Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

tiểu luận môn phân tích tài chính tổng quan phân tích tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 72 trang )



 !"
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Nhóm sinh viên thực hiện:
#$%&'
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
()(
*+,,-./,0!,123!'4
2
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
 +!56768,9,:;<=!0,,0!"
& +!56
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ theo
một hệ thống nhất định cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán cũng như
các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đưa ra những đánh giá chính
xác, đúng đắn về tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp
nhà quản lý kiểm soát tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn cũng như dự đoán trước những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai để đưa
các quyết định xử lý phù hợp tuỳ theo mục tiêu theo đuổi.
$ 8,9
Có rất nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kinh tế, tài chính của
doanh nghiệp. Mỗi đối tượng quan tâm theo giác độ và với mục tiêu khác khau.
Các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp bao gồm:
- Các nhà quản lý;
- Các cổ đông hiện tại và tương lai;
- Những người tham gia vào “đời sống” kinh tế của doanh nghiệp;
- Những người cho doanh nghiệp vay tiền như: Ngân hàng, tổ chức tài chính,
người mua trái phiếu của doanh nghiệp, các doanh nghiệp khác…
- Nhà nước;
- Nhà phân tích tài chính;


- …
8,>0,,0!,:;<=!0,,0! là giúp các đối tượng sử dụng
thông tin đánh giá đúng sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của
doanh nghiệp từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn phù hợp với mục tiêu mà họ
quan tâm. Vì vậy , phân tích tài chính với mỗi đối tượng sẽ đáp ứng các mục tiêu
khác nhau.
 /7?!@ABC3!DEFG;!!@5<"
Đối với người quản lý doanh nghiệp mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm
kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt
các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả
năng thanh toán nợ đến hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý doanh nghiệp phải
giải quyết ba vấn đề quan trọng sau đây :
3
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Thứ nhất : Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình sản
xuất kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai : Nguồn vốn tài trợ là nguồn nào?
Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ, nghĩa là phải
có tiền để đầu tư. Các nguồn tài trợ đối với một doanh nghiệp được phản ánh bên
phải của bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc
vay nợ dài hạn, ngắn hạn. Nợ ngắn hạn có thời hạn dưới một năm còn nợ dài hạn có
thời hạn trên một năm. Vốn chủ sở hữu là khoản chênh lệch giữa giá trị của tổng tài
sản và nợ của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp sẽ huy động
nguồn tài trợ với cơ cấu như thế nào cho phù hợp và mang lại lợi nhuận cao nhất.
Liệu doanh nghiệp có nên sử dụng toàn bộ vốn chủ sở hữu để đầu tư hay kết hợp
với cả các hình thức đi vay và đi thuê? Điều này liên quan đến vấn đề cơ cấu vốn và
chi phí vốn của doanh nghiệp.
Thứ ba : Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế
nào?

Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ đến
vấn đề quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn
liền với các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần xử lý sự lệch
pha của các dòng tiền.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi khía cạnh về tài chính doanh nghiệp,
nhưng đó là những vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ
sở để đề ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
Nhà quản lý tài chính phải chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và
dựa trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày để đưa ra các quyết định vì lợi
ích của cổ đông của doanh nghiệp. Các quyết định và hoạt động của nhà quản lý tài
chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp : đó là sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính và phá sản, có
khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hoá
chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một cách vững chắc. Doanh
nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt và mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi các quyết
định của nhà quản lý được đưa ra là đúng đắn. Muốn vậy, họ phải thực hiện phân
tích tài chính doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp là
những người có nhiều lợi thế để thực hiện phân tích tài chính một cách tốt nhất.
4
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng
thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi,
nhà quản lý tài chính có thể dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh
lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó, họ có thể định hướng cho
giám đốc tài chính cũng như hội đồng quản trị trong các quyết định đầu tư, tài trợ,
phân chia lợi tức cổ phần và lập kế hoạch dự báo tài chính. Cuối cùng phân tích tài
chính còn là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
Ngoài ra, nhà quản trị doanh nghiệp còn phải quan tâm đến nhiều mục tiêu
khác nhau như tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ, hạ chi phí thấp nhất và bảo vệ môi trường. Doanh

nghiệp chỉ có thể đạt được mục tiêu này khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và
thanh toán được nợ.
 /7?,+,!>HA7GFG;!!@5<
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn vốn,
mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính, tình
hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp Cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào
doanh nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới việc
giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp.
Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và
doanh lợi đạt được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là khả năng
tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong doanh nghiệp.
Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các
thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ
đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp; từ đó
đưa ra những quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một
dự án nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó
lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một
mức lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho
những người sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ
cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi
trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu nhập của cổ
đông bao gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị tăng thêm của cổ
phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ
tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng
5
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa các cổ đông chỉ chấp
nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị
ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để

trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu
trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu
quả của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện
phân tích tài chính.
 /7?,+,,:!I,:;FG;!!@5<
Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực
hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng sinh lợi và tăng trưởng của doanh nghiệp thì
phân tích tài chính lại được các ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng thương mại
cho doanh nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Trong nội dung phân tích này, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được
xem xét trên hai khía cạnh là ngắn hạn và dài hạn. Nếu là những khoản cho vay
ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của
doanh nghiệp, nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ khi
đến hạn trả. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả
năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ
tuỳ thuộc vào khả năng sinh lời này.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của
họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc biệt
đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh
với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới
số vốn của chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường
hợp doanh nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi theo bản
chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay dài hạn hay
ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ
mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Đối với các nhà cung ứng vật tư hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp, họ
phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay
không, họ cần phải biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và
trong thời gian sắp tới.

