay từ những năm 1895-1913, Lê-nin đã
nêu lên các hiện tượng kinh tế mới trong chủ nghĩa tư bản như: tập trung sản xuất
và sự phát triển của các tổ chức độc quyền, vấn đề xuất khẩu tư bản, hoạt động
chiến tranh xâm chiếm thị trường và phạm vi ảnh hưởng mới, hiện tượng quốc tế
hoá các quan hệ kinh tế , hay mâu thuẫn giữa tư bản và lao động.
Khi chiến tranh thứ nhất bắt đầu Lê-nin chính thức bắt đầu nghiên cứu toàn diện sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn độc quyền. Lê-nin trực tiếp bắt tay
nghiên cứu sách báo nói về chủ nghĩa đế quốc từ giữa năm 1915 lúc người ở
Béclơ-Thuỵ sĩ. Người bắt đầu vạch ra các bảng chỉ dẫn sách báo, vạch ra các dàn

bài,ghi chép và đánh dấu các nhận định , viết các bản ghi tóm tắt v.v… Tồn bộ sự
chuẩn bị chu đáo của Lê-nin về chủ nghĩa đế quốc được tập trung trong cuốn: Bút
ký về chủ nghĩa đế quốc. Đến đầu tháng giêng năm 1916 Lê-nin nhận lời viết một


3
cuốn sách về chủ nghĩa đế quốc cho nhà xuất bản “cánh buồm”, được thành lập
năm 1915 tại Btrôgrat. Ngày 19 tháng 6 năm 1916 ông gửi bản thảo cho nhà xuất
bản và đến giữa năm 1917 cuốn sách được xuất bản với tiêu đề “ Chủ nghĩa đế
quốc giai đoạn mới nhất của chủ nghĩa tư bản (khái lược phổ thông)”. Trong cuốn
này lời tựa đề ngày 26 tháng 4 năm 1917. Đến năm 1921 tác phẩm được xuất bản
bằng hai thứ tiếng là tiếng Đức và tiếng Pháp với tiêu đề: “ Chủ nghĩa đế quốc giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” , tác phẩm được dịch ra tiếng Việt và xuất bản
đầu tiên năm 1950 và sau đó in lại nhiều lần.
2. Những đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa đế quốc.
Những đặc điểm kinh tê của chủ nghĩa đế quốc được Lê-nin phân tích trong 6
chương, từ chương 1 đến chương 6 của tác phẩm. 5 đặc điểm đó là:
2.1.Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền.
Tồn bộ chương I nói về sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền, Lênin
dùng số liệu thu thập được ở một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển như: ( Đức,
Anh, Mỹ) để chứng minh rằng, tập trung sản xuất là một trong những đặc điểm
điển hình nhất của chủ nghĩa tư bản trong những năm cuối thế kỷ XIX, dựa vào
những lý luận của Mác khi phân tích chủ nghĩa tư bản về mặt lý luận và lịch sử để
chứng minh cho nhận định của Mác rằng: Tự do cạnh tranh dẫn đến tập trung sản
xuất và khi tập trung sản xuất đến một mức độ nhất định sẽ dẫn đến độc quyền từ
đó Lênin khẳng định, tập trung sản xuất dẫn đến sự ra đời của tổ chức độc quyền là
quy luật phổ biến và căn bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Lênin cũng chỉ ra lịch sử hình thành của các tổ chức độc quyền đó là sự vận động
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ mầm mống đến phổ biến, từ sản xuất
đến lưu thơng. Ơng cũng phân tích mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh, chỉ

rõ độc quyền sinh ra từ cạnh tranh, nhưng không thủ tiêu được cạnh tranh mà trái
lại càng làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Lênin cũng phân tích các thủ đoạn
chiến tranh mà các tổ chức độc quyền sử dụng, trên cơ sở đó Ơng phê phán Cauxki
khi cho rằng độc quyền ra đời sẽ thủ tiêu cạnh tranh và sẽ khơng cịn khủng hoảng
kinh tế nữa.


4
2.2 Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính.
Trong chương II và chương III, thơng qua các số liệu thu thập được, Lênin đã phân
tích q trình tích tụ, tập trung sản xuất trong lĩnh vực ngân hàng và sự ra đời của
độc quyền ngân hàng ở các nước tư bản phát triển Pháp, Đức, Anh, đi sâu phân
tích vai trị mới của ngân hàng và chỉ rõ khi độc quyền ngân hàng ra đời thì ngân
hàng có vai trò mới là: từ chỗ ngân hàng giữ vai trò trung gian trong các hoạt động
giao dịch tiền tệ, đã trở thành kẻ nắm hầu hết số tiền tệ trong xã hội, ngân hàng trở
thành người có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế xã hội; ngân
hàng chuyển từ sự phụ thuộc vào công nghiệp trở thành mối quan hệ gắn bó,
khống chế và thâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản cơng nghiệp,
từ đó hình thành một loại hình tư bản mới gọi là tư bản tài chính. Tư bản tài chính
là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc quyền trong ngân hàng và
tư bản độc quyền trong cơng nghiệp.
Lênin đã phân tích vai trị và cơ chế thống trị của tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài
chính đối với đời sống kinh tế- chính trị của các nước đế quốc.bọn đầu sỏ tài chính
thực hiện sự thống trị của mình bằng chế độ tham dư. Thực chất của chế độ tham
dự là nhà tư bản tài chính lớn hoặc một tập đồn tài chính nhờ nắm được số cổ
phiếu khống chế và chi phối được công ty gốc hay “công ty mẹ”, rồi công ty mẹ lại
chi phối các công ty trực thuộc hay các “công ty con”, các công ty con lại chi phối
các “công ty cháu” v.v...Bởi vậy, với một số tư bản nhất định, một nhà tư bản tài
chính có thể chi phối những lĩnh vực sản xuất rất lớn.