 /7?!@ABD;G>J!@G!@FG;!!@5<
6
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, người
được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính
của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp
có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao động.
Ngoài ra trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua
một lượng cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những người chủ doanh nghiệp
nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp.
 /7?,+,,1C;!C3!DE!A?,
Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà
nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động
kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo đúng
chính sách, chế độ và luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi phí, giá
thành, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng…
DK!: Phân tích tài chính là đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệp để:
• Thứ nhất, xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp để biết được sức
khỏe doanh nghiệp, kiểm tra sức khỏe định kỳ cho doanh nghiệp để kịp thời phát
hiện những bất ổn trong tình hình tài chính của doanh nghiệp, căn bệnh của doanh
nghiệp đang mắc phải và tìm nguyên nhân gây ra nó, làm cách nào để không còn
những bất ổn đó. Chính vì vậy, phân tích tài chính còn được ví như là hành động
thăm khám sức khỏe định kỳ cho doanh nghiệp.
• Thứ hai, đánh giá vị thế tài chính của công ty trong ngành. Việc đánh giá
vị thế của công ty trong ngành là rất quan trọng. Thông qua các phân tích tài chính
ta có thể biết được liệu một công ty có vị thế tài chính mạnh hay yếu. Doanh nghiệp
có lợi thế về việc phát hành cổ phần hay không, khả năng tiếp cận vốn vay dễ dàng
không. Ví dụ một công ty có các tài sản có giá trị và có tính thanh khoản kết hợp
với một tỷ lệ nợ trên Vốn chủ sở hữu thấp thường được xem là một công ty có vị

thế tài chính mạnh.
• Thứ ba, đánh giá tiềm năng, triển vọng phát triển của doanh nghiệp và
các rủi ro đi kèm với nó.
• Thứ tư, đánh giá thành quả hoạt động, khả năng sinh lợi nhằm giúp
doanh nghiệp xác định liệu trong những năm vừa qua doanh nghiệp hoạt động thu
được thành quả như thế nào và từ đó đánh giá doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
hay không.
7
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
• Thứ năm, hoạch định chiến lược tài chính cho doanh nghiệp. Đảm bảo
cho các quyết định của Ban giám đốc phù hợp với tình hình thực tế của doanh
nghiệp như quyết định đầu tư , quyết định tài trợ, quyết định phân phối). Mục tiêu
cuối cùng của nó là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.
Qua đó, ta thấy được ý nghĩa của việc phân tích tài chính. Công việc này
ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý, các
tổ chức công cộng. Nhất là, thị trường vốn ngày càng phát triển đã tạo nhiều cơ hội
để phân tích tài chính thực sự có ích và cần thiết trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
 +,!JF!@,:;<=!0,,0!
Nhìn chung, để nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp, thông
thường nhà phân tích cần nắm được:
- Tính thanh khoản
- Hiệu quả hoạt động
- Khả năng sinh lợi
- Sự luân chuyển dòng tiền của doanh nghiệp.
- Đánh giá triển vọng của doanh nghiệp.
Để đánh giá được một cách chi tiết và toàn diện về tình hình tài chính của
doanh nghiệp thì đòi hỏi người phân tích phải thực hiện 5 phân tích sau:
& =!0,0!;!LG3!"
Đây là việc đánh giá khả năng của một công ty có thể đáp ứng được những
cam kết của mình. Phân tích tính thanh khoản liên quan đến việc đánh giá khả năng

trả nợ và tính thanh khoản của một công ty gắn liền với những biến đổi trong thu
nhập.
Để đánh giá tính thanh khoản và khả năng trả nợ của công ty, người ta sử
dụng các tỷ số về khả năng thanh toán. Các tỷ số về cơ cấu tài chính cũng cho thấy
liệu công ty có đứng trước rủi ro tài chính quá lớn hay không? Khi được so sánh với
tỷ số của ngành hoặc đối thủ cạnh tranh, nhà phân tích có thể đưa ra nhận xét và
đánh giá về khả năng thanh toán, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp, từ đó tìm ra
nguyên nhân và giải pháp giải quyết thích đáng.
$ =!0,5C3GM>J!@"
Phân tích này giúp người phân tích đánh giá xem liệu một công ty hoạt động có
hiệu quả hay không thông qua việc xem xét hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả của
việc quản trị hàng tồn kho, khoản phải thu, vốn luân chuyển,…thông qua phân tích
các tỷ số như: hiệu suất sử dụng tổng tài sản, hiệu suất sử dụng tài sản cố định, vòng
quay hàng tồn kho, khoản phải thu, vốn luân chuyển,…
N =!0,L3!O!@.!DI"
8
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Là việc đánh giá tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư của một công ty. Quá trình
phân tích này tập trung vào các nguồn lực và mức độ lợi nhuận của công ty, đồng
thời còn liên quan đến việc nhận dạng và đo lường tác động của các nhân tố tạo ra
lợi nhuận.
Phân tích khả năng sinh lợi cũng tập trung vào những nguyên nhân gây ra biến
động trong khả năng sinh lợi và tính bền vững của thu nhập.
Trong phân tích này, người phân tích cũng tiến hành phân tích doanh thu, chi
phí, giá thành và kết quả hoạt động kinh doanh nhằm đánh giá chất lượng thu nhập
và tính bền vững của thu nhập qua tốc độ tăng (giảm), xu hướng biến động của các
chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận của doanh nghiệp, và đánh giá mức độ hiệu
quả và hợp lý trong việc tiết kiệm chi phí…
Để xem xét khả năng sinh lợi của công ty, các nhà phân tích có thể tính toán các tỷ
số: Tỷ số lợi nhuận gộp, ROA, ROE, ROS, Khi so sánh các tỷ số này qua các

năm, nhà phân tích có thể dễ dàng nhận thấy xu hướng biến động và tìm ra những
nguyên nhân gây ra biến động đó khi đi sâu phân tích.
' =!0,FP!@Q!"
Phân tích dòng tiền tập trung xem xét tình hình biến động các dòng tiền, qua
đó đánh giá khả năng tạo tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng hoàn trả
lãi vốn, khả năng chi trả cổ tức bằng tiền, gia tăng năng lực sản xuất và gia tăng
nguồn tài trợ của doanh nghiệp. Ngoài ra, thông tin về dòng tiền còn giúp ta đánh
giá chất lượng của thu nhập, sự phụ thuộc của thu nhập và các giá trị ước tính và
các giả định liên quan đến dòng tiền trong tương lai.
R =!0,S!7T!@"
Đây là bước cuối cùng trong quá trình phân tích báo cáo tài chính. Trong
phân tích triển vọng, nhà phân tích sẽ thực hiện việc dự báo bảng cân đối kế toán,
bảng báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho những năm
trong tương lai.
Phân tích triển vọng là vấn đề cơ bản của định giá chứng khoán. Bên cạnh
đó, nó còn hữu ích trong việc kiểm tra tính khả thi của các kế hoạch, chiến lược mà
công ty đang dự định thực hiện. Cuối cùng, phân tích triển vọng hữu ích đối với chủ
nợ trong việc đánh giá khả năng của công ty trong việc đáp ứng các yêu cầu của
dịch vụ nợ.
 +G,+G,0!
& 3!@,=!>/LG+!
&&U1DAI,7Q3!@,=!>/LG+!
9
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ
giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời
điểm nhất định, kết cấu làm hai phần chính, đó là: Tổng tài sản và Tổng nguồn vốn,
lập trên nguyên tắc Tổng tài sản = Tổng Nguồn vốn.
Về phía tổng tài sản, các khoản mục tài sản được sắp xếp theo mức độ thanh
khoản giảm dần. Do đó, tài sản ngắn hạn phải được sắp xếp trước tài sản dài hạn.

Trong tài sản ngắn hạn, khoản mục đầu tiên sẽ là tiền mặt, rồi đến tiền gửi ngân
hàng,
Tài sản ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn có tuổi thọ một năm hoặc ít hơn, có nghĩa là chúng có thể dễ
dàng chuyển đổi thành tiền mặt. Tài sản này bao gồm tiền mặt và tương đương tiền,
các khoản phải thu và hàng tồn kho. Tiền mặt là tài sản ngắn hạn cơ bản nhất, nó
cũng bao gồm tài khoản ngân hàng và các chi phiếu. Tương đương tiền là tài sản
rất an toàn, có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt ví dụ như trái phiếu kho bạc.
Các khoản phải thu bao gồm các khoản nợ ngắn hạn của khách hàng đối với doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp thường bán sản phẩm hay dịch vụ cho khách hàng thanh
toán bằng hình thức tín dụng, các khoản giao ước này được tính trong danh mục tài
sản ngắn hạn cho đến khi khách hàng thanh toán tiền. Cuối cùng, hàng tồn kho đại
diện cho các nguyên vật liệu, hàng hóa dở dang và hàng thành phẩm của doanh
nghiệp. Tùy thuộc vào từng doanh nghiệp, phân bổ chính xác của tài khoản hàng
tồn kho sẽ khác nhau. Ví dụ, một doanh nghiệp sản xuất sẽ sử dụng một lượng lớn
nguyên liệu thô, trong khi doanh nghiệp bán lẻ thì không sử dụng. Phân bổ hàng
tồn kho của doanh nghiệp bán lẻ thông thường bao gồm hàng hóa mua từ nhà sản
xuất và nhà bán buôn.
Tài sản dài hạn
Tài sản dài hạn là những tài sản không được chuyển thành tiền mặt một cách dễ
dàng, dự kiến sẽ được chuyển thành tiền mặt trong vòng một năm hoặc có một tuổi
thọ hơn một năm. Tài sản dài hạn được chia thành tài sản hữu hình (như máy móc
thiết bị, nhà xưởng và đất đai, ) và tài sản vô hình (như lợi thế thương mại, bằng
sáng chế, quyền tác giả, ). Tài sản vô hình không phải là vật chất, nó thường là
những nguồn có thể tạo dựng hoặc phá vỡ giá trị doanh nghiệp - ví dụ như giá trị
của một thương hiệu thì không nên đánh giá thấp về nó. Khấu hao được tính toán và
khấu trừ cho hầu hết các loại tài sản, nó thể hiện chi phí sử dụng trên thời gian sử
dụng hữu ích của loại tài sản đó.
10
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên

Về phía tổng nguồn vốn, các khoản mục nguồn vốn sẽ được sắp xếp theo thứ tự
mức độ trách nhiệm phải thanh toán của doanh nghiệp giảm dần hay thứ tự ưu tiên
thanh toán. Như vậy, các khoản nợ phải trả xếp trước, sau đó mới đến vốn chủ sở
hữu. Trong các khoản nợ phải trả, các khoản vay, nợ ngắn hạn xếp trước, vay, nợ
dài hạn xếp sau,
Các khoản nợ phải trả
Nợ là những nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp đối với bên ngoài. Giống với
tài sản, Nợ phải trả cũng có ngắn hạn và hài hạn. Nợ dài hạn là các khoản nợ và các
khoản nghĩa vụ tài chính khác mà hết hạn sau thời gian ít nhất một năm kể từ ngày
lập bảng cân đối kế toán. Nợ ngắn hạn là các khoản nợ của doanh nghiệp sẽ đến
hạn, hoặc phải được thanh toán, trong vòng một năm. Nó bao gồm cả các khoản vay
ngắn hạn hơn, như các khoản phải trả, phải nộp các tài khoản, cùng với một phần
phải trả ngắn hạn của các khoản vay dài hạn, chẳng hạn như khoản tiền thanh toán
lãi xuất gần đây nhất của khoản vay nợ 10 năm
Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là số tiền ban đầu được đầu tư vào một doanh nghiệp, thặng dư
vốn cổ phần, các quỹ,
&$V!@!,!@,W<
Nhìn từ góc độ tài chính, Bảng cân đối kế toán cung cấp cho ta những thông tin
về quyết định đầu tư và quyết định tài trợ của doanh nghiệp.
− Quyết định đầu tư thể hiện ở số liệu bên phần tổng tài sản của Bảng cân
đối kế toán, cho chúng ta thấy:
+ Qui mô đầu tư của doanh nghiệp như thế nào? Hợp lý hay không hợp lý so
với ngành nghề doanh nghiệp hoạt động, giai đoạn trong chu kỳ sống và tiềm
lực của chính nó? Qua đó, đánh giá được doanh nghiệp có rơi vào đầu tư quá
mức hay dưới mức gây tốn kém về chi phí huy động vốn hay hạn chế tiềm
lực phát triển hay không?
+ Tình hình đầu tư, mua sắm tài sản của doanh nghiệp như thế nào? Dư thừa
gây lãng phí, thiếu thốn làm cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh hay hiệu
quả? Hoạt động này sẽ làm gia tăng tiềm lực kinh tế do doanh nghiệp kiểm