2.3.Xuất khẩu tư bản
Trong chương IV Lênin chỉ rõ xuất khẩu tư bản là đặc điểm điển hình của chủ
nghĩa tư bản trong giai đoạn độc quyền. Trong giai đoạn trước độc quyền cũng có
xuất khẩu tư bản, nhưng đó mới chỉ là hiện tượng cá biệt với quy mô hạn chế. Chỉ
đến giai đoạn độc quyền xuất khẩu tư bản mới trở thành một đặc trưng phổ biến ,
mới thành một hình thức quan hệ kinh tế đối ngoại ưu thế của các nhóm độc quyền
tài chính và của nhà nước tư sản. Mặc dù vậy, như thế không có nghĩa là đến giai


5
đoạn này khơng cịn tồn tại xuất khẩu hàng hố nữa. Trái lại, xuất khẩu tư bản còn
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá phát triển. Tuy nhiên điều khác biệt ở đây là, trong
thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thì xuất khẩu hàng hố là đặc điểm chủ
yếu còn xuất khẩu tư bản dường như chưa diễn ra mà mới chỉ ở dạng manh nha.
Nhưng đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến,
xuất khẩu hàng hoá chỉ là song hành mà thơi. Lênin cũng chứng minh về tính tất
yếu của xuất khẩu tư bản, chỉ ra 2 nguyên nhân của xuất khẩu tư bản là do hiện tượng “thừa tư bản” trong các nước tư bản phát triển; tình trạng thừa này khơng phải
là thừa tuyệt đối mà chỉ là thừa thừa tương đối, nghĩa là khơng tìm được nơi đầu tư
có lợi nhuận cao ở trong nước. Mặt khác, do các nước chậm phát triển bị lôi cuốn
vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản thế giới, nhưng ở những nước này lại thiếu tư
bản dẫn đến xuất khẩu tư bản ra đời và phát triển. Lênin cũng phân tích các hình
thức xuất khẩu tư bản, có thể phân chia thành xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất
khẩu tư bản gián tiếp. Xuất khẩu tư bản tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra nước
ngoài để kinh doanh trực tiếp, thu lợi nhuận cao. Xuất khẩu tư bản gián tiếp là cho
vay để thu lợi tức.
Việc xuất khẩu tư bản chính là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra
nước ngoài; là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính
trên phạm vi tồn thế giới. Hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới hình thành
trước hết dưới tác động của xuất khẩu tư bản, đã trở thành hệ thống nô dịch của tư
bản tài chính trên phạm vi tồn thế giới. Các nước nhập khẩu tư bản trở thành đối

tượng bị bóc lột về kinh tế, nơ dịch về chính trị dưới những hình thức và mức độ
khác nhau; xuất khẩu tư bản chính là xuất khẩu sự bóc lột, bóc lột bình phương đối
với các nước nhập khẩu. Tuy nhiên xuất khẩu tư bản, về khách quan cũng có
những tác động tích cực đối với nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá
trình chuyển kinh tế tự cung tự cấp thành kinh tế hành hoá, thúc đẩy sự chuyển
biến cơ cấu kinh tế từ cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế nông-công
nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què quặt, lệ thuộc vào nền kinh tế của các nước
xuất khẩu tư bản.


6
2.4.Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của các nhà tư bản.
Chương V, nói về sự phân chia thị trường giữa các liên minh của bọn tư bản. Lênin
phân tích q trình ra đời của các tổ chức độc quyền quốc tế và chỉ rõ: Sự ra đời
của các tổ chức độc quyền quốc tế là kết quả tất yếu của sự tập trung tư bản, tập
trung sản xuất trên phạm vi thế giới. Dưới chủ nghĩa tư bản thị trường trong nước
luôn luôn gắn với th trường nước ngoài. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cuộc
đấu tranh phân chia thị trường thế giới của các tổ chức độc quyền quốc gia có sức
mạnh kinh tế hùng hậu, lại được sự ủng hộ của nhà nước “của mình”diễn ra hết sức
khốc liệt, tất yếu dẫn tới xu hướng thoả hiệp, ký kết các hiệp định để củng cố thị
trường của chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định.Từ đó đẫn
đến việc hình hành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica,
tơrớt quốc tế.
Tư bản độc quyền quốc tế ra đời không những không thủ tiêu cạnh tranh mà trái lại
càng làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Lênin cũng phê phán quan điểm
sai trái của Cauxki khi Ông ta cho rằng: Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, giữa các
dân tộc có thể hồ bình, xong trên thực tế không phải như vậy.
2.5. Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc.
Lợi ích của việc xuất khẩu tư bản thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm chiếm
thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa, rễ ràng loại trừ được các đối thủ cạnh tranh,

dễ ràng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ.
Chương VI của tác phẩm nói về việc phân chia thế giới giữa các đại cường quốc.
Thông qua việc dẫn ra các số liệu, Lênin đã chứng minh dưới thời kỳ đế quốc,
chạy đua vũ trang, xâm chiếm thuộc địa và các cuộc đấu tranh để phân chia lại
thuộc địa hay lãnh thổ chính trị thế giới là một tất yếu. Ơng chỉ rõ chủ nghĩa thực
dân là sản phẩm tất yếu của chủ nghĩa đế quốc. Thực chất của việc phân chia thế
giới về mặt lãnh thổ là : các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm các nước chậm
phát triển để làm thuộc địa nhằm giành độc quyề thị trường tiêu thụ hàng hoá,
nguồn nguyên liệu, nơi đầu tư tư bản có lợi và căn cứ quân sự. Đến cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, các nước đế quốc đã hoàn thành việc phân chia thế giới về


7
mặt lãnh thổ. Nhưng sự phân chia đó rất khơng, đồng thời các nước có tốc độ phát
triển kinh tế cao hơn như Đức, Nhật v.v.. dẫn tới việc đấu tranh nhằm đòi phân
chia lại lãnh thổ thế giới. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất là sự khởi đầu cho
việc giải quyết phân chia lãnh thổ thế giới bằng quân sự giữa các nước đế quốc có
tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh.
Tóm lại trong tác phẩm này, sau khi phân tích những hiện tượng mới trong sự phát
triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản đương đại (05 đặc điểm trên), Lênin cho rằng
chủ nghĩa đế quốc chỉ là sự phát triển và kế tục trực tiếp những đặc tính cơ bản của
chủ nghĩa tư bản và nhấn mạnh rằng: “ Chủ nghĩa tư bản chỉ trở thành đế quốc khi
nó đã đạt tới một giai đoạn phát triển nhất định, rất cao, khi một số những đặc tính
cơ bản của chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu biến thành những đặc tính trái ngược với
những đặc tính đó…Điều căn bản về mặt kinh tế trong q trình này là việc những
cơng ty độc quyền tư bản chủ nghĩa đã thay thế cho cạnh tranh tự do tư bản chủ
nghĩa” 1.
Như vậy, chủ nghĩa đế quốc chỉ được xác lập và hình thành khi độc quyền thay thế
cạnh tranh tự do và thống trị các quan hệ kinh tế- xã hội, chứ không phải là sự phủ
định hồn tồn cạnh tranh tự do. Độc quyền chỉ có thể thay thế cạnh tranh chứ

không thể thủ tiêu được cạnh tranh.
3. Địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc và ý nghĩa của nó trong xem xét chủ
nghĩa tư bản ngày nay.
Khái quát về chủ nghĩa đế quốc, Lênin nêu lên ba định nghĩa về chủ nghĩa đế quốc.
Lúc đầu, Lênin định nghĩa: “ Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn độc quyền của chủ
nghĩa tư bản”2
Với định nghĩa này đã bao hàm cái căn bản nhất của chủ nghĩa đế quốc, phân biệt
chủ nghĩa đế quốc với giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do.
Tuy nhiên, để đầy đủ hơn Ông đã nêu lên định nghĩa thứ 2 đó là sự cụ thể hoá về
mặt kinh tế qua 5 dấu hiệu của chủ nghĩa đế quốc: “ Chủ nghĩa đế quốc là chủ
nghĩa tư bản đạt đến một giai đoạn phát triển. Trong đó, sự thống trị của các tổ
1

V.I Lênin tồn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 27, Tr 488

V.I Lênin toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 489

2


8
chức độc quyền và của tư bản tài chính đã được xác lập, việc xuất khẩu tư bản đã
có một ý nghĩa nổi bật, sự phân chia thế giới đã bắt đầu được tiến hành giữa các
tơ rớt quốc tế và sự phân chia toàn bộ đất đai trên thế giới giữa những nước tư
bản lớn nhất đã kết thúc”. 3
Định nghĩa này đã nêu rõ được 5 đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc,
song đó mới chỉ xác định được thuần tuý về mặt kinh tế. Vì vậy, Lênin cịn đưa ra
định nghĩa chủ nghĩa đế quốc xét cả địa vị lịch sử cùng những mối quan hệ của nó
với những xu hướng vận động căn bản. Theo đó, chủ nghĩa đế quốc tiêu biểu cho
một giai đoạn phát triển đặc biệt của chủ nghĩa tư bản, điều đó được thể hiện rõ

trên 3 mặt:
Thứ nhất, Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Thứ hai, Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản ăn bám và thối nát.
Thứ ba, Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản đang hấp hối, là đêm trước của
cuộc cách mạng vơ sản.
Những đặc tính cơ bản nêu trên cũng chính là kết luận của Lênin về địa vị
lịch sử của chủ nghĩa đế quốc. Từ sự phát triển không đồng đều làm thay đổi so
sánh lực lượng giữa các nước đế quốc, mâu thuẫn với tình hình phân chia thế giới
lúc đó là ngun nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh đòi chia lại thế giới đã chia
xong, điều đó làm suy yếu lực lượng của chủ nghĩa đế quốc và tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho cách mạng vô sản nổ ra ở các nước khác nhau vì vậy: Chủ nghĩa
xã hội có thể thắng lợi trước hết là trong một số nước tư bản chủ nghĩa, thậm chí
chỉ trong một nước tư bản chủ nghĩa, tách riêng ra mà nói.
Đặc tính thứ ba và cũng là kết luận của Lênin về địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế
quốc: chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản đang hấp hối, là đêm trước của cách
mạng vô sản. Do bản chất kinh tế của chủ nghĩa đế quốc là độc quyền, vì vậy, chủ
nghĩa đế quốc khơng chỉ là ăn bám và thối nát, mà còn là: “ Chủ nghĩa tư bản quá
độ, hay nói cho đúng hơn, chủ nghĩa tư bản đang hấp hối”4. Điều đó có nghĩa là
chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản đã phát triển tới đỉnh cao của nó, tất yếu
3
4

V.I Lênin tồn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 489, 490
V.I Lênin toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 531,538


9
phải diệt vong nhường chỗ cho một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn đó là:
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính chủ nghĩa đế quốc làm cho nền sản
xuất xã hội hoá cao, đồng thời cũng làm cho mâu thuẫn cơ bản của nó phát triển

đến tột độ, làm bùng nổ cách mạng vô sản để xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
đế quốc.
Khi cuốn sách được viết và xuất bản lần đầu đặt dưới sự kiểm duyệt gắt gao của
chế độ Nga Hoàng, do vậy, để đảm bảo cho tác phẩm được xuất bản hợp pháp,
Lênin phải dùng lối nói bóng gió. Sau cách mạng tháng 10 nga, trong lời tựa viết
cho bản tiếng Pháp và Đức, ơng trình bày rõ tư tưởng của mình về sự tất yếu của
chủ nghĩa đế quốc: “ Chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng xã hội của
giai cấp vô sản”5.
Những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa đế quốc bao gồm mâu thuẫn giữa lao động
và tư bản; giữa đế quốc và thuộc địa; giữa đế quốc với đế quốc..Tồn bộ sự phân
tích về kinh tế và chính trị của Lênin trong tác phẩm đều thể hiện và chứng minh
mâu thuẫn đó. Thơng qua khái niệm: “ ăn bám, thối nát, hấp hối’ Ông khẳng định
sự diệt vong của chủ nghĩa đế quốc là không thể tránh khỏi.
Những kết luận của Lênin về địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc đã được thực
tiễn chứng minh ngay từ đầu thế kỷ 20, mở đầu bằng cách mạnh tháng mười Nga,
từ một nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên đã phát triển trở thành hệ thống xã hội chủ
nghĩa, làm thức tỉnh các dân tộc bị áp bức bóc lột vùng lên đấu tranh làm sụp đổ
chủ nghĩa thực dân cũ, làm suy yếu chủ nghĩa thực dân mới.
Tuy nhiên, thực tiễn chỉ rõ rằng, không thể nhận thức một cách đơn giản
những kết luận của Lênin về địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc. Khi nói chủ
nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản đang hấp hối, là đêm trước của cuộc cách mạng
vơ sản, điều đó khơng có nghĩa là ngay lập tức diễn ra, mà đó là cả một quá trình,
một xu thế tất yếu phải diễn ra. Mặt khác, quá trình chủ nghĩa tư bản hấp hối và
giãy chết là q trình giai cấp vơ sản phải đấu tranh quyết liệt, lâu dài, khó khăn,
gian khổ mới có thể thực hiện được mục đích của mình. Bởi vì giai cấp tư sản
khơng bao giờ từ bỏ địa vị thống trị của mình một cách tự giác, mà phải thơng qua
5