soát, từ đó doanh nghiệp có thể thu được các lợi ích kinh tế trong tương lai.
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản là tiềm năng làm tăng nguồn
11
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp hoặc làm giảm bớt các
khoản tiền mà doanh nghiệp phải chi ra.
+ Đánh giá trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp và việc bố trí cơ cấu tài
sản. Tuỳ theo đặc điểm từng lĩnh vực, ngành hoạt động sẽ cho ta thấy cơ cấu
tài sản là hợp lý hay không? Trong thực tế, các doanh nghiệp sản xuất thì tài
sản cố định luôn chiếm một tỷ trọng cao hơn so với các tài sản ngắn hạn và
ngược lại đối với doanh nghiệp thương mại.
+ Sự đánh đổi giữa tiền và hàng tồn kho (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang,
hàng hóa tồn kho, ), giữa tiền và khoản phải thu. Đây thực chất là đánh đổi
giữa khả năng thanh khoản và dự trữ hàng hóa phục vụ quá trình sản xuất,
lưu thông, giữa thanh khoản và chính sách bán chịu. Nếu dự trữ nhiều, doanh
nghiệp sẽ bị ứ đọng tài sản và vốn, tăng chi phí bảo quản, tăng lãi vay ngân
hàng, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhưng nếu dự trữ quá ít sẽ dẫn đến
ngừng sản xuất, gây thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp, không chống lại
được rủi ro về giá khi giá tăng. Mở rộng chính sách bán chịu thì tăng doanh
thu, thêm khách hàng, nhưng có thể mang lại rủi ro tín dụng. Nắm giữ tiền
nhiều thì tăng tính thanh khoản, đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán
nhanh cho doanh nghiệp nhưng lại mất đi chi phí cơ hội. Việc đánh đổi này
là một vấn đề tất yếu nhưng bao nhiêu là hợp lý, không thừa hoặc không
thiếu lại là vấn đề phức tạp.
Việc đầu tư của doanh nghiệp thường liên quan đến mua:
• Đất đai, nhà xưởng và thiết bị: Những đầu tư này tạo cho doanh nghiệp khả
năng sản xuất và bán sản phẩm. Doanh nghiệp thường phải mất nhiều năm
để có thể khai thác hết tiềm năng mà họ kỳ vọng vào các tài sản này.
• Bằng sáng chế, giấy phép, và các loại quyền theo hợp đồng khác: Các đầu tư
loại này giúp doanh nghiệp có quyền hợp pháp trong việc sử dụng một số tài

sản nào đó hoặc thực hiện những công việc nào đó trong hoạt động kinh
doanh.
• Cổ phiếu thường hoặc trái phiếu của các doanh nghiệp khác: Một doanh
nghiệp có thể mua cổ phiếu hay trái phiếu của các doanh nghiệp khác (để trở
thành chủ sở hữu hoặc trái chủ của doanh nghiệp khác). Một doanh nghiệp
có thể mua cổ phiếu và giữ vài tháng khi tạm thời dư tiền mặt, hoặc có thể
12
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
đầu tư với mục đích dài hạn, chẳng hạn như để bảo đảm nguồn nguyên liệu
thiết yếu hoặc để tiếp cận một công nghệ mới.
• Hàng trong kho: Để luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu khách hàng, các doanh
nghiệp phải có một lượng hàng trong kho. Các doanh nghiệp thường không
lưu kho dài hạn những mặt hàng cụ thể mà thường nhanh chóng bán ngay
cho khách hàng. Tuy nhiên, vì cần thiết phải có một lượng nhỏ hàng dự trữ
sẵn, họ luôn dành ra một khoản tiền đầu tư cho hàng trong kho.
• Các khoản sẽ thu từ khách hàng: Khi doanh nghiệp bán sản phẩm mà không
đòi hỏi khách hàng phải trả tiền ngay, doanh nghiệp đã trợ vốn cho khách
hàng của mình. Duy trì một lượng nhất định các khoản sẽ thu có thể có ích,
nếu việc duy trì này giúp doanh nghiệp tăng doanh số và lợi nhuận. Khi cho
khách hàng nợ, các doanh nghiệp không thu được tiền mặt ngay lập tức,
nhưng nếu không làm vậy, có thể sẽ không bán được hàng. Khi không thu
ngay từ khách hàng lượng tiền cần thiết, doanh nghiệp phải có tiền từ một
nguồn khác. Do vậy doanh nghiệp cần phải đầu tư tiền để có thể duy trì
khoản sẽ thu.
• Tiền mặt: Phần lớn các doanh nghiệp giữ một phần vốn của mình dưới dạng
tiền mặt hay tài khoản séc để có thể thanh toán các hóa đơn hàng ngày.
− Quyết định tài trợthể hiện ở số liệu bên phần tổng nguồn vốn của Bảng
cân đối kế toán, cho chúng ta thấy:
+ Doanh nghiệp có sử dụng nợ để tài trợ hay không? Nếu có thì mức độ nợ
cao hay thấp, ngắn hạn nhiều hơn hay dài hạn nhiều hơn. Có phù hợp với

ngành không? Ví dụ, các công ty hoạt động trong ngành có tính mùa vụ
thường sử dụng nợ ngắn hạn, công ty trong lĩnh vực tài chính (như ngân
hàng) có đòn bẩy tài chính cao.
+ Qui mô và kết cấu của từng nguồn. Nó cho biết tình hình nguồn tài trợ của
doanh nghiệp, cơ cấu tài trợ cũng như mức độ phụ thuộc tài chính của doanh
nghiệp vào nguồn vốn bên ngoài, nói cách khác, chính là thể hiện tình hình
huy động vốn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thế
nào? Doanh nghiệp có bị hạn chế trong việc tiếp cận nguồn vốn nào hay
không? có quá lạm dụng vào nợ ngắn, nợ dài hay vốn cổ phần không? Mức
độ tự chủ về tài chính của doanh nghiệp ra sao thông qua tỷ trọng vốn cổ
phần.
13
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
+ Đánh giá mức độ bảo đảm nguốn vốn, tức là các tài sản dài hạn có được tài
trợ bởi những nguồn vốn dài hạn (nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vay nợ
trung dài hạn) và các tài sản ngắn hạn có được tài trợ bởi nguồn vốn ngắn
hạn và môt phần có thể được tài trợ bằng nguồn vốn dài hạn hay không.
Thông thường, việc doanh nghiệp dùng một phần vốn ngắn hạn để đầu tư dài
hạn là bất hợp lý, doanh nghiệp cần có biện pháp huy động thêm vốn dài hạn
để tài trợ, đây có thể là một chiến lược phá cách của doanh nghiệp nhưng nếu
vậy thì doanh nghiệp có đối mặt với bất ổn trong tình hình tài chính không?
Rủi ro của doanh nghiệp như thế nào, hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính ra
sao?
Quyết định tài trợ đến từ hai nguồn chủ yếu chủ sở hữu và người cho vay:
X :.YZ" Chủ sở hữu cấp vốn cho doanh nghiệp, để đổi lại họ nhận
những bằng chứng về quyền sở hữu của họ. Khi một doanh nghiệp là doanh
nghiệp cổ phần, cổ phiếu thường là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu của họ,
và họ được gọi là cổ đông. Doanh nghiệp không phải hoàn lại vốn cho chủ sở
hữu vào một thời điểm xác định trước. Thay vào đó, chủ sở hữu nhận được từ
doanh nghiệp lãi cổ phần, thường gọi là ,[\,. Chủ sở hữu cũng làm chủ phần

giá trị gia tăng mà doanh nghiệp có được nhờ những hoạt động có lãi trong
tương lai.
X@AB,G7;"Khác với chủ sở hữu, người cho vay cấp vốn và yêu cầu
doanh nghiệp trả lại, thường là với tiền lãi, vào một ngày xác định. Thời hạn trả
nợ có thể dài ngắn khác nhau.
+ Người cho vay dài hạn có thể cấp vốn và không yêu cầu trả trong vòng 20
năm hoặc hơn nữa. Trái phiếu thường là bằng chứng cho những khoản vay
như thế. Thỏa thuận đối với trái phiếu thường là doanh nghiệp vay hứa sẽ
thanh toán tiền lãi vào những ngày nhất định trong tương lai, còn khoản nợ
gốc sẽ được thanh trả khi hết thời hạn qui định trước.
+ Ngân hàng có thể cho vay trong thời gian vài tháng hoặc vài năm. Trong
đó doanh nghiệp cam kết trả số tiền đã vay cùng với tiền lãi theo thỏa thuận
giữa hai bên.
+ Những người cung cấp nguyên liệu thường không nghĩ là chính họ đã cấp
vốn cho doanh nghiệp.Tuy nhiên, nếu họ bán nguyên liệu thô mà không đòi
hỏi phải trả tiền trong vòng 30 ngày, nghiễm nhiên họ đã cấp vốn cho doanh
nghiệp - vì doanh nghiệp có được nguyên liệu mà không cần phải trả tiền
14
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
ngay. Tương tự, khi người lao động nhận lương hàng tuần hay hàng tháng và
khi Nhà nước qui định doanh nghiệp trả thuế hàng tháng hay hàng quý đã
cấp vốn cho doanh nghiệp do không buộc doanh nghiệp phải trả hàng giờ
hay hàng ngày.
Tóm lại, từ các quyết định đầu tư và tài trợ của doanh nghiệp, ta nhìn thấy được
quy mô, tỷ trọng của các khoản mục thành phần, từ đó đánh giá được sự phù hợp
trong quyết định tài trợ và đầu tư của doanh nghiệp. Biết được doanh nghiệp có đem
nguồn tài trợ ngắn hạn để đầu tư cho tài sản dài hạn hay không ? Vì điều này sẽ
tăng rủi ro thanh khoản cho doanh nghiệp. Ngoài ra, ta còn biết được rủi ro tài chính
mà doanh nghiệp gặp phải thông qua tỷ trọng của nợ trong tổng nguồn vốn. Ví dụ
về công ty Vinamilk năm 2013 như sau:

Nhìn vào biểu đồ, ta thấy vào năm 2013 công ty Vinamilk có nợ ngắn hạn nhỏ
hơn tài sản ngắn hạn nhưng nợ dài hạn và VCP lại lớn hơn tài sản dài hạn. Dấu hiệu
này cho thấy, năm 2013 Vinamik ở trong tình trạng không tương thích giữa tài sản
và nguồn vốn mà là lấy dài nuôi ngắn, sử dụng nguồn vốn dài hạn nhiều hơn và chủ
yếu là vốn cổ phần ==> đòn bẩy tài chính thấp đi kèm với rủi ro tài chính thấp để bù
đắp cho rủi ro kinh doanh và đây là điều thích hợp cho giai đoạn tăng trưởng của
công ty và trong môi trường đang bị cạnh tranh gây gắt như hiện nay có thể gây bất
ổn lớn trong doanh thu.
&N+,L6L7A?!@@3C
&N&+,L6L
Bên cạnh những ưu điểm lớn giúp cho Bảng cân đối kế toán trở thành một
trong những tài liệu đáng tin cậy cho nhà phân tích tài chính thì tự thân Bảng cân
đối kế toán cũng có những hạn chế lớn. Ngoài những hạn chế bắt nguồn ngay trong
quá trình hạch toán ghi chép do những nguyên tắc hạch toán kế toán khắt khe gây
15
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
nên còn do ý muốn chủ quan của người lập báo cáo. Việc nhận biết những hạn chế
này là cần thiết cho những nhà phân tích giúp họ có hướng khắc phục, giảm thiểu
những ảnh hưởng của chúng đến kết quả phân tích của mình
− Bảng cân đối kế toán không phản ánh giá trị hiện hành hay giá trị thị trường
thích hợp vì nhân viên kế toán phải tuân thủ nguyên tắc giá gốc trong việc đánh giá
và báo cáo tài sản. Nếu dự đoán có sự giảm giá dựa trên những bằng chứng đáng tin
cậy thì doanh nghiệp chỉ có thể lập dự phòng giảm giá chứ không được thay đổi
được giá trị ghi sổ. Những yếu tố tài chính bên ngoài có thể tác động đến giá trị tài
sản của doanh nghiệp như lạm phát, trượt giá, làm cho các giá trị này không còn
phù hợp với thực tế, gây ảnh hưởng đến các tỷ số liên quan đến giá trị tổng tài sản
(như hiệu suất sử dụng tài sản, ) mà nhà phân tích sử dụng, vô hình chung sẽ làm
cho những tỷ số này có thể là những số ảo.
− Có những tài sản có tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nhưng vì lý do
nào đó bị đưa ra ngoại bảng, không thể hiện trong Bảng cân đối kế toán hoặc ngược

lại, có những tài sản có mặt trong Bảng cân đối kế toán nhưng lại không tham gia
vào hoạt động như trường hợp chờ thanh lý. Những điều này cũng sẽ tác động đến
các tỷ số liên quan đến giá trị tổng tài sản (như hiệu suất sử dụng tài sản, ) mà nhà
phân tích sử dụng.
− Bởi vì giá trị tài sản vô hình rất khó tính toán chính xác nên làm cho Bảng cân
đối kế toán bỏ sót nhiều mục có giá trị về tài chính đối với doanh nghiệp như giá trị
nguồn nhân lực cùng với khả năng quản lý, những nhân tố rất quan trọng, đặc biệt
trong nền kinh tế tri thức ngày nay.
− Việc tính giá trị hàng tồn kho được áp dụng theo một trong các phương pháp
sau: theo giá đích danh; bình quân gia quyền; nhập trước, xuất trước; nhập sau, xuất
trước. Khi các phương pháp này thay đổi sẽ ảnh hưởng lớn giá trị hàng tồn kho ghi
nhận.
− Những sự đánh giá và giải quyết có tính chất nghiệp vụ rập khuôn thường được
sử dụng trong quá trình chuẩn bị lập Bảng cân đối kế toán cũng có thể làm giảm
tính hữu ích của báo cáo.
− Thông tin trên Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp thể hiện những con số tại
một thời điểm nhất định (thường là cuối năm kế toán), do vậy, nó chưa thể hiện hết
được hoạt động kinh doanh thực tế của doanh nghiệp trong suốt 1 năm. Những con
số có thể chỉ đột biến ở thời điểm lập báo cáo để đem lại kết quả tốt khi các nhà đầu
tư phân tích.
16
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Từ những hạn chế trên, để có thể phân tích có hiệu quả, nhà phân tích phải biết
vận dụng những phương pháp phân tích thích hợp và có những biện pháp xử lý các
hạn chế, thiếu sót của Bảng cân đối kế toán trong quá trình phân tích.
&N$+,]^DE
Để xử lý các khiếm khuyết này, có một số giải pháp như sau:
− Khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp thì ta nên tham khảo thêm
những báo cáo tài chính khác để cung cấp thêm những thông tin một cách chính xác
hơn, không nên chỉ dựa vào một báo cáo duy nhất. Để từ đó, người phân tích có thể