V.I Lênin tồn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 394



10
cuộc cách mạng xã hội. Vấn đề là ở chỗ, tồn bộ giai cấp vơ sản có nhận thức được
xu hướng tất yếu đó, có tạo ra và nắm bắt được thời cơ và tiến hành cuộc cách
mạng xã hội lật đỏ giai cấp thống trị, thiết lập chính quyền mới, chính quyền của
giai cấp vơ sản để xây dựng chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều đó
địi hỏi đội tiên phong của giai cấp vô sản phải tiến hành một nhiệm vụ hết sức khó
khăn, gian khổ, phải hết sức kiên trì và bền bỉ, đó là việc tổ chức tập hợp và giác
ngộ quần chúng, lãnh đạo quần chúng tiến hành cuộc cách mạng lật đổ chế độ xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới: tự do cơng bằng, bình đẳng.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, lợi dụng những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, chủ nghĩa tư bản đã có những bước tiến mới,
diện mạo của nó cũng có nhiều thay đổi, đặc biệt có những biểu hiện mới về đặc
điểm so với những năm đầu của thế kỷ XX. Người ta gọi chủ nghĩa tư bản hiện nay
là chủ nghĩa tư bản hiện đại hay chủ nghĩa tư bản tồn cầu hố, một giai đoạn mới
của chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức là chủ nghĩa đế quốc. Vấn đề nhận thức về
vận mệnh lịch sử của chủ nghĩa tư bản, dự báo về tương lai của chủ nghĩa tư bản là
một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn hàng đầu của chủ nghĩa Mác-Lê-nin.
Nó là một vấn đề khơng dễ nếu khơng nói rằng hết sức khó khăn, bởi vì đối tượng
dự báo có những vận động phức tạp. Phức tạp do bản thân nó khơng những là một
hình thái kinh tế xã hội phức tạp mà cịn vì ngày nay sự vận động của nó gắn liền
với sự vận động của nhiều hệ thống khác của thế giới đương đại như dân số, mơi
trường...do đó vấn đề nhân thức về thế giới đương đại trong đó có chủ nghĩa tư bản
hiện đại khó khăn hơn trước và điều đó chứng tỏ rằng, tuy thế giới vẫn vận động
trong tính quy luật của nó, nhưng tính quy luật đó biểu hiện ra ngày cành phức tạp
hơn, bởi vì hệ thống lớn chịu sự tác động của nhiều hệ quy luật hơn, các hệ quy
luật này lại có mơi trường tác động rộng hơn lại có quan hệ tương tác vói nhau
nhiều hơn, phát sinh các tác động đa chiều đối với các đối tượng làm cho các đối
tượng có nhiều khả năng phát triển tuỳ theo sự biến đổi của các dữ kiện tác động,
tạo ra những hậu quả bất ngờ mà mới thoạt nhìn cái ngẫu nhiên dường như áp đảo

và chi phối cái tất yếu. Thế nhưng, nhìn cho kỹ cho dù là hệ thống lớn thông qua


11
vô số cái ngẫu nhiên, thông qua sự hỗn độn, nhưng một “trật tư mới” vẫn được
thiết lập; nó khơng phải do một ý trí, một trí khơn thần bí nào mà vẫn là sự vận
động có tính quy luật khách quan của thế giới. Ngày nay tính quy luật khách quan
nằm ở tầng sâu các sự kiện cho nên khó nắm bắt hơn, nhưng bằng tư duy khoa học
con người vẫn có thể nắm bắt được và cần phải nắm bắt để làm cho hoạt động cải
tạo tự nhiên, xã hội và bản thân mình càng có tính tư giác, đem lại hiệu quả cao
hơn.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay có những bước phát triển hết sức mới, diện mạo
đã có nhiều thay đổi so với đầu thế kỷ, có rất nhiều đặc điểm mới so với đầu thế kỷ
như : sự tồn cầu hố của chủ nghĩa tư bản, các công ty xuyên quốc gia, các định
chế kinh tế và tài chính quốc tế, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước...
Có thể có một khái niệm ngắn gọn về chủ nghĩa tư bản hiện nay hay hay
không? có thể. Chúng ta có thể gọi chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản
tồn cầu hố. Đó là vì chủ nghĩa tư bản hiện đại ra đời và phát triển cùng với q
trình tồn cầu hố mới diễn ra trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, là sản
phẩm của q trình đó. Đó là một q trình kinh tế khách quan của chính nền kinh
tế tư bản hiện đại chứ chẳng phải diễn ra ở đâu đó. Đó là q trình phát triển của
các công ty độc quyền xuyên quốc gia, của các hoạt động kinh tế và tài chính, đầu
tư và thương mại tồn cầu của thế lực tư bản tài chính tồn cầu.
Cái mới đầu tiên cuả “ chủ nghĩa tư bản tồn cầu hố” là sự tồn cầu
hố về kinh tế tư bản chủ nghĩa, tiêu biểu là sự xuất hiện và hoạt động của các
công ty độc quyền xuyên quốc gia. Trong nửa sau của thế kỷ XX, các công ty
độc quyền xuyên quốc gia hình thành và phát triển một cách mạnh mẽ, tổ chức
độc quyền mới này rất đặc trưng cho chủ nghĩa tư bản tồn cầu hố. Ngay trong
nửa đầu thế kỷ XX, Lênin đã nói tới các hình thức kinh tế của chủ nghĩa tư bản
độc quyền trong thương nghiệp, cơng nghiệp, tài chính; đã nói đến hiện tượng xuất

khẩu tư bản bổ xung và xong hành với xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên vào thời đó,
các cơng ty độc quyền và sự xuất khẩu tư bản cịn bé, chưa đóng vai trị đáng kể
trong nền kinh tế như sau này, Chỉ trong nửa sau thế kỷ XX, trong những thập niên