“làm sạch” dữ liệu trước khi phân tích hoặc là đưa ra các biên độ đánh giá rộng hơn
như khi yếu tố thị trường thay đổi mạnh mẽ, doanh nghiệp có tài sản vô hình lớn,
thêm vào hay bớt ra khi tính toán tài sản,
− Một cách để khắc phục khiếm khuyết thời điểm của bảng cân đối kế toán là tính
bình quân giá trị các khoản mục.
$ +G+G_3GMJ!@!`G;!
$&+!56"
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh
tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kinh
doanh.
+,F8!@"
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lãi lỗ và các chỉ tiêu khác giúp nhà quản trị
ra các quyết định trên cơ sở phân tích tình hình và kết quả hoạt động của doanh
nghiệp.
Cung cấp các thông tin cần thiết cho các tổ chức cá nhân bên ngoài doanh nghiệp
đặc biệt là khi xem xét khả năng sinh lời từ hoạt động của doanh nghiệp.
JF!@7L,W"a6N<H!
H!" Lãi lỗ: Các chỉ tiêu cần thiết về tình hình hoạt động của doanh nghiệp:
Doanh thu, Chi phí, Lợi nhuận từ:
Hoạt động sản xuất kinh doanh: Là hoạt động cơ bản, chính chủ yếu trong Doanh
nghiệp: Sản xuất, thương mại, dịch vụ.
Hoạt động tài chính: Là hoạt động góp phần sử dụng hiệu quả đồng vốn như đầu tư
mua bán chứng khoán, góp vốn, cho vay, kinh doanh bất động sản.
Hoạt động bất thường: Là những hoạt động không xảy ra thường xuyên như: thanh
lý, nhượng bán tài sản, thu được các khoản nợ khó đòi….
H!" Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước:
Thuế, Các khoản phải nộp khác…, tổng số thuế của năm trước chuyển sang.
H!" Thuế VAT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm.
17
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên

$$V!@!,!@,W<"
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát
tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì nhất
định.
Thứ nhất, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cung cấp những thông tin về thu
nhập của doanh nghiệp trong kì kinh doanh. Từ báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh cho các nhà phân tích tài chính biết doanh thu về hoạt động kinh doanh,
doanh thu về hoạt động tài chính và các hoạt đông khác. Đồng thời, báo cáo thu
nhập còn thể hiện được EBIT, EAT của doanh nghiệp trong kì kinh doanh. Dòng
cuối cùng là thu nhập sau thuế của doanh nghiệp, chỉ ra khả năng sinh lợi của công
ty.
Thứ hai, Báo cáo thu nhập còn cung cấp thông tin liên quan đến chính sách cổ tức,
thể hiện quyết định phân phối cổ tức của doanh nghiệp điều này được thông qua lợi
nhuận của cổ tức ưu đãi, lợi nhuận chia cho các cổ đông và lợi nhuận giữ lại để tái
đầu tư. Phản ánh thu nhập, mức sinh lợi của cổ đông trong thời kì xem xét.
Thứ ba, Báo cáo thu nhập còn đánh giá tình hình sử dụng đòn bẩy của công ty, việc
sử dụng đòn bẩy hay không thể hiện qua tỉ lệ chi trả lãi vay cao hay thấp trong báo
cáo thu nhập của công ty.
Thứ tư, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh thể hiện chi tiết chi phí của doanh
nghiệp trong kì. Như chi phí giá vốn hàng bán, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi
phí bán hàng, chi phí về hoạt động tài chính, và các loại chi phí phát sinh khác.
Đồng thời, từ báo cáo thu nhập cũng cung cấp tình hình nộp thuế cho nhà nước. Do
đó, các nhà phân tích tài chính cũng đánh giá khả năng quản trị chi phí của công ty:
bằng cách tính tỉ trọng của các loại chi phí so với doanh thu, ta có thể xem xét trong
100 đồng doanh thu, có bao nhiêu đồng là giá vốn hàng bán, bao nhiều đồng là chi
phí quản lý doanh nghiêp, chi phí bán hàng…. Từ những thông tin về doanh thu và
chi phí, các nhà phân tích tài chính có thể phân tích, đánh giá khả năng sinh lợi của
doanh nghiệp và đánh giá tính bền vững của lãi ròng.
Tóm lại, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cung cấp thông tin một cách đầy đủ
cho các nhà phân tích tài chính phân tích và đánh @+L3!O!@.!DI, và C

>b!<=!</ của doanh nghiệp. Để từ đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư
đúng đắn.
$N6L#A?!@]^DE
18
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính theo thời kì, cung
cấp những thông tin quan trọng, nếu không chuẩn xác sẽ gây khó khăn cho nhà
phân tích dẫn đến những sai lệch về tình hình hoạt động của công ty, từ đó không
đưa ra được các quyết định đúng. Có những tác động có thể làm báo cáo không
chính xác:
 Người lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là do kế toán lập nên tính
chính xác của báo cáo ảnh hưởng bởi tính chủ quan của người lập báo cáo.
3!O!@>Q,-!DI!K!cGE6/!,:C;!"
Lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí, từ đó, việc ghi nhận
doanh thu và chi phí có tính quyết định đến lợi nhuận báo cáo trong một kỳ
nào đó. Chế độ kế toán hiện hành quy định rằng kế toán DN phải được thực
hiện theo cơ sở dồn tích. Kế toán theo cơ sở dồn tích mang lại cơ hội cho nhà
quản trị thực hiện hành động điều chỉnh lợi nhuận nhằm đạt được một mục
tiêu nào đó, vì chế độ kế toán cũng đưa ra nhiều lựa chọn cho mỗi loại giao
dịch (đối tượng) có liên quan đến ghi nhận doanh thu và chi phí. Dưới đây là
tổng hợp các phương án có thể vận dụng để “xác lập” lợi nhuận “hành vi”
của nhà quản trị DN.
 Bị tác động rất lớn bởi chuẩn mực kế toán, nguyên tắc, phương pháp lập.
G+!cG,1.YFa!0,7LG+!cG,1.YQ!
Theo nguyên tắc lập báo cáo thu nhâp, thì kế toán phải tuân thủ nguyên tắc chung
khi lập và trình bày báo cáo tài chính, trong đó cần đặc biệt chú trọng nguyên tắc cơ
sở dồn tích. Theo cơ sở dồn tích, các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời
điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận
vào báo cáo tài chính của kì kế toán liên quan. Doanh thu được ghi nhận khi công ty
bán hàng và dịch vụ mà không quan tâm đến việc khi nào công ty sẽ thu tiền.