12
cuối cùng cũa thế kỷ đó, khi xuất hiện quá trình “tồn cầu hốkinh tế ” thì sự
quốctế hố nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mới có sự phát triển bồng bột, và các công
ty độc quyền xuyên quốc gia mới trở thành hình thức độc quyền thống trị, chi phối
nền kinh tế thế giới, chi phối đầu tư và thương mại tồn cầu. Các cơng ty độc
quyền xun quốc gia phát triển chủ yếu từ những công ty độc quyền lớn của các
nước phát triển; đầu tiên từ những ngành nghề truyền thống như gang thép, ô tô,
năng lượng...rồi sau đó phát triển sang cac ngành cơng nghiệp có hàm lượng khoa
học cao, các ngành dịch vụ..Hiện nay trên thế giới có hơn 60 nghìn cơng ty xun
quốc gia với khoảng 700 nghìn chi nhánh cơng ty và công ty con, hoạt động rải ra
trong gần 200 nước và khu vực trên thế giới, hiện chiếm khoảng 2/3 mậu dịch, 4/5
đầu tư trực tiếp của thế giới, chủ sở hữu của 9/10 những thành tựu khoa học-công
nghệ, thực hiện 7/10 những cuộc chuyển nhượng công nghệ trên thế giới.
Các công ty độc quyền xuyên quốc gia phát triển đến đâu thì các ngân hàng
xuyên quốc gia phát triển tới đấy; sự hỗn hợp giữa hai tổ chức độc quyền quốc tế
này dẫn tới hình thành những tập đồn tài chính quốc tế khổng lồ. Cạnh tranh của
những gã khổng lồ này dẫn tới xu hướng đã khổng lồ lại muốn khổng lồ hơn để có
lợi thế trong cạnh tranh. Cạnh tranh gay gắt của những gã khổng lồ tất nhiên làm
điêu đứng các công ty vừa và nhỏ, làm phá sản nhiều cơng ty đó, nhưng rồi chính
q trình phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại lại làm mọc lên hàng loạt các
công ty vừa và nhỏ mới, tồn tại song song với nhiều công ty lớn vì các cơng ty vừa
và nhỏ có ưu thế : kinh doanh linh hoạt, có mặt hiệu quả kinh tế cao, giải quyết nạn
thất nghiệp cho xã hội tương đối dễ dàng.
Các công ty độc quyền xuyên quốc gia là sự gộp lại của tư bản tài chính
nhiều quốc gia; nhưng chúng vẫn có quốc tịch nhất định. Điều đó có nghĩa là thơng

thường chúng vẫn chủ yếu thuộc về tư bản tài chính của quốc gia sáng lập, hoặc có
tye lệ cổ phiếu khống chế. Chính vì như vậy, các công ty độc quyền xuyên quốc
gia thường lấy nước họ làm căn cứ địa, gắn kết chặt chẽ với nhà nước tư bản độc
quyền của mình, đồng thời hướng về cả thế giới làm địa bàn hoạt động kinh doanh.
Do mạng lưới đại diện trải ra trên toàn cầu và có sức mạnh tài chính to lớn, các


13
công ty độc quyền xuyên quốc gia thúc đẩy phân công lao động quốc tế, tạo ra
những năng lực sản xuất mới, tạo ra những lợi thế cạnh tranh to lớn. Các cơng ty
đó có năng lực mạnh tổ chức nghiên cứu khoa học, công nghệ mới và ứng dụng
nhanh chóng vào sản xuất, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn, biết khai thác
tài nguyên ở những nới có tài ngun phong phú và thích hợp; tổ chức gia cơng
chế biến sản phẩm ở những nơi có phân công phù hợp và giá rẻ, tổ chức phân phối
và tiêu thụ sản phẩm ở những khu vực có dung lượng thị trường lớn...
Như vậy, các công ty độc quyền xuyên quốc gia là là một đặc trưng riêng có
của chủ nghĩa tư bản hiện đại, là hình thức tổ chức độc quyền mà đầu thế kỷ chưa
có hoặc nếu có cũng chỉ dưới hình thức manh nha, ở trình độ thấp; là sự quốc tế
hoá của tư bản đến quy mơ cao nhất là trình độ tồn cầu. Các cơng ty độc quyền
xun quốc gia và q trình tồn cầu hoá đã làm xuất hiện các định chế kinh tế và
tài chính quốc tế như tổ chức thương mại thế giới(WTO), quỹ tiền tệ quốc tế
( IMF), ngân hàng thế giới( ƯB)...Các tổ chức đó đã làm được một số việc có ích
trong điều hồ phối hợp sự phát triển của các quốc gia, thúc đẩy sự hỗ trợ hợp
tác...thế nhưng các tổ chức đó chưa thể đóng được vai trị của các cơ quan kinh tế
nhà nước tồn cầu bởi vì sức mạnh của chúng cũng có giới hạn lại thượng bị các
nhà đầu sỏ chi phối nên không thể hoạt động một cách vô tư, khách quan được.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước cũng là một đặc điểm nổi lên trong
chủ nghĩa tư bản hiện đại.Tuy nhiên nó khơng phải là đặc điểm riêng có của chủ
nghĩa tư bản hiện đại nửa sau thế kỷ XX mà là đặc điểm chung của chủ nghĩa tư
bản độc quyền, của chủ nghĩa đế quốc. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do

cạnh tranh, nhà nước tư sản ít đóng vai trị kinh tế mà chủ yếu đóng vai trị chính
trị và pháp luật, canh giữ và bảo đảm cho xã hội tư sản có mơi trường thuận lợi để
phát triển, để tự do cạnh tranh. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc
quyền, xuất hiện hiện tượng xâm nhập về nhân sự giữa các tập đồn tài chính kếch
xù với các chính khách cầm quyền, xuất hiện vai trò mới của nhà nước trong việc
can thiệp vào kinh tế, có lợi cho các tập đồn tài chính đầu sỏ. Hoạt động kinh tế
của nhà nước tư bản độc quyền trong nửa đầu thế kỷ XX đã khá mạnh mẽ. Tuy


14
nhiên trong nửa sau của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có quy
mơ lớn hơn, hướng hoạt động đa dạng so với nửa đầu thế kỷ. Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, các xí nghiệp do nhà nước đầu tư tăng lên đáng kể.Ví dụ: ở Pháp, số
lao động trong khu vực quốc doanh chiếm 11% số lao động của cả nước,số doanh
nghiệp của nhà nước chiếm 10% số doanh nghiệp cả nước; các con số tương ứng ở
Italia là 11,5% và 8%; ở các nước Cộng hoà liên bang Đức, Bỉ,Hà Lan khoảng 89% và 5-9%. Một hiện tượng nữa là so với trước chiến tranh, chi tiêu tài chính của
nhà nước lấy từ nguồn ngân sách và các thu nhập khác tăng lên nhanh chóng. Hình
thành khu vực tài chính nhà nước trong hệ thống tư bản nhà nước và hoạt động đầu
tư của nhà nước trên tổng số vốn đầu tư của các quốc gia trên, bình quân khoảng
15-34%.Trước chiến tranh thế giới thứ hai, chi ngân sách của nhà nước chỉ chiếm
khoảng 10 GDP. Trong khi đó sau chiến tranh ,tỷ trọng chi ngân sách của 24 nước
thành viên Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD ) là 31,7% trong năm
1969 và là 39,8 % trong năm 1988.
Như vậy, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước có một diện mạo mới, xuất hiện khu vực kinh tế nhà nước, tư bản nhà nước,
đầu tư nhà nước; các mơ hình, thể chế kinh tế nhà nước cũng đa dạng ở tuỳ từng
nước như: mơ hình thể chế kế hoạch hố ở Pháp, mơ hình thể chế sở hữu ở Anh,
mơ hình thể chế nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển, mơ hình thể chế quan dân hỗn
hợp ở Nhật Bản (nhà nước và các doanh nghiệp cùng làm)…Tất cả những biến đổi
kinh tế đó được quy định bởi bối cảnh kinh tế sau chiến tranh, bối cảnh này buộc

vai trò kinh tế của nhà nước tư bản độc quyền phải tăng lên theo những hướng xác
định.
Sau chiến tranh, thế giới chia làm hai thái cực, hai hệ thống xã hội – cũng là lúc
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ được khởi động, cuộc chiến tranh kinh tế
ngày càng diễn ra gay gắt theo hướng phải tăng đầu tư và đổi mới công nghệ, từng
nhà tư bản, từng tập đồn tư bản nhỏ bé lúc đó chưa đủ sức để tiếp nhận và triển
khai cuộc cách mạng khoa học và công nghệ; chỉ nhà nước mới đảm đương được
nhiệm vụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các cơ sở khoa học và công nghệ mới. Liên


15
xơ đã có những bước tiến thần kỳ trong lĩnh vực chinh phục khoảng không vũ trụ;
vệ tinh đầu tiên, con tàu đầu tiên đi vào vũ trụ đều mang tên Nga… Tất cả hồn
cảnh đó địi hỏi các nhà nước tư bản độc quyền phải can thiệp mạnh mẽ hơn vào
kinh tế, vào đời sống nhân dân để giành ảnh hưởng với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Từ những cơ sở trên đây có thể khảng định rằng sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai các nhà nước tư bản độc quyền can thiệp sâu hơn, nhiều mặt hơn vào đời
sống kinh tế xã hội so với nửa đầu thế kỷ XX, Đó là điểm mới thứ hai của chủ
nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại là một chủ nghĩa tư bản khơng cịn hệ thống
thuộc địa (kiểu cũ cũng như kiểu mới), nhưng vẫn tồn tại một chủ nghĩa thực
dân kinh tế, chủ nghĩa thực dân của chủ nghĩa tư bản tồn cầu hố.


16

Trên thực tế chủ nghĩa tư bản hiện đại đã đạt được những thành tựu nhất
định đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, trong khi chủ nghĩa xã hội hiện thực lại đang
lâm vào khủng hoảng, thoái trào, nhng bản chất của thời đại khơng hề thay đổi.
Lồi ngời vẫn ở trong giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội.

Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở một số nớc xã hội chủ nghĩa để đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt bằng mọi thủ
đoạn( Không loại trừ sự can thiệp bằng quân sự) nhằm xố bỏ các nớc xã hội chủ
nghĩa cịn lại. Chính điều đó đã được Đại hội X của đảng khẳng định: “ Tình hình
thế giới diễn biến rất phức tạp, các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt…
Các nớc tư bản phát triển lợi dụng xu thế về tiềm lực kinh tế và công nghệ thu lợi
lớn trong q trình tồn cầu hố và gây sức ép với các nớc kém phát triển, cả về
kinh tế và chính trị”6
Do điều kiện quốc tế có những thay đổi, do giữa một số nớc xã hội chủ
nghĩa và t bản chủ nghĩa đã thiết lập quan hệ chính thức về mặt Nhà nước, có quan
hệ vừa hợp tác, vừa đấu tranh về nhiều mặt cho nên mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa t bản ngày nay biểu hiện chủ yếu bằng: “ Diễn biến hoà bình”.
Tuy hình thức có biểu hiện khác trớc, nhng cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa t bản vẫn là cuộc đấu tranh rất quyết liệt diễn ra trên phạm vi toàn thế
giới.
Chủ nghĩa t bản ngày nay, với những thành tựu đáng kể của nó, là sự chuẩn
bi tốt nhất những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới. Nhưng bớc chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải
thông qua cuộc cách mạng xã hội. Dĩ nhiên, cuộc cách mạng xã hội sẽ diễn ra bằng
6