Tương tự, các chi phí cũng được ghi nhận phù hợp với doanh thu đã ghi nhận mà
không quan tâm đến việc khi nào công ty sẽ phải trả tiền. Để làm đẹp báo cáo hoạt
động kinh doanh một số công ty ghi nhận: doanh thu có cả doanh thu bán chịu, chi
phí bao gồm cả những chi phí không bằng tiền (như khấu hao), chi phi chưa phân
bổ, chi phí trích trước. Điều này làm lãi ròng là con số ảo , không có thật, làm ảnh
hưởng đến việc ra quyết định cho công ty.
)d;,T!<A1!@<+<LG+!: lựa chọn phương pháp kế toán có ảnh hưởng đến
thời điểm ghi nhận doanh thu và chi phí (và kết quả là ảnh hưởng đến thời điểm ghi
nhận lợi nhuận). Lựa chọn một (hoặc một số) phương pháp kế toán cho phép ghi
nhận doanh thu sớm hơn và chuyển dịch ghi nhận chi phí về sau sẽ làm tăng lợi
19
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
nhuận báo cáo trong kỳ và ngược lại. Trong chế độ kế toán DN tồn tại một số
phương pháp có thể được vận dụng để ghi nhận doanh thu, chi phí:
Ghi nhận doanh thu: DN có thể vận dụng phương pháp phần trăm hoàn thành để
ghi nhận doanh thu và chi phí trong hoạt động cung cấp dịch vụ và hợp đồng xây
dựng. Phương pháp này cho phép DN ghi nhận mức doanh thu lớn hơn hoặc nhỏ
hơn thực tế theo tỷ lệ ước tính tiến độ thực hiện hợp đồng; phương pháp xác định
giá trị hàng tồn kho (bình quân, nhập trước - xuất trước, nhập sau - xuất trước, đích
danh) ảnh hưởng đến ghi nhận giá vốn hàng bán trong kỳ, và từ đó, ảnh hưởng đến
lợi nhuận báo cáo trong kỳ; lựa chọn phương pháp khấu hao tài sản cố định. Mỗi
một phương pháp khấu hao (đường thẳng, tỷ lệ sử dụng, số dư giảm dần có điều
chỉnh) có chi phí khấu hao khác nhau. Cần lưu ý, phạm vi của lựa chọn này khá hạn
chế.
Vận dụng các phương pháp kế toán: chế độ kế toán cũng cho phép DN được phép
vận dụng các phương pháp kế toán thông qua lựa chọn thời điểm ghi nhận chi phí.
Nhà quản trị quyết định chuyển dịch về sau (hoặc ghi nhận sớm hơn) một số loại
chi phí sẽ làm giảm (hoặc tăng) chi phí của niên độ hiện hành. Các loại chi phí có
thể chuyển dịch thời điểm ghi nhận bao gồm: chi phí bảo hiểm hỏa hoạn, giá trị
công cụ, dụng cụ phân bổ nhiều kỳ, chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định, chi phí

quảng cáo, chi phí bảo hành sản phẩm. Những loại chi phí này có thể được ghi nhận
vào niên độ phát sinh hoặc phân biệt cho một số kỳ (dựa vào nguyên tắc phù hợp).
Lựa chọn thời điểm đầu tư hay thanh lý tài sản cố định: Lựa chọn thời điểm mua
hay thanh lý, nhượng bán tài sản cố định cũng có ảnh hưởng đến lợi nhuận kế toán.
Nhà quản trị DN có thể quyết định khi nào và mức độ các chi phí quảng cáo, chi phí
sửa chữa, nâng cấp cải tạo tài sản cố định được chi ra. Nhà quản trị cũng có thể
quyết định thời điểm thanh lý, nhượng bán tài sản cố định để đẩy nhanh hoặc làm
chậm lại việc ghi nhận lợi nhuận hay thua lỗ hoạt động khác. Đẩy nhanh hay làm
chậm việc gửi hàng cho khách hàng vào thời điểm gần cuối niên độ cũng có thể ảnh
hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận báo cáo trong kỳ.
Các phương án trên có thể được vận dụng tổng hợp để điều chỉnh lợi nhuận của một
hoặc một vài kỳ kế toán. Mức biến động lợi nhuận phụ thuộc vào giới hạn cho phép
(hay mức linh hoạt) của các phương pháp kế toán. Mặt khác, hướng điều chỉnh
(tăng, giảm) lợi nhuận không thể không có giới hạn vì việc điều chỉnh doanh thu và
giảm chi phí trong một (hoặc một số) kỳ này sẽ làm giảm doanh thu và tăng chi phí
20
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
trong một vài ký kế tiếp sau đó (từ đó, số trung bình của toàn bộ số lợi nhuận điều
chỉnh trong một khoản thời gian hữu hạn, thường là vài ba năm, phải bằng 0).
Tất cả những phương pháp trên đều có thể làm sai lệch báo cáo thu nhập để hạn chế
điều này, các nhà phân tích nên trích lập một khoản nợ phải thu khó đòi, làm tăng
chi phí của doanh nghiệp, nhằm mục đích bù đắp lại những khoản doanh thu bán
chịu. Lãi ròng sẽ gần với dòng tiền thuần của doanh nghiệp hơn và tiền nộp thuế
cho cơ quan nhà nước cũng it hơn. Đồng thời, khi phân tích, các nhà phân tích tài
chính phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cần phải đi kèm với phân tích
dòng tiền thuần của công ty.
$'=!0,2+G,+GLC3GM>J!@L!FG;!,:;*!;6DL$%&&X
$%&N"
=!0,2!>J!@FG;!#,<0#DI!K!e$%&&X$%&N"
;*QFG;!"

Trong giai đoạn từ 2011- 2013 doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh
tăng đều qua các năm:
3!@&"+G,+G ! !GM>J!@L!FG;!
$%&& $%&$ $%&N
Doanh thu thuần về bán hàng và
cung cấp dịch vụ 21,627,429 26,561,574 30,948,602
Doanh thu hoạt động tài chính 680,232 475,239 507,348
Thu nhập khác 237,226 350,323 313,458
S>a&"S>aS5!]A?!@2!>J!@FG;!$%&&X$%&N"
21
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Theo số liệu cho ta thấy công ty Vinamilk có tình hình sản xuất hoạt động kinh
doanh ổn định qua các năm, doanh thu của công ty tăng dần qua các năm va hoạt
động sản xuất kinh doanh là hoạt động chủ yếu. Hoạt động tài chính và khoản thu
nhập khác chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và không có biến động lớn qua các năm. Qua đây
cho ta thấy công ty Vinamilk có hoạt động sản xuất kinh doanh bền vững.
S>a$"fT!@FG;!"
*QC3!b,<0"
3!@$"=!0,,<0$%&&X$%&N
$%&& $%&$ $%&N
Chi phí bán hàng 1,438,186 1,811,914 2,345,789
22
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Chi phí quản lý doanh nghiệp 388,147 459,432 525,197
Chi phí tài chính 153,199 246,430 51,171
S>aN"fT!@,<0*!;6DL$%&&X$%&N"
S>a'"S>a]A?!@,<0*!;6DL"
Qua đồ thị và số liệu thu thập qua các năm cho ta thấy: chi phí công ty chủ yếu là
chi phí bán hàng phục vụ sản xuất kinh doanh, và chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi
phí tài chính chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm qua các năm, Chi phí tài

chính chiếm tỷ lệ nhỏ và một điều là công ty ít sử dụng đòn bẩy tài chính, điều này
23
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
được thể hiện qua chi phí thanh toán lãi vay của công ty thấp. Công ty sử dụng
nguồn vốn nội bộ là chủ yếu, điều này cũng phù hợp với giai đoạn phát đoạn tăng
trưởng của Vinamilk. Chi phí bán hàng có tăng theo tỷ lệ tăng doanh thu của công
ty nên đây không phải là điều đáng lo ngại. Chi phí quản lý doanh nghiệp hầu như
ổn định, ít biến động qua các năm.
*QDI!K!"
Nhìn chung xu hướng lợi nhuận công ti có xu hướng tăng và chủ yếu là từ lợi nhuận
hoạt động kinh doanh.
Qua việc phân tích doanh thu, chi phí, lợi nhuận của công ty cho ta thấy công ty có
khả năng sinh lợi tốt.
Tuy nhiên để đánh giá được chất lượng của lãi ròng chúng ta phải so sánh lợi nhuận
này với dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh, phần này chúng ta sẽ cùng phân
tích báo cáo dòng tiền của công ty trong phần tiếp theo.
N+G,+GDA,S!Q!5
N&g,>S6,:;2+G,+GDA,S!Q!5
N&&+!567.dL+,25.G7?,+,2+G,+G,0!L+,
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn được gọi là báo cáo luồng tiền. Thực chất báo cáo
này cho chúng ta biết các luồng tiền vào và các luồng tiền ra trong một kỳ của đơn
vị, từ đó so sánh để biết trong kỳ đơn vị đã tạo ra bao nhiêu tiền, đã sử dụng bao
nhiêu tiền, tiền được tạo ra từ hoạt động nào và tiền được sử dụng vào hoạt động
nào của đơn vị. Đây là một báo cáo mà các chủ nợ và các nhà đầu tư rất quan tâm,
24
Bài thuyết trình: Tổng quan phân tích tài chính GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
bởi vì đơn vị không chỉ cần hoạt động có lãi mà còn phải tạo ra tiền nữa, nếu không
khả năng thanh toán của đơn vị sẽ không đảm bảo. Nếu hoạt động của đơn vị không
tạo ra lợi nhuận thì sẽ làm giảm dần vốn kinh doanh, nếu đơn vị không tạo ra tiền
thì dần dần đơn vị sẽ mất khả năng thanh toán và kết quả là trong cả hai trường hợp

đơn vị đều sẽ có nguy cơ đi đến phá sản.
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và bảng cân đối kế toán dựa vào phương
pháp hạch toán thực tế phát sinh, nghĩa là doanh thu và chi phí được hạch toán vào
thời điểm bán hàng ngay cả nếu chưa có trao đổi tiền mặt. Trái lại, báo cáo lưu
chuyển chỉ hạch toán những giao dịch trong đó có trao dổi tiền mặt. Ví dụ, nếu bây
giờ hàng hóa được bán ra nhưng việc thanh toán sẽ đến hạn sau 60 ngày, báo cáo
kết quả kinh doanh sẽ xem như là doanh thu đã được tạo ra khi việc bán hàng được
thực hiện và bảng cấn đối kế toán sẽ ghi nhận ngay lập tức vào khoản phải thu,
nhưng báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ không ghi nhận giao dịch này cho đến khi hóa
đơn được thanh toán và tiền mặt được trao tay.
+ Điểm khác biệt lớn giữa BC KQHĐKD và BC LCTT là liên quan đến khấu hao,
với việc cộng trở lại phần giá trị khấu hao vào thu nhập ròng trong BC lưu chuyển
tiền tệ. Do chi phí khấu hao không được coi là chi phí thực chất chi ra bằng tiền
mặt. Mặt khác, khoản chi phí này đã được ghi nhận toàn bộ trong phần dòng tiền từ
hoạt động đầu tư khi bắt đầu mua tài sản này.
 Do đó, lãi ròng trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể khác so với
dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh.
N&$Wh,,:;2+G,+GDA,S!Q!5
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm 3 thành phần:
+ Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh: Luồng tiền phát sinh từ hoạt động kinh
doanh là luồng tiền có liên quan đến các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của
doanh nghiệp, cung cấp thông tin cơ bản để đánh giá khả năng tạo tiền của donah
nghiệp từ các hoạt động kinh doanh để trang trải nợ, duy trì hoạt động, trả cổ tức và
tiến hành các hoạt động đầu tư mới mà không cần đến nguồn tài chính bên ngoài.
+ Lưu chuyển từ hoạt động đầu tư: Luồng tiền phát sinh từ hoạt động đầu tư là
luồng tiền có liên quan đến việc mua sắm, xây dựng, nhượng bán, thanh lý tài sản
dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền.
25

×