Chuyên đề nghiên cứu NQ Đại Hội X của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 228, 229


17
phương pháp nào- hồ bình hay bạo lực, điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào những
điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nước và bối cảnh quốc tế.
Với t duy biện chứng, chúng ta khẳng định những dự báo của Lênin về sự tất
yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn trên cơ sở khoa học. Dù chủ nghĩa
tư bản ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa vẫn cịn có khả năng phát triển, biến đổi thích
nghi, nhng sớm muộn vẫn phải được thay thế bằng chủ nghĩa xã hội. Học thuyết

của Lênin về chủ nghĩa đế quốc cũng như những kết luận của người trong tác
phẩm: “ Chủ nghĩa đế quốc- giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản ” vẫn giữ
nguyên giá trị , có ý nghĩa sâu sắc trong chỉ đạo đối với cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân và các dân tộc bị áp bức bóc lột trên phạm vi toàn thế giới. Do những
hạn chế về mặt lịch sử, Lênin có thể sai khi dự đốn về thời gian diệt vong của chủ
nghĩa đế quốc nhng khơng thể sai khi kết luận về tính tất yếu diệt vong của chủ
nghĩa đế quốc. Ngày nay, khi lịch sử đã có nhiều thay đổi, việc tiếp tục bảo vệ và
phát triển những kết luận của Lênin về địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc là rất
cần thiết, nó địi hỏi chúng ta phải có cách nhìn khoa học, lịch sử và biện chứng, từ
đó thấy được bức tranh toàn diện về chủ nghĩa t bản ngày nay và giới hạn không
thể vợt qua của chúng trong q trình biến đổi, thích nghi. Cho dù chủ nghĩa xã hội
thế giới đang lâm vào thoái trào, chịu những tổn thất to lớn nhng chúng ta vẫn tin tởng vào tơng lai, loài ngời sớm hay muộn nhất định sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội.
Tác phẩm “ Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”
của Lênin là mẫu mực của sự vận dụng phơng pháp biện chứng vào việc phân tích
một hiện tợng xã hội phức tạp. Với phơng pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, sự kết
hợp chặt chẽ giữa tính lịch sử với tính lơ gích và nhiều phơng pháp khác được
Lênin sử dụng nhuần nhuyễn khiến các vấn đề dù khó đến mấy vẫn dần trở nên dễ
dàng hơn.
Tác phẩm còn trang bị cho những người cộng sản, những ngời mác xít một
cái nhìn đúng đắn về chủ nghĩa tư bản hiện đại, giúp các Đảng cộng sản hoạch
định đường lối chiến lược của mình trong quan hệ đối nội và đối ngoại nhất là
trong quan hệ với các nước cường quốc tư bản chủ nghĩa. Vận dụng và phát triển


18
sáng tạo lực lượng về thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, do Lênin
xác lập trong tác phẩm này và các tác phẩm khác, cũng như quan điểm của chủ tịch
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa tư bản và vận dụng sáng tạo sự kết hợp cách mạng giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, đồng thời căn cứ vào những điều kiện lịch
sử, cụ thể của xu thế hội nhập, tồn cầu hố, xu thế thay đối đầu bằng đối thoại,

thay xung đột bằng hợp tác đa dạng, đa phơng hiện nay, Đảng, Nhà nước ta đã đề
ra đường lối phát triển đất nớc thích hợp, tranh thủ thời cơ, từng bước khắc phục
nguy cơ, mong muốn là bạn với tất cả các nước, nhưng kiên quyết giữ vững định
hướng chính trị của mình, đó là độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
thị trường, nhiều tổ chức độ Từ chơng VII đến chơng X, Lênin phân tích và tổng
hợp tất cả những đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa đế quốc và xem xét địa vị lịch sử
của nó…
đồng thời tập trung làm rõ những kết luận của Lênin về địa vị lịch sử của chủ nghĩa
đế quốc, từ đó rút ra ý nghĩa thực tiễn đối với việc xem xét, đánh giá chủ nghĩa tư
bản ngày nay.c quyền đã ra đờiĐể làm rõ địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc ta
lần lượt nghiên cứu quan điểm của Lênin.
Trớc hết Lênin khẳng định: Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa t bản độc quyền. Ông
viết:“.. Chúng ta thấy rằng chủ nghĩa đế quốc, do bản chất kinh tế của nó, là chủ
nghĩa t bản độc quyền. Chỉ riêng điều đó cũng đủ xác định được địa vị của chủ
nghĩa đế quốc trong lịch sử vì tổ chức độc quyền xuất hiện trên cơ sở cạnh tranh
tự do và từ cạnh tranh tự do mà sinh ra, là bớc quá độ từ chế độ t bản lên mọt trật
tự kinh tế và xã hội cao hơn” 7
Độc quyền thay thế tự do cạnh tranh cịn có nghĩa là chủ nghĩa tư bản đã phát triển
đến đỉnh cao nhất và cũng là đỉnh cuối cùng. Trong giai đoạn này, do sự thống trị
của độc quyền, lực lợng sản xuất phát triển rất cao dẫn đến sự tập trung sản xuất
càng được đẩy mạnh, tạo ra tiền đề vật chất ngày càng đầy đủ hơn cho chủ nghĩa
xã hội. Độc quyền thống trị thì mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa t bản- Mâu thuẫn
giữa tính chất xã hội hố của sản xuất và hình thức chiếm hữu t nhân t bản chủ
7

V.I Lênin toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 533,534


19
nghĩa càng sâu sắc và cuối cùng sẽ tất yếu dẫn tới phá vỡ quan hệ sản xuất t bản

chủ nghĩa.
Độc quyền ra đời từ thấp đến cao, từ sản xuất đến lu thông, từ trong nớc ra phạm vi
quốc tế và thống trị toàn bộ nền kinh tế t bản chủ nghĩa. Trong sản xuất các tổ chức
độc quyền tuy chiếm số lợng ít trong tổng số các xí nghiệp nhng lại chiếm phần
lớn số lao động trong xã hội, tổ chức độc quyền sản xuất và cung cấp đại bộ phận
hàng hoá trên thị trờng đồng thời thu hầu hết lợi nhuận. Lênin viết: “ Hàng vạn xí
nghiệp thật lớn là tất cả, cịn hàng triệu xí nghiệp nhỏ chỉ là số không”và “ gần
một nửa tổng số sản xuất trong nớc mà lại do một phần trăm số xí nghiệp cung
cấp”8
Trong lưu thơng, thơng qua sự thoả thuận, ký kết, các tổ chức độc quyền thâu tóm
hầu hết thị trường hàng hoá, thị trường lao động, nguyên nhiên liệu..Từ đó, định ra
giá cả độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền cao.
Độc quyền trong sản xuất kéo theo sự ra đời của các tổ chức độc quyền trong ngân
hàng, làm thay đổi căn bản vai trò của ngân hàng và ngân hàng có vai trị mới. Sự
dung hợp giữa các tổ chức độc quyền ông nghiệp và ngân hàng hình thành nên t
bản tài chính. Sự ra đời của tư bản tài chính đảm bảo vững chắc cho các tổ chức
độc quyền trên mọi lĩnh vực của đời sống- xã hội. Tư bản tài chính thống trị tồn
bộ nền kinh tế thơng qua chế độ tham dự và chế độ uỷ nhiệm. Sự thống trị về kinh
tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị, chúng chính là những kẻ
quyết định đến đường lối đối nội và đối ngoại của Nhà nước tư sản.
Trên cơ sở thu được khối lợng lợi nhuận khổng lồ, các tổ chức độc quyền tìm cách
bành trướng sự thống trị của mình ra thế giới thơng qua xuất khẩu t bản. Sự bành
trướng của các tổ chức độc quyền ra bên ngoài tất yếu dẫn tới sự cạnh tranh quyết
liệt giữa chúng trên thị trờng quốc tế. Các tổ chức độc quyền quốc tế ra đời có ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế và chính trị thế giới, chúng ký kết phân chia ảnh hưởng
về kinh tế nh: (thị trờng hàng hoá, nguyên nhiên liệu) sau đó là sự phân chia thế
giới về mặt lãnh thổ thơng qua các cuộc chiến tranh xâm lược.

8


V.I Lênin tồn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 397, 398


20
Như vậy có thể nói rằng, độc quyền là đặc tính căn bản và bao trùm nhất của chủ
nghĩa đế quốc được nêu rõ trong tác phẩm này. Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của
chủ nghĩa đế quốc là những biểu hiện và là kết quả tất yếu của độc quyền. Độc
quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội tư bản. Đây là giai đoạn phát
triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản.
đặc tính thứ hai mà Lênin chỉ ra là, chủ nghĩa đế quốc là ăn bám và thối nát. Đó là
một đặc tính chủ yếu khác của chủ nghĩa đế quốc, nó do độc quyền sinh ra. Việc
định ra giá cả độc quyền, dù chỉ là tạm thời. song, trên một mức độ nhất định cũng
là nguyên nhân hạn chế sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và kìm hãm sự phát triển
của lực lợng sản xuất. Chủ nghĩa t bản cũng làm nảy sinh tầng lớp những kẻ thực
lợi sống bằng lối “ Cắt phiếu”, những kẻ hồn tồn khơng tham gia một doanh
nghiệp nào, chuyên “ ăn không ngồi rồi”. Nước Anh những năm cuối thế kỷ XIX,
thu nhập của những người thực lợi lớn hơn gấp 5 lần số thu nhập do ngoại thương
mang lại. Sự bóc lột thuộc địa đã trở thành nguồn làm giàu cho giai cấp thống trị ở
một nhóm nhỏ nớc đế quốc. Cuộc tranh giành thuộc địa đã đẫn đến chạy đua vũ
trang, phát triển chủ nghĩa quân phiệt, thu hút một bộ phận ngày càng lớn thu nhập
quốc dân, những cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa vừa tàn sát sinh mạng con
người, vừa huỷ hoại vô số của cải và lao động xã hội. Trong tác phẩm, Lênin đã
vạch rõ bản chất ăn bám, thối nát của chủ nghĩa đế quốc: “ Tổ chức độc quyền, bọn
đầu sỏ tài chính, xu hướng đi đến thống trị chứ không phải đi đến tự do, việc một
nhúm nhỏ những dân tộc giàu có nhất hoặc hùng mạnh nhất đi bóc lột một số
những dân tộc nhỏ bé hay yếu- tất cả những cái đó đã tạo ra những đặc điểm của
chủ nghĩa đế quốc buộc ngời ta phải gọi chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản ăn
bám và thối nát”9
Sự thống trị của độc quyền không loại trừ sự phát triển sản xuất và kỹ thuật, vì độc
quyền khơng loại trừ cạnh tranh. Do vậy, trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đồng

thời tồn tại 2 xu hướng trái ngược nhau: Xu hướng tiến bộ kỹ thuật và xu hướng
thối nát kìm hãm sự phát triển kỹ thuật. Lênin chỉ rõ: “ Nếu cho rằng xu hướng đi
9

V.I Lênin toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 535,536


21
đến thối nát đó, loại trừ sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa t bản, thì nh thế
là sai lầm. Không, trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, một số ngành cơng nghiệp
nào đó, một số tầng lớp nào đó trong giai cấp tư sản, một số nớc nào đó đều biểu
hiện hoặc ít, hoặc nhiều, khi thì xu hướng này, khi thì xu hướng kia. Xét tồn bộ,
chủ nghĩa tư bản phát triển vô cùng nhanh hơn trước, nhng nói chung thì sự phát
triển đó khơng những trở thành không đồng đều hơn trớc, mà sự phát triển khơng
đồng đều này nói riêng biểu hiện cả ở sự thối nát của các nước có nhiều tư bản
nhất( nước Anh) 10

10

V.I Lênin toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 536



